Nguyễn Nhật Nam
CHƯƠNG 4
Chiều cuối năm phủ sương mờ, nắng hanh vàng đỏ,
rét ngọt có hình khối đọng li ti trên đá, châm chích nỗi bồn chồn vô hình nghi
ngút bay lên cao. Thuấn châm điếu thuốc thở ra vòng khói khó khăn, nhịp tim
nặng nề váng vất. Bàn rượu im lìm thiếu vắng không khí ồn ào khi cơn men bốc
lên dưới lớp áo lính. Chiều cuối năm thoi thóp như chút nắng cố váng lên sau
lớp sương dày đặc. Uống nữa chứ anh em, ngồi nhìn nhau hoài như thế này sao?
Thuấn nắm cổ chai rượu lên rót một chút vào chiếc ly, cợn nước đá màu vàng
loãng trên lượng rượu phôi pha. Có những bàn tay hờ hững đun ly vào giữa bàn.
Lạc dùng mũi giày di chiếc ly đi ngúc ngắc, hai tay vẫn gối sau gáy, người ngửa
trên thành ghế…
"Trời rét thế này làm tôi nhớ hồi
nhỏ".
"Nhỏ của ông ra làm sao?" Thuấn hỏi
sau hớp rượu, chất cay làm hai lông mày nhíu lại, tia nắng chiếu thẳng lên mắt,
đôi mắt loáng nước như sắp khóc.
"Thì cũng vậy thôi, tôi ở nhà quê, chiều
cuối năm mới được dẫn đi chợ huyện mua áo mới, mẹ tôi bảo mua thế để được rẻ
hơn, áo vải chúc bâu cứng ngắc, dép da trâu bó vào chân như vòng sắt, các ông ở
thành phố không biết được mùi vị Tết thôn quê, nói ra các ông cũng không hiểu
được".
"Sao không, Tết tôi về quê ngoại nên cũng
biết được không khí váng vất thần bí của ngày Tết nhà quê, mỗi lần đi qua cây
nêu tôi không dám nhìn thẳng, cứ tưởng như có con ma từ trên ngọn đang theo
dõi". Được đà, Thuấn ngồi thẳng dậy tiếp tục câu chuyện.
"Quê ngoại ông ở đâu?" Lạc hỏi.
"Quảng Yên, phải đi tàu từ Hải Phòng về,
mỗi lần bước xuống tàu người tôi cứ choáng váng vì mùi ẩm mốc của gạo, tàu đi
theo sông ban đêm, bềnh bồng chóng mặt, chẳng biết đường lối ra làm sao. Sáng
mai lại phải một phen lội bộ qua cánh đồng nứt nẻ, cây bàng trụi lá và làng
ngoại mỗi năm hình như càng nhỏ lại. Mười tuổi, tôi về lần chót. Nhớ được như
thế là giỏi rồi".
"Tôi thì suốt đời ở nhà quê, lên đến chợ
huyện là xa nhất, hôm có ông cậu ở Nam Định về tôi cứ xoay quanh để nhìn, nghĩ
người thành phố khác kẻ nông dân. Chỉ có mỗi điếu thuốc lá vấn sẵn cũng đủ làm
tôi kinh ngạc".
"Ở quê tôi, dưới Mỹ Tho, đến gần Tết thì
sòng bạc mở tùm lum. Thiếu uý Nghĩa, Trung đội trưởng của Thuấn góp vào câu
chuyện".
"Miền Nam không có không khí ray rứt của
những ngày gần Tết như thế này, trời nóng bỏ mẹ". Thuấn quay qua Nghĩa lấy
điếu thuốc, câu nói được ngắt nửa chừng để châm lửa.
"Có chứ Đại uý, buổi sáng cũng lạnh lạnh
và sương mù, mỗi khi đi bắc qua Kiến Hoà, bờ bên kia không thấy…"
"Sương thì có nhưng lạnh thì không, mát
là khá lắm rồi, lạnh phải nói Đà Lạt. Nói chuyện Đà Lạt tôi nhớ lúc ở trong
trường, buổi sáng mồng Một, thắng bộ đàng hoàng, tám giờ trời mù cách năm thước
không thấy mặt, còn sớm xe đò chưa chạy, tôi đi bộ từ trường ra phố sáu cây số
đường đồi. Các ông biết đấy, thành phố Đà Lạt vốn dậy muộn, lại buổi sáng mồng
Một, ngoài đường không một ai, tôi đi như con ma chết đói. Rồi đến phố chính đứng
ở bờ hồ Xuân Hương thấy tủi thân muốn nhảy xuống hồ chết luôn".
"Lúc ấy ông cũng ấm ớ nhỉ, nhưng ra phố
làm gì sớm thế…"
"Đâu biết, đổi gác xong lúc sáu giờ. Ngủ
tiếp không được, tôi lại vừa mới lớn, trời mù như thúc giục, ngày Tết đắm đuối
nhức nhối, vừa được lên năm thứ hai có phần tự do hơn, dù chẳng có gì ngoài phố
để đi đến… Đó như là buồn rồi ta đi lang thang".
"Đại uý không kéo ông Minh đi cùng?"
"Lúc đó ông Minh là khoá đàn em. Nghĩ lại
cảnh một mình đứng trên bờ hồ buổi sáng mồng Một Tết thấy mình quả thật
điên".
"Rồi sau đó ông làm gì?" Lạc khề khà
tra hỏi.
"Tôi lên đập cửa một khách sạn tìm con đĩ
quen. Mày nhớ khách sạn Thanh… gì đó Minh, nơi gần nhà thờ Tin Lành".
"Thanh Tùng, chỗ đó dơ bỏ mẹ".
"Biết là dơ nhưng chỉ nơi đó mới mở cửa,
tôi đã nói cả thành phố vắng hoe. Tông cửa bước vào thằng cha gác chưng hửng.
Nó lẩm bẩm mới tám giờ ngày mồng Một đã đi chơi. Đánh tân niên mà ông nội. Tôi
vừa nói vừa chạy vào phòng con đĩ, cởi áo quần chui vào nệm một lúc lâu mới
hoàn hồn. Các ông biết con đĩ nó làm sao không?"
"Không". Bốn cái mồm cùng đáp một
lúc.
"Các ông không tưởng tượng nổi, thấy tôi
chạy vào, mặt mày tái xanh vì lạnh, em ngồi dậy pha trà, lấy mứt ra đãi, mở
thêm chai rượu".
"Xong rồi đánh tân niên?" Lạc hỏi
với giọng nôn nóng.
"Đếch phải, em ôm tôi khóc mùi mẫn".
"Khóc?" Mấy cái mồm cùng há một lần
vì kinh ngạc.
"Chứ sao, em tủi thân, đầu xuân không
nhà, không gia đình, nằm queo một mình trong chiếc phòng lạnh cóng hoạ là thánh
mới chịu nổi. Đĩ cũng là người chớ mấy ông, cái lá của em nó nhão, nhưng em
cũng còn một chút người. Lại còn trái tim nữa, người khác chó cái chỗ ấy. Các
ông bây giờ bắt phải sống một mình trong khoảng thời gian đó trong căn phòng
trọ tối om có chịu nổi không, huống gì nó là con gái đàn bà. Mấy phút đứng
trước khi đứng trên bờ hồ bốc khói tôi đã có ý muốn bay xuống cho chết luôn.
Người ta tự tử không phải vì buồn chán quá đáng gì, nhưng vì không chịu nổi một
khoảnh khắc nào đó thôi. Buổi sáng đó tôi thấy giữa sống và chết không có bao
nhiêu khoảng cách".
"Kể tiếp chuyện con đĩ, đừng luận về sống
chết nữa quan ba". Minh im lặng từ lâu bây giờ mới lên tiếng.
"A, con bé tên Thảo Ly".
"Con mập mập bồ ông Ái chứ gì".
"Ừ, sao ông biết, lúc ấy ông là khoá đàn
em thấy tụi tôi là lủi như chồn, làm sao biết vụ ông Ái?"
"Thì ông Ái chung đại đội tôi, lúc đi
chơi bời về các ông kể oang oang trong phòng tắm ai chẳng nghe, ông Ái cứ xem
như làm được thành tích lớn. C… Được đĩ mê cũng láo".
"Chứ sao mầy, với cái mác sinh viên sĩ
quan, tụi mày chỉ tán tỉnh được mấy em nữ sinh vớ vẩn loại hoa pensée tím, alfa
đỏ ấm ớ, làm cho một con đĩ dạn dày mê đâu phải dễ".
"Không phải dễ hay khó, nhưng tôi thấy kỳ
cục".
"Kỳ cục mẹ gì, để tôi kể tiếp, em khóc
một hồi với tôi xong mới tâm sự, em chẳng phải Thảo Ly, Ly Ly gì hết. Em tên là
Nguyễn Thị Lý, khởi nghiệp bán chè đậu dưới Sóc Trăng, Sa Đéc, em bị thằng bồ
thợ may xâu kim xong nó de, nhưng em cũng chẳng buồn gì, thế là đi giang hồ
luôn. Nhưng em cũng lãng mạn ra phết, đầu tiên em lấy hiệu là Thảo Ly, nghe
cũng long lanh phải không các ông. Phiêu bạt giang hồ khắp bốn vùng chiến
thuật, nằm ngửa dọc hết nửa nước Việt Nam, từng hành nghề thấu Đà Nẵng, Nha
Trang, sự nghiệp giang hồ cái lá của em như thế cũng nặng ký!"
"Em xui rồi, vác đồ nghề ra Đà Nẵng làm
sao sống được. Đà Nẵng là nơi địa linh nhơn kiệt, đĩ ở đó hung hãn hơn ở Sài
Gòn". Anh Trung uý mặt mụn của Đại đội chỉ huy nhận xét một câu.
"Đúng thế, nên em mới lên Đà Lạt, em tâm
sự với tôi là em yêu ông Ái thật tình nhưng là một tình yêu vô vọng. Buổi sáng
hôm nay tôi gặp tôi em cảm động và thương tôi vô cùng!"
"Xong rồi, và em đãi ông buổi điểm tâm
đầu năm".
"Đâu có phàm tục thế ông". Thuấn
cười với Lạc. "Nói ra các ông bảo xạo, nhưng thật sự lúc đó tôi cũng cảm
động lắm!"
Cả bàn rượu cười ngả nghiêng, những cái tay
đập rầm rầm trên mặt bàn gỗ tạp. Uống, cho tôi chút nữa. Uống để nghe chuyện
tình của quan ba. Trời đất ơi, ông Thuấn ơi, hết còn ai nên ông yêu em Thảo Ly
đã có hai năm nằm ngửa. Thuấn nốc thêm hớp rượu mặt đỏ bừng, hai tai nóng nảy
run rẩy, Thuấn thấy lại căn phòng sơn màu lục tanh tanh, khung cửa sổ vàng bẩn,
trời mù sương lạnh cóng bên ngoài của buổi sáng mùng Một Tết Đà Lạt. Thuấn đi
đứng khó khăn, tiếng khóc nấc, khuôn mặt đầm đìa nước mắt, phấn son loang lổ đã
mất đi, cô gái đi đến chiếc lavabo cúi xuống lau sạch mặt. Không còn những nét
căng cứng gây gổ của một gái điếm biết mình còn xuân sắc, không còn vẻ nặng nề
đẫm ướt dục tình chai đá của một gái chơi sau hai năm lăn lóc trên trăm phòng
trên ngàn chiếc giường dưới sức nặng của ngàn kẻ đàn ông để hứng lấy những phút
giây dục vọng nhơ nhớp ẩm ướt. Chỉ còn trước mặt Thuấn một tiếng khóc. Tiếng
khóc thật của trái tim mười chín tuổi, trái tim ngây thơ với chút nhiệt tình thoi
thóp rơi rớt lại sau đoạn đời gió bão, sau hai năm nằm tênh hênh phơi bày phần
cơ thể u ám thâm thẫm tội lỗi trước hàng ngàn con mắt bốc men ham muốn. Thuấn
mới hai mươi tuổi, mười lăm phút trước khi đứng trên bờ hồ trong sương vắng,
điếu thuốc ở môi và toàn thân lạnh cóng. Thuấn đã thấy được trên những ngón tay
băng giá một cảm giác gai rét nhức nhối hơn của sự chết. Thuấn đã cảm thấy hình
khối của cô đơn lạc lõng. Người lạc ở rừng sâu hay sa mạc nhưng vẫn phấn đấu để
sống nếu nghĩ đến một chờ đợi âu lo nào đó đang hướng đến. Ở đây Thuấn bị bao
vây bởi khoảng sương đặc cứng và niềm trống vắng bao la trong trí não. Cô đơn
không còn là trạng thái cảm thấy nhưng là hoàn cảnh triền miên trong đó con
người lơ lửng đau đớn và tuyệt vọng. Mới mười lăm phút trước Thuấn đã sống giây
phút ngất ngư tuyệt vọng đó nên giọt nước mắt trên khuôn mặt ngây ngô héo úa
này làm Thuấn xúc động. Khóc đi em, khóc hộ cho anh một phần nữa, khóc như đặc
ân khốn nạn cuộc đời để dành lại cho em. Thuấn bước tới xòe hai tay đỡ lấy khuôn
mặt ủ dột. Tội cho em. Chút thành thật trong hơi men ngây ngất mở rộng hai bàn
tay. Thuấn ôm lấy hình hài phiền nhiễu u ám nhưng cũng tội nghiệp vô cùng.
"Uống nữa nghe anh". "Ừ". Hơi rượu Rhum nội hoá làm Thuấn
dật dờ. "Em uống nữa chứ!" "Dạ". Lượng rượu được chuyển
theo nụ hôn sôi nóng giữa hai đôi môi lạnh lùng. "Dạ, em sẽ ở với anh cho
đến khi anh vào trường". Cánh cửa đóng lại, trên chiếc giường vải sa tanh
trơn trợt loang lổ những dấu vết của các trận tình bẩn thỉu, phần không khí
lạnh buốt bên ngoài, hai năm chuyển động trên vòng xoay ngấu nghiến nặng nề,
tất cả được đẩy ra khỏi khung cửa. Đóng thật chặt ổ khoá, sáng mùng Một Tết,
Thuấn hai mươi tuổi và người tình thảm thương ngắn hạn ôm ấp siết chặt trăn trở
đắm đuối cùng nhau trong ngây ngất của men rượu đắng và dục vọng đau cứng tội
nghiệp. "Uống không?" "Uống". "Thương không?"
"Thương". "Lấy nhau nhé?" "Ừ". "Hôn cái nữa
đi…" "Ha ha, lăn xuống, em nặng quá, mấy…"
"Sao ngồi thừ vậy ông, nhớ người yêu dĩ
vãng hả? Kể tiếp đi, chuyện em Thảo Ly Nguyễn Thị Lý".
"Xong rồi, chuyện chỉ có thế".
"Đâu được, ông chưa kể có làm ăn hay
không".
"Chuyện đó thường quá, có chứ, không, hoạ
tôi là thánh".
"Giết nhau cũng như thường".
"Không, em chủ động, em "xay cà
phê" tưng bừng".
"Đấy, ít ra là thế, rồi ông có trả tiền
không?"
"Không".
"Em biếu không làm quà văn nghệ?"
"Không phải, thằng cha chủ khách sạn vì
dị đoan muốn giữ sạch sẽ trong ngày mùng Một để lấy hên nên cấm các em tiếp
khách, tôi nằm đến trưa không đi lão cho người đến mách với toán tuần tiễu nhà
trường".
"Ông bị bắt?"
"Sức mấy, nghe tiếng xe Jeep của Quân
cảnh dưới đường tôi dọt gấp, khách sạn dựa lưng vào đồi, tôi băng ngã sau chạy
thoát, áo quần ôm ở tay, buổi trưa trời Đà Lạt vẫn còn lạnh, nằm buổi sáng
trong phòng ấm nên khi chạy ra ngoài người muốn gãy luôn, hơn nữa bị em xay kỹ
quá, bố tôi cũng không chịu nổi. Tôi chạy một mạch đến Công chánh hay Điền địa
gì đấy, đứng lại mặc quần áo nhìn vào cửa sổ thấy thiên hạ tụ tập cười nói bỗng
thương tiếc em bé hết sức.
"Như vậy số ông hên rồi, đầu năm được gái
yêu suốt năm ông phát mả ái tình".
"Đâu có đẹp như bạn nghĩ, vì khi chạy
hoảng quá bỏ cái mũ ở phòng em bé, tụi Quân cảnh lấy được đem về trình Thiếu tá
Liên đoàn trưởng".
"Kết quả ra sao?" Nhiều giọng nôn
nóng hỏi tới tấp.
Thuấn cười khẩy. Kết quả sơ khởi: tối đó ba lô
súng đạn hai lớp đi trình diện dã chiến. Tối mùng Một Tết trời Đà Lạt lạnh 11
độ, tôi bị phạt đến độ mồ hôi tuôn ướt đẫm chiếc áo sũng nước. Tiên sư thằng
sinh viên khoá đàn anh nó xem như tôi ngủ với đĩ làm lây bịnh lậu cho cả họ nhà
nó, nó quát tháo đay nghiến sau mỗi hình phạt làm tôi nghĩ như vừa đem bán hết
cả súng đạn cho Việt cộng. Các ông biết nó mắng tôi làm sao không. Anh là loại
sinh viên sĩ quan vô tư cách, anh làm nhục đoàn thể, anh bôi xấu lên danh dự
nhà trường và quân đội!
"C… làm như quân đội là chủng viện giáo
hoàng không bằng". Lạc bĩu môi xì một câu chát chúa.
"Ấy thế mới nhảm, cái mặt nó tôi còn lạ
gì, Chủ nhật nào cũng chui rúc ở mấy cái nhà chứa, được cái tiện vì là khoá đàn
anh nên có quyền mặc thường phục, nó làm như mặc đồ lính không có quyền ngửi
hơi đàn bà".
"Ông có phản kháng gì không?"
"Phản kháng gì, nó là sinh viên trực Liên
đoàn tức là quyền Liên đoàn trưởng. Hơn nữa lỗi mình rành rành ra đó, phản
kháng sao được. Tôi nhớ tên nó, cái gì Trân đó, ĐM… mặt chuột kẹp đi giựt giựt
như con gà bị dịch… Minh, mày biết thằng chó Trân đó không?"
"Phan Thanh Trân, hình như đến giờ này nó
vẫn còn làm huấn luyện viên trong trường kể từ ngày mãn khoá".
"Đúng rồi, hôm nó về duyệt binh Quốc
khánh tao đã muốn đánh bỏ mẹ, cỡ ấy tao ho một cái cũng đái trong quần, nhưng
hôm đó có ông Quyền ở Tiểu đoàn 11 nên tao không dám".
"Sao vậy Đại uý?" Trung uý Nghĩa mở
đôi mắt ra hỏi.
"Ông Quyền là thủ khoa khoá ấy, ra trường
đi Nhảy dù, chính vì vậy tụi tôi mới bắt chước… Đấy, người có bản lĩnh thực
chẳng bao giờ làm dáng, chỉ có tụi cắc ké, can đảm bằng đầu tàn thuốc mới hay
hậm họe… Tối ấy, tôi bị phạt đến nỗi tưởng như núi đè lên người, thở không nổi.
Từ đó tôi mặc cảm với những thằng mặt chuột kẹp, nước da tái thẳm, dân thủ dâm
thường thường độc ác kinh khiếp, tụi nó có máu bạo ngược trong người, không
hiểu có sung sướng gì khi phạt người khác đến ngất ngư".
"Tối ông Thuấn bị phạt cả bốn doanh trại
đều náo động". Minh tiếp theo. "Tụi tôi lúc đó còn là khoá em út.
Trường có ba khoá, khi nào khoá ông Thuấn bị phạt, chúng tôi không được quyền
nhìn nhưng tối đó mọi người dồn ra các cửa sổ trông xuống khu sân cỏ để nhìn
xem cảnh ông Thuấn bị phạt. Bốn dãy doanh trại gần hai trăm căn phòng chen chúc
đầu người im lặng nhìn ông Thuấn bò từ cổng trường vào đến nhà ăn. Hôm đó sao
không ngất thật là hay, tụi tôi phục ông hết mình".
"Ngất đâu được, tự nhiên tôi cắn răng tự
hứa mình phải tỉnh táo để làm hết hình phạt, nó chỉ cốt làm mình xỉu, ngất là
đúng ý nó… Các ông biết, từ cổng trường tôi đến nhà ăn dài gần một cây số, giữa
bãi cỏ, hai bên lối đi trải nhựa. Lượt bò ra nó bắt tôi bò trên cỏ, trời lạnh,
mưa phùn, cỏ ướt nhẹp sâm sấp bùn, tôi như dính trong đống keo. Lâu lâu thằng
Trân lấy chân đè lên chiếc ba lô nếu tôi ngỏng người khỏi mặt đất! ĐM… tôi chưa
thấy cảnh nào tàn nhẫn hơn trong suốt hai mươi mấy năm ở đời. Chưa hết, khi trở
lại nó bắt tôi bò trên đường nhựa, các ông thấy, áo quần lúc ấy đã bị ướt dính
chặt vào người bò len đường nhựa vụn đá nhỏ dính vào, bào lên da đau như bị
đinh châm".
"Sao nó đối xử với ông tàn tệ như thế,
hơn Tây lúc trước đối với tù binh!" Lạc nhíu hai lông mày, người lính già
nhìn sĩ quan trẻ tuổi đè cơn giận xuống để kể lại câu chuyện với giọng bình
thản.
"Tôi biết nó ức, chỉ đợi tôi tỏ ý khuất
phục, yếu đuối là sẽ tha. Nó muốn hơn tôi, nhưng bất cần, nghe lệnh phạt tôi
dửng dưng làm ngay không chút e dè, hai cánh tay và đầu gối, phần da bụng nóng
rát rươm rướm máu đỏ. Máu, mồ hôi, nước mưa thấm trên chiếc áo lót có màu hồng…
Về phòng nhìn chiếc áo đột nhiên tất cả giận dữ lắng mất, trước đó khi đang bị
phạt tôi muốn đứng lên bắn nó một viên… Nhưng nhìn máu mình thấm trên chiếc áo,
tự nhiên cảm thấy có chút hân hoan kiêu hãnh. Đúng là chứng bạo ngược tinh thần
thấy rõ mình trong đau đớn, ĐM… khoá thằng Minh có đứa lén qua phòng nhìn thân
thể tôi và chiếc áo phát khóc, thằng Lô và thằng Mễ xúi tôi đánh thằng Trân đó
nhưng tôi không đánh".
"Ông Đại uý Lộ và Thiếu tá Mễ ở Tiểu đoàn
5?"
"Ừ, hai ông ấy đó, tôi nghĩ mình thi hành
lệnh phạt để chứng tỏ không ngán sự đau đớn chứ tôi sợ chó gì thằng Trân đó dù
khi bò dưới chân nó".
"Giá của một buổi sáng với em điếm nặng
thật". Lạc gật gật cái đầu phê bình.
"Ừ, làm như máu tôi chảy ra rửa sạch hết
vi trùng đi từ em bé lên uy tín đoàn thể sinh viên sĩ quan, nhưng chưa hết, sau
đó tôi còn ra hội đồng kỷ luật, ở lại một năm xuống học với khoá ông
Minh".
"Đau thật!"
"Cũng chẳng đau gì, tôi ở lại, một năm ở
nhà tà tà, trốn học đọc sách, cuối năm cũng thành ông Thiếu uý như ai. Đời có
cái hên, nếu ra trường khoá trước thì tôi cũng đi Biệt kích. Tôi khoái loại
lính này vì vấn đề trách nhiệm với thuộc cấp nhẹ hơn, làm Đại đội trưởng ngại
cảnh đụng trận về, vợ con lính tử trận đến khóc ở văn phòng, nghe tiếng khóc đó
tôi chịu không nổi".
"Làm chỉ huy phải chấp nhận chuyện ấy,
không thoát được. Nghe thân nhân lính khóc cứ tưởng như họ đòi nợ mình".
Lạc xác nhận.
Minh cãi lại:
"Mấy ông nghĩ quá đáng, đụng trận thì
phải mất mát, tôi chỉ thấy khó chịu khi mình mất vô ích như bị mìn bị chông
v.v. Nếu thắng lớn thì huề".
"Mày học cái điều này ở đâu vậy?"
Thuấn không che giấu sự bất bình, đôi mắt sau hơi rượu long lanh nỗi tức giận
không giấu.
"Ở đâu? Lần đầu thì thấy khó chịu, sau
hơi quen, tôi không phải cứng rắn gì đến nỗi không xúc động khi lính mình chết,
nhưng nhỡ mình chết thì sao, cũng thế thôi. Vì thế đánh cốt thắng, thắng sẽ làm
nhẹ đi chuyện mất mát…"
"ĐM… cãi với mày làm gì, con trai còn
Trung uý, con trai cần thắng để lên Đại uý. Đại uý thắng để bắt Tiểu đoàn phó…
Thôi, tao chối loại vinh quang này".
"Anh bảo tôi giản dị vậy được sao?"
"Bỏ chữ "anh" đi, đừng quan
trọng hoá lời tao, nếu mày nghĩ lời tao không đúng thì thôi, tao chỉ nói thật ý
nghĩ, sai thì bỏ có chó gì phải lên giọng kinh thế. Mày