Thạch Hãn
ĐÔNG TIẾN ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN, MỒ CHÔN “KHÁNG CHIẾN QUÂN” CÙNG
ĐẨY HỌ VÀO VÒNG LAO LÝ:
Cuối mùa thu năm 1982 ông Bùi Minh Đoàn một cán bộ cao cấp của đảng Việt Tân từ Nhât vào khu chiến cùng với “chiến hữu chủ tịch “Hoàng Cơ Minh ban huấn lệnh kháng chiến và cương lĩnh chính trị của Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng gọi ngắn là Việt Tân.
Năm 1984 cán bộ Việt Tân Võ Hoàng từ Hoa Kỳ đến khu chiến để phát động
“Việt Tân hoá khu chiến” để tiến hành chiến dịch Đông Tiến, chiến dịch này đều
do Cán bộ đảng Việt Tân (VT) lãnh đạo và quyết định. Do đó những trách
nhiệm có liên quan đến sinh mạng của con người những cán bộ Việt Tân hiện tại
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đứng đầu là ông Bùi Minh Đoàn tức Lý Thái
Hùng trong vai trò Tổng Bí Thư đảng VT.
Một câu hỏi mà đã từ lâu nhưng cán bộ Việt Tân dù cho hai phe “chính thống, hay
chệch hướng” vẫn ngậm miệng thu tiền đó là câu hỏi là : tại sao MT
HCM và đảng Việt Tân cho tiến hành chiến dịch Đông Tiến và ba đoàn “kháng
Quản” biết rằng sẽ đưa vào tử lộ những vẫn cứ tiến hành để
tiêu diệt trăm mạng sinh linh cùng hơn trăm người vào vòng lao
lý???
Nhưng dư luận thì cho rằng: Năm 1984 sự thật bên trong dối trá lường gạt
được phơi bày ra ánh sáng, MT và VT sợ nguồn tài chánh thu nhập không trù
phú như trước kia, cho nên cố tiến hành Khán Quản cũng như Đông
Tiến để gây tiếng vang. Không ngoài mục đích lường gạt tiền bạc, lòng tin cũng
như những người nhẽ dạ đem sinh mạng ra giao cho giặc khăn rằng Hoàng Cơ Minh.
Những tổn thất về nhân mạng trong “Đông Tiến 1” sau đây là danh sách
những “kháng chiến quân” bị chết bởi nhiều hình thức cũng như bị VC bắt
cho vào tù:
Ghi chú :
(Danh sách này chỉ những KCQ tham gia đợt Đông Tiến 1 lần một , vào
cuối mùa mưa 1985, không nằm trong danh sách bị MT giết và mất tích bài trước
đã đăng)
1- Tướng Dương Văn Tư, tư lệnh phó khu chiến (Tướng DVT nguyên sĩ quan
cấp tá binh chủng dù QLVNCH đến khu chiến từ Hoa Kỳ). Hy sinh.
Danh sách Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch Đông Tiến
2- Lâm Thao, Việt kiều định cư tại Nhật vào khu chiến, cựu sĩ quan cấp úy
binh chủng Thủy Quân Lục Chiến QLVCCH. Hy sinh.
- Huỳnh Trọng Hà cựu sĩ quan TQLC quân lực VNCH định cư tại Nhật vào khu chiến
tham gia Đông Tiến. Hy sinh.
4- Nguyễn Văn Sợi, vào khu chiến từ trại tỵ nạn đường bộ Sikhiu tham gia Đông
Tiến . Bị VC bắt tù 15 năm tại trại Z-30 Hàm Tân.
5- Nguyễn Xuân Lượng vào khu chiến từ trại dường bộ Sikhiu tham gia Đông Tiến .
Hy sinh.
6- Lâm Quốc Thái, cựu sĩ quan cấp úy binh chủng dù QLVNCH, vào khu chiến từ khi
mới thành lập, tham gia Đông Tiến . Hy sinh.
7- Nguyễn Văn Lắm, vào khu chiến từ trại tị nạn đường bộ, tham gia Đông
Tiến. Hy sinh.
Danh sách Kháng Chiến Quân Tham Gia Chiến Dịch Đông Tiến 1 bị Việt cộng
giết hoặc bị bắt tù đày nhiều năm:
NHẬN ĐỊNH VỀ NGUYÊN NHÂN CHÍNH ĐƯA ĐẾN SỰ THẤT BẠI THÊ
THẢM CỦA ĐÔNG TIẾN 1
- Điệp viện VC nằm trong tổ chức khu chiến MT
2- Đoàn quân lọt vào ổ phục kích của bộ đội VC, chúng tàn sát dã man,
truy sát ngày đêm không ngưng nghỉ với hoả lực tối tân hùng mạnh.Lực lượng tập
trung CS là cả tiểu đoàn so với 30 kháng chiến quân vũ khí thô sơ kể cả
tầm vông vạt nhọn.
3- Hành trình xa xôi, không hướng dẩn viên, không rành địa hình địa thế, không
đủ lương thực,không thuốc men. Không có trại tiếp tế, điểm đến mơ hồ bất định.
Không có tiền trạm, hổ trợ dọc con đuờng hành trình đầy gian nan, rừng núi hiểm
trở, không có bản đổ, địa bàn…
4- Sức chịu đựng của đoàn quân “tạp nhạp ô họp” không được sự huấn luyện thuần
thục để chịu đựng bền bỉ như thời QLVNCH….
Với những yếu tố nêu trên đoàn quân “Đông Tiến 1” tất cả đều bị VC giết chết ,
bị chết đói, bị kiệt sức bị VC bắt bỏ tù….
Chiến dịch Đông tiến 1 hoàn toàn thất bại,nạn nhân là những người
nhẹ dạ. Họ đã ngây thơ tin lời đường mật của những tên lưu manh. Thân xác những
“kháng chiến quân” càng ngã gục nơi núi rừng hoang vu Thái, Lào, Miên thì
nơi hải ngoại, cán bộ cao cấp Mặt Trận sắm bao bố đựng tiền qua chiêu bài lường
gạt “ mua vũ khí 10 ngàn tay tay súng” nơi khu chiến.
Qua danh sách trên chắc quý độc giả, quý bậc trưởng thượng nhất
là những vị am tường binh pháp với con số 50 “kháng chiến quân”
ô hợp, không kinh nghiệm chiến trường, không súng đạn tối tân … đem đi đối đầu
với những sư đoàn của CSVN đóng dầy đặc trên lãnh thổ Miên Lào, thì
là một thủ đoạn tàn ác của lãnh đạo MT và VT, coi mạng người như cỏ rác, để tạo
“hào quang” nhằm mục đích thu tiền thật nhiều.
Sau thất bại đông tiến 1 , đảng Việt Tân chỉ thị cho lãnh đạo khu chiến tiếp
tục vào trại tỵ nạn đường bộ chiêu dụ thêm nhân lực để tiếp tục lên đường Đông
Tiến
Thạch Hãn
11-5-2013
------------------------------------------------
Những Sự Thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh
- Hoàng Cơ Minh đã
chết như thế nào ?
- Các tướng Thái khai
thác “dịch vụ kháng chiến” ra sao ?
- Ai chủ trương Khủng
Bố người làm báo ?
- Nhóm Nguyễn Đồng Sơn
và những mưu đồ mới.
Nguyễn Toàn
Trước khi nói đến cái
chết của ông Hoàng Cơ Minh, thiết tưởng cần phải lội ngược lại thời gian, khi
“Mặt Trận” được thành lập, và những hoạt động của nó, để từ đó đưa đến cái chết
tăm tối của người đứng đầu tổ chức từng được xảo thuật tuyên truyền của “Mặt
trận” đưa lên cao như một vị anh hùng dân tộc.
Từ Thu Tiền Ở Hải
Ngoại, Đến “Chiến Khu Quốc Nội”
Thật ra, vào năm 1982,
khi hai ông Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu dựng ra “Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhất Giải Phóng Việt Nam” (MTQGTNGPVN), thì nhóm này chỉ đưa được có 8 (tám)
người về Thái Lan. Nhưng, nhờ biết cướp thời cơ lúc tinh thần người Việt lưu
vong đang lên cao, và nhất là nhờ những xảo thuật tuyên truyền lừa bịp như mấy
phút phim video “Đông Tiến” dàn cảnh ở Thái Lan, “Mặt Trận” đã đưa “uy tín” của
“Chủ tịch Hoàng Cơ Minh” và phe nhóm lên rất cao.
Trong khi “chiến khu
quốc nội” chỉ có trên phim video, thì tại hải ngoại, “Phong Trào Yểm Trợ Kháng
Chiến” do ông Phạm Ngọc Lũy chủ xướng tha hồ thu góp tiền bạc, các “cán bộ lãnh
đạo Mặt Trận” trở thành những “quan lớn phục quốc” và hách dịch. Đoàn viên “Mặt
Trận” thì vênh váo, làm như là sắp giải phóng được đất nước tới nơi và sắp đè
đầu, cưỡi cổ thiên hạ. Đây là giai đoạn cực thịnh của nhóm Minh-Liễu, vì đã
thành công trong việc đánh lừa được đa số người Việt tỵ nạn, khiến một số ít
người phát giác được trò lừa bịp của “Mặt Trận” có nói lên cũng không mấy ai
tin, mà còn bị chụp mũ là Việt cộng, hoặc bị khủng bố…
Năm 1983, ông Hoàng Cơ
Minh từ “chiến khu quốc nội” về Hoa Kỳ với chiếc khăn rằn quàng cổ để mở “Đại
Hội Chính Nghĩa”, tuyên bố là đã “thống hợp được 36 (ba mươi sáu) tổ chức kháng
chiến gồm 10,000 (mười ngàn) tay súng ở quốc nội”, nhưng sự thật “chiến khu”
này chỉ là một mảnh rừng ở Buntharit, thuộc tỉnh Uborn, được viên tướng Thái
Sút-Sai, Tư lệnh đơn vị 309 Tình báo làm ngơ cho sử dụng với số tiền “trà nước”
lúc đầu khoảng 2,000/ 3,000 đô la Mỹ, và phải đóng “hụi chết” hàng tháng
từ một tới ba ngàn Mỹ kim, chưa kể quà cáp biếu xén các bà tướng, bà tá
“nước bạn”.
“Chiến khu” này, chính
là nơi đã được nhóm Minh-Liễu dùng để khai sinh “MTQGTNGPVN” vào ngày 8.3.1982,
công bố “Cương lĩnh chính trị” kêu gọi “người người nổi dậy, nhà nhà thành công
chiến đấu chống lại bạo quyền cộng sản”. Tuy trình diễn rình rang và hô hào đao
to búa lớn như vậy, nhưng thực ra như trên đã nói, cán bộ nòng cốt của “Mặt
Trận” tại “chiến khu” không quá 8 (tám) người (trong đó, có Hoàng Cơ Minh, Lê
H., Nguyễn kim H., Nguyễn Trọng H. Lạc), còn các “kháng chiến quân” xuất hiện
trong video hầu hết là… thuê của Thái Lan!
Tàn Ác và Sắt Máu
Tuy số cán bộ của “Mặt
Trận” tại “chiến khu” đếm không đủ mười đầu ngón tay, nhưng Hoàng Cơ Minh đã
phong tướng… không quân cho tả hữu. Cựu Trung tá Nhảy dù Lê H., bí danh Đặng
Quốc Hiền, được phong “Tướng Tư lệnh Lực lượng Kháng chiến”, cựu Đại tá Dương
Văn Tư (gia nhập “Mặt Trận” từ trại tỵ nạn Thái Lan) được phong “Tướng Tư lệnh
Chiến khu (ở Uborn), ông cựu Trung úy Phòng 7 Bộ Tham Mưu Nguyễn Trọng H., bí
danh Huy, được thăng “Đại tá Tư lệnh phó Lực lượng Vũ trang. Huy có một Album
hình ảnh “Lễ Tuyên Bố Cương Lĩnh Mặt Trận” và sinh hoạt ở “chiến khu” đem vào
các trại tỵ nạn để tuyên truyền và tuyển mộ quân.
Trong thời gian
1982-1983, có hai người Việt làm việc cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok là các ông V.
và N., đã giúp nhóm Hoàng Cơ Minh rất nhiều. Tuy nhiên, sau một thời gian sôi
nổi lúc đầu, những người có mặt tại Thái Lan đã thấy rõ hơn ai hết chân tướng
của phe nhóm Hoàng Cơ Minh, nên ai có thể xa lánh dược, thì xa lánh, ai bị
“kẹt” thì bất bình và bất mãn. Để trấn áp các sự phản kháng và ngăn chận “đào
ngũ” Hoàng Cơ Minh đã cho thi hành kỷ luật thép, và hơn thế nữa, đã dùng sự tàn
ác sắt máu đối với những người bất tuân phục. Không kể một số thanh niên vô
danh theo “Mặt Trận” từ các trại tỵ nạn, sau đó, đã bị thủ tiêu vì định bỏ
“chiến khu”, còn những cái chết bí ẩn của một số người được dư luận biết đến.
Được nói tới nhiều nhất là cái chết của Kỹ sư Ngô Chí (Trí) Dũng, một thanh
niên trí thức đầy nhiệt huyết đã bỏ đời sống êm ấm tiện nghi ở Nhật Bản đi theo
“Mặt Trận”, người đóng góp rất nhiều cho “Mặt Trận” và cũng là người đã nuôi
dưỡng “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh” lúc còn bôn ba… ăn nhờ ở đậu tại Nhật. Ông Dũng
đã tới sống tại “chiến khu” và rồi không biết chuyện gì đã xẩy ra, mà sau đó,
ông Dũng bị giết chết hết sức bất ngờ, xác được vùi ở một khu rừng chồi tại
Buntharit. Một người khác là bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, một cựu sĩ quan trợ y
trong QLVNCH được “Mặt Trận” tuyển mộ tại trại tỵ nạn, và thăng chức bác sĩ.
Ông Nhiều đã bị “Mặt Trận” xử tử. Chưa kể Đại tá Dương Văn Tư chết vì bệnh hoạn
và thiếu dinh dưỡng, ít nhất cũng có ba người bị thủ tiêu tại “chiến khu” trong
một thời gian ngắn.
Cái chết của Hoàng Cơ
Minh
Vào năm 1985, khi tại
Hoa Kỳ, cánh Phạm Văn Liễu, Trần Minh Công tách ra khỏi “Mặt Trận” và những
mánh lới lừa bịp nhằm moi tiền đồng bào được chính các thủ phạm vạch áo cho
người xem lưng, thì cũng là lúc tại Thái Lan, nhà cầm quyền nước này làm khó
dễ, trục xuất toàn bộ nhóm Hoàng Cơ Minh về Mỹ (trong đó có Hoàng Cơ Minh,
Nguyễn Kim H. Nguyễn Trọng H…). Thật ra, Hoàng Cơ Minh không mấy khi có mặt tại
Thái Lan. Thỉnh thoảng Hoàng Cơ Minh có qua Thái Lan, nhưng thường ở căn nhà
tại khu Sảm-Sẻn, được gọi là “Hậu trạm”, chứ ít khi ông ta xuất hiện tại “chiến
khu”.
Khi xảy ra vụ các
“chiến hữu” chia ra hai phe bôi mặt đá nhau vì ăn chia không đồng đều và “Mặt
Trận” đang trên đà tan rã thì Hoàng Cơ Minh ở luôn tại San Jose, Bắc
California, thỉnh thoảng tới họp với các “xứ bộ” còn trung thành để làm ra vẻ
“Mặt Trận” vẫn còn mạnh lắm. Ông ta mặc đồ lớn, chứ không còn mặc áo bà ba,
cuốn khăn rằn ở cổ nữa!
Trong khi đó, “chiến
khu quốc nội” tại Thái Lan lâm cảnh rắn không đầu, và bị “đuổi nhà” nên tự động
tan rã, và còn một ít người vì lý do này hay lý do khác phải sống chết với “Mặt
Trận” thì di chuyển lên vùng Udon.
Gần cuối năm 1987, sau
khi tạm “củng cố hàng ngũ” còn lại ở quốc ngoại, Hoàng Cơ Minh lại vận động đút
lót để được trở lại “quốc nội Thái Lan” nhưng vừa đặt chân đến đất Thái, ông ta
đã nhận được lệnh của viên tướng Svet, Tư lệnh vùng biên giới, bắt phải đổi căn
cứ lên miền Bắc Thái. Hoàng Cơ Minh không còn cách nào khác hơn là phải tuân
lệnh viên tướng Thái này, một lần nữa phải di chuyển căn cứ từ Udon lên Bắc
Thái với dự định lập căn cứ mới tại khu Bukdahan, sát biên giới Thái-Lào. Chính
trong cuộc di hành này, mà Hoàng Cơ Minh đã bị một số “kháng chiến quân” bắn
chết. Bốn người trong số “kháng chiến quân” từng bị Hoàng Cơ Minh bỏ rơi ở Thái
Lan từ năm 1985, với sự xúi dục của tên Lưu Tuấn Hùng đã bất ngờ rút súng
bắn sả vào Hoàng Cơ Minh trong lúc đang đi dọc đường. Cần mở một dấu ngoặc ở
đây để nói thêm về Lưu Tuấn Hùng. Y là một tên gián điệp Việt cộng dưới quyền
điều khiển của Trung tá công an Việt Cộng “Việt Dũng” thuộc “Sở công an
TP Hồ chí Minh”, được gửi đi vượt biên với ý đồ trường kỳ mai phục hoạt động
trong các lực lượng chống cộng ở hải ngoại. Năm 1983, Lưu Tuấn Hùng được cựu
Trung tá Nguyễn văn H. người từ trại tỵ nạn Sikiew ra làm việc cho cơ quan tình
báo Hoa Kỳ ở Aranya Prathet đưa ra khỏi trại để điều tra và định dùng y xâm
nhập Việt Nam, nhưng rồi kế hoạch không được thực hiện. Hùng được trả về trại
Sikiew. (Ông NVH hiện cư ngụ ở Virginia. Vài tháng sau, người ta thấy Nguyễn
Kim H. và Nguyễn Trọng H. đến trại tiếp xúc với Lưu Tuấn Hùng và kết nạp y làm
“Đại diện Mặt Trận” tại Sikiew. Hắn đã mua chuộc được sự tín nhiệm của Hoàng Cơ
Minh và được ông này sử dụng làm “tùy viên”. Chính Lưu Tuấn Hùng đã
xúi dục bốn người khác giết chết Hoàng Cơ Minh để đoạt hai ký lô vàng mà ông
này mang theo định để đút lót các viên chức Thái trong việc
lập lại “chiến khu” mới.
Sau khi Hoàng Cơ Minh
“chết”, nhóm người đi theo ông ta (độ 60 người) sợ bị Thái Lan bắt trừng trị,
nên không còn con đường nào khác hơn là tạm thời vượt sông Mekong kéo nhau sang
Nam Lào, không may lọt vào ổ phục kích của Lào Cộng, bị sát hại một số, còn một
số bị bắt làm tù binh Việt Nam, trong số này có cả Lưu Tuấn Hùng. Bởi vậy,
người biết chuyện không hề ngạc nhiên khi được tin “Tòa án nhân dân TP Hồ
chí Minh” chỉ xử Lưu Tuấn Hùng tù treo! Một chế độ cộng sản sắt máu không bao
giờ xử án treo kẻ đã vượt biên trốn ra khỏi nước, gia nhập lực lượng kháng
chiến và trở về chống phá chúng bằng vũ khí. Trừ khi kẻ ấy là người của chúng
cài vào. Chi tiết về cái chết của Hoàng Cơ Minh đã được một số sĩ quan cao cấp
Thái, trong đó, có Đại tá Thamasak thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 80 ở vùng
biên giới Prachinburi, xác nhận với kẻ viết bài này.
Nhóm Nguyễn Đồng Sơn
và những mưu đồ mới:
Sau khi Hoàng Cơ Minh
chết, MTQGTHGPVN không dám công bố tin tức này, vì sợ “Mặt Trận” tan rã và hơn
nữa sợ nội bộ sẽ xâu xé nhau để giành giựt tiền bạc vì nhờ số tiền bịp bợm
quyên góp được của đồng bào khắp nơi trong mấy năm, “Mặt Trận” đã sử dụng để
kinh tài dưới nhiều hình thức như:
Hệ thống Phở Hòa, hệ
thống Phở Bằng, hệ thống tàu đánh cá, hệ thống xuất nhập cảng hàng Á châu (nhất
là thực phẩm), tiệm bida, mua nhà cho thuê… sau nhiều năm đã sinh lợi rất
nhiều.
Vào tháng 5.1988 vừa
qua, Nguyễn K.H., bí danh Nguyễn Kim, “Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại
MTQGTNGPVN” đã cùng N.X.N, bí danh Nguyễn Đồng Sơn, trở lại Thái Lan (nhờ móc
nối với một sĩ quan cấp tướng của Thái, đút lót tiền nhiều để xin được đỡ đầu)
để vận động lập lại “chiến khu quốc nội mới” và sẽ tiếp tục xin phép vào các
trại biên giới (các trại đang bị Thái chèn ép bắt giam và đòi trả về Việt Nam)
để tuyển mộ người (những người trong các trại này đang sống trong tình trạng
tuyệt vọng, dễ bị quyến dụ đi theo).
Với sự đút lót và vận
động của Sơn-Kim, viên sĩ quan cấp tướng của Thái Lan đang định thúc ép nhóm
“kháng chiến” của Thái Quang Trung phải sáp nhập với nhóm của Sơn-Kim để thành
lập lại trại Bukdahan. Sau khi đã có trại mới, có một ít quân, họ sẽ xúi dục
những người này bịa ra câu chuyện chiến đấu ác liệt với cộng sản và nhân đó, sẽ
công bố cái chết của Hoàng Cơ Minh. Họ cũng đã chuẩn bị đưa phó Đề Đốc Hải quân
Đinh M.H. lên làm “Chủ tịch Mặt Trận.
Tông tích Nguyễn Đồng
Sơn không còn lạ gì đối với các tổ chức chống cộng ở hải ngoại, cũng như với cơ
quan an ninh Thái Lan. Y là cháu ruột của Nguyễn Xuân Cúc, bí danh Mười
Cúc, tức Nguyễn Văn Linh, đang là chúa trùm đảng cộng sản Việt Nam.
Trước 30.4.1975,
Nguyễn Đồng Sơn cùng cánh với Nguyễn văn Hảo. Sau khi cộng sản chiếm đoạt miền
Nam, Nguyễn Đồng Sơn cũng đã cùng Hảo giúp cho Việt cộng tiếp thu của cải và
“quản lý” kinh tế miền Nam, sau đó, cả hai được Việt cộng cho rời Việt Nam sang
Pháp theo đường chính thức. Năm 1983, Nguyễn Đồng sơn đã sang Hoa Kỳ tìm cách
xâm nhập “Mặt Trận” và mua được lòng tin cậy của mấy anh em Hoàng Cơ Minh.
Nhóm Thái Quang Trung
(con của cụ Thái Văn Kiểm) tuy có nhận sự trợ giúp của Tầu Cộng, nhưng các
“kháng chiến quân” sống tại căn cứ Bukdahan cũng rất thiếu thốn cực khổ, và
không có tiền mặt để đút lót cho tướng, tá Thái Lan, nên có thể phải nhập với
“Mặt Trận” của Sơn-Kim để có thêm phương tiện và nhân sự hầu làm vừa lòng các
tướng tá Thái Lan, để được yên, bằng cách canh chừng biên giới và xâm nhập lãnh
thổ Đông Dương thâu thập tin tức tình báo cho Thái. Nếu dự định này thành tựu
thì sau Hoàng Cơ Minh, “Mặt Trận” của Kim-Sơn sẽ trình diễn một màn lừa bịp thứ
hai.
Tiếp tục Khủng bố
Từ ngày “Mặt Trận” ra
đời đã xảy ra nhiều vụ Khủng Bố nhắm vào các phần tử Quốc Gia, đặc biệt là
những người cầm bút, trong giới người Việt lưu vong tại Mỹ. Từ đe dọa, đến ám
sát, đốt nhà… Những người bị Khủng bố đều có chung một “tội” là không chịu hùa
theo đồng lõa với những trò lừa bịp của “Mặt Trận”, nên dù không tìm ra thủ
phạm, dư luận vẫn biết ai đã chủ mưu những vụ này.
Một hôm vào trung tuần
tháng 5.1988, nhân dịp Sơn và Kim đến Bangkok, nhờ tình cờ nghe được câu chuyện
trao đổi giữa hai đoàn viên “Mặt Trận”, kẻ viết bài này càng tin thêm là dư
luận đã không sai lầm.
Hôm ấy, kẻ viết bài
này đang ngồi trong một Snack bar ở đường Sukhumvit, Bangkok, một nơi dành cho
người ngoại quốc du hí, thì gặp hai người Á châu có đeo huy hiệu “Mặt Trận”
trên ve áo vest. Người viết tảng lờ như không biết họ là người Việt Nam, ngồi
tán tiếng Thái với cô cashier, trong khi vẫn lắng nghe và để ý dò xét hai người
này. Một trong hai người dè dặt đưa mắt nhìn người viết rồi nói gì đó với bạn
đồng hành. Sau đó, một người giả bộ cầm điếu thuốc lá sang hỏi người viết xin
mồi lửa bằng tiếng Việt. Người viết cũng phải đóng kịch bằng cách ngẩn tò te
như không hiểu hắn nói gì và hỏi lại bằng một tràng tiếng Thái:
- Tôi không hiểu ông
nói gì? Tôi là người Thái. Bộ ông là người Nhật hả? Tôi không biết tiếng Nhật.
Y cười, nói với tôi
bằng tiếng Anh:
- Ồ xin lỗi ông, tôi
nghĩ ông là người Nhật như chúng tôi.
Từ đó, hai người không
e ngại tôi nữa. Họ thản nhiên nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nho nhỏ.
Trong bar, ngoại trừ tôi và hai người đó là Á châu cùng với cô cashier duyên
dáng người Thái, còn khách toàn là Tây phương; vì vậy, hai người này không phải
e dè gì cả. Nhưng họ không biết một điều tối hệ trọng là ở Bangkok có rất nhiều
gián điệp của nhiều quốc gia Tây phương và của cả cộng sản nữa, và rất nhiều
người biết tiếng Việt, nghe, viết, nói cả tiếng Việt rất giỏi. Có nhiều người
nếu không gặp mặt, nhìn họ nói mà chỉ nghe qua vách thì sẽ nghĩ là hai người
Việt đang nói chuyện với nhau.
Sau khi nói những
chuyện tầm phào, bá vơ, chuyện chơi bời du hí ở các động sang trọng của thủ đô
Bangkok, nơi rất nổi tiếng về các món ăn chơi ở vùng Đông Nam Á, hai người vừa
uống bia Singha (loại bia đen của Thái rất nặng), vừa trò chuyện. Một người
hỏi:
- Tại sao không làm
luôn thằng Nguyễn Thanh Hoàng của tờ Văn Nghệ Tiền Phong cho rồi?
- Tại sao phải làm
thằng Nguyễn Thanh Hoàng?
- Tên này liên tiếp
chửi bới, bôi nhọ và lật tẩy Mặt Trận. Nếu không “dứt” thì sẽ tai hại rất
nhiều, vì y nắm được rất nhiều tài liệu về hoạt động của Mặt Trận.
- Vậy sao mình không
dứt bọn nó cho rồi.
- Bây giờ chưa được.
Vì bứt dây động rừng ông biết không? Biết đâu bọn nó đã nhờ cảnh sát bảo vệ,
mình cựa quậy bây giờ là nát xương…
Kháng Chiến Phục Quốc
Hay Giữ Dưa?
Như trên đã trình bày,
chính sách Thái Lan từ trước tới nay đối với các tổ chức kháng chiến chống cộng
sản Việt Nam, là mở cửa cho bất cứ người nào có khả năng về nhân sự, tài chánh,
và tổ chức để gây dựng một “chiến khu” ở vùng biên giới Thái-Miên hoặc Thái-Lào.
Áp dụng chính sách này, Thái Lan có hai điều lợi: Thứ nhất, là họ có một đơn vị
biên phòng ngăn cản Việt cộng mà không phải trả lương. Thứ hai, là họ có thể sử
dụng những lực lượng kháng chiến Việt-Miên-Lào để trả giá với Việt cộng. Nếu
Việt cộng tấn công mạnh sang đất Thái, họ sẽ có cớ để mặc cả bằng cách dọa dẫm
sẽ yểm trợ các lực lượng kháng chiến của cả ba nước Đông Dương mạnh hơn… Dù sao
thì người Thái vẫn có lợi, đó là chưa kể đến cái lợi về tài chánh do lực lượng
có căn cứ ở biên giới Thái phải yểm trợ cho kháng chiến của mình qua tay của
người Thái. Kháng chiến đã trở thành một dịch vụ sinh lợi cho các vị tướng lãnh
Thái, Tư lệnh các đơn vị được phép yểm trợ cho từng tổ chức kháng chiến. Thí
dụ: đơn vị 309 tình Báo Biên Giới trực thuộc Bộ tư Lệnh quân Đội Hoàng gia Thái
Lan đỡ đầu cho “Mặt Trận” của Hoàng Cơ Minh. Họ đã che chở cho nhóm Hoàng Cơ
Minh và trực tiếp chỉ huy những người lãnh đạo lực lượng Hoàng Cơ Minh. Tư lệnh
của đơn vị 309 Tình Báo là tướng Sút-Sai, một người đã được hưởng khá nhiều
tiền của nhóm Hoàng Cơ Minh qua trương mục ở Ngân Hàng Quân Đội. Ngoài số tiền
“thuê” mảnh đất rừng ở Buntharit, tỉnh Uborn, phải đóng lần đầu cho vị tướng
này (khoảng từ 20,000 đến 30,000 dollas); hàng tháng “Mặt Trận” lại phải đóng
“hụi chết” cho các vị tướng Thái, khi thì 1000 đô la, khi 2-3000 vô kể. Ngoài
ra còn phải quà cáp biếu xén bà tướng, và các vị Đại tá, Trung tá… Đơn vị 315
Tình Báo Biên Giới Thái là cha đỡ đầu cho nhóm kháng chiến của ông Lê Quốc Túy.
Những đơn vị kháng
chiến trở thành những tiền đồn cho Thái Lan và tùy theo các đơn vị Thái đỡ đầu,
các lực lượng kháng chiến Việt Nam còn phải làm công tác tình báo, trinh sát
vào nội địa Lào, Miên để thu thập tin tức tình báo. Vì thế, khi nhìn hình ảnh
các kháng chiến quân người Việt Nam, người ta thấy mặc quân phục Thái, đội mũ
của lực lượng biên phòng Thái, nhiều người đã tưởng rằng đây là đơn vị của Thái
Lan, và không ai nghĩ rằng đó là những người bị giới hạn cư ngụ trong những
vùng đèo heo hút gió, không có quyền đi ra khỏi khu vực trú đóng. Thỉnh thoảng
mới có một, hai người được người Thái chở vào các thị xã để mua bán, hoặc liên
lạc với “hậu trạm” đặt tại Bangkok.
Lực lượng kháng chiến
nào cũng có “hậu trạm” đặt tại Bangkok. Khi thì đặt tại nhà một vị tướng Thái,
có số điện thoại để liên lạc viễn liên về Hoa Kỳ và các “hậu trạm' này đều thuê
hộp thư ở bưu điện để liên lạc với các tổ chức yểm trợ tại Hoa Kỳ hoặc các nước
khác.
Cũng có khi thì “hậu
trạm” được các sĩ quan Thái của đơn vị đỡ đầu thuê cho ở một căn nhà bên ngoài
thuộc khu an toàn, và thường là nhà của các sĩ quan cao cấp Thái để bảo đảm an
toàn; tất nhiên cũng có đầy đủ tiện nghi và phương tiện để liên lạc đi các nơi.
Trung bình giá một căn cứ (là một cánh rừng thuộc các tỉnh Đông Bắc Thái Lan
giáp ranh giới Miên, Lào), các lực lượng kháng chiến Việt Nam trả cho các vị
tướng Thái vào khoảng 20,000 đến 30,000 Mỹ kim… mỗi tháng, lại phải đóng tiền
“thuê rừng” cho vị tướng vào khoảng 2,000 đến 3,000 dollars. Số tiền này hoàn
toàn vào túi riêng của vị tướng. Khi vui thì họ cho ở, phật ý thì họ đuổi.
Trên thực tế, chính
quyền Thái chưa bao giờ chính thức yểm trợ các tổ chức kháng chiến Việt Nam,
các nhân vật lãnh đạo các tổ chức kháng chiến chỉ được sự che chở ngầm của quân
đội Thái và các tướng chỉ huy đơn vị đỡ đầu. Vì vậy, tình trạng của các đơn vị
kháng chiến rất mong manh, nhất là anh em từ các trại tỵ nạn nhập vào. Họ bị
sống bơ vơ trong các căn nhà lá nằm cheo leo trong những rừng núi hoang vu mà
tình trạng tiện nghi rất là thiếu thốn, sinh hoạt hàng ngày cũng vô cùng eo
hẹp. Đối với một số những cán bộ lãnh đạo đã có quốc tịch ở các quốc gia tạm
dung như Pháp, Úc… thì tình trạng khá hơn, vì khi ông tướng Thái không bằng
lòng vì một lý do nào đó (như nộp tiền hàng tháng trễ), thì họ chỉ trục xuất
các cán bộ lãnh đạo này ra khỏi nước Thái; còn những người ở các trại tỵ nạn ra
thì đi cũng không xong, mà ở cũng không chẳng được, tình trạng này thật là vô
cùng bi đát. Người nào liều lĩnh trốn đi một cách bất hợp pháp, nếu người Thái
bắt được sẽ bị đánh đập dã man, nếu không thì lọt vào tay cộng sản. Đằng nào
cũng… chết!!!
Mấy năm nay, các tổ
chức kháng chiến có căn cứ ở Thái Lan cứ quanh quẩn dậm chân ở biên giới Đông
Dương, vừa nuôi béo các ông tướng, bà tướng Thái Lan bằng những đồng tiền thu
góp của đồng bào ta ở hải ngoại, vừa đóng vai trò “giữ dưa” canh đất không
lương cho “nước bạn”.
Đây là chiếc thùng
không đáy sẽ khiến cho chúng ta lao tâm khổ trí, hao tài, tổn sức vì nó. Nhưng
nếu bỏ đi thì cũng không đành lòng, vì còn đâu cơ hội mong manh giải phóng quê
hương? Và niềm tin mù mờ kia sẽ lụi tàn theo năm tháng và quên lãng với thời
gian; rồi những cám dỗ xa hoa của đời sống tiện nghi ở nước tạm dung sẽ làm
chúng ta không còn thiết tha với chuyện đấu tranh gian khổ. Một khi ngọn lửa
đấu tranh đã thực sự lụi tàn, chỉ còn là những tro than lạnh lẽo, thì làm sao
chúng ta có thể khơi lại cho bùng cháy dữ dội để thiêu đốt bọn quỷ dữ cộng sản
Việt Nam.
Tệ hơn nữa, có những
nhóm người bất lương với các ý đồ đen tối, đã lợi dụng những “chiến khu” ở Thái
Lan, để lừa bịp đồng bào, vơ vét tiền bạc của những người dễ tin - Khủng Bố
những ai dám nói thật, biến kháng chiến thành trò hề, và đẩy lùi giấc mơ phục
quốc ngày một thêm xa!!!
Nguyễn Toàn
Bài này đã đăng trên
Văn Nghệ Tiền Phong trang 25 26-27 và 88-89 số 303, từ ngày 1 đến 15
tháng 9 năm 1988.
No comments:
Post a Comment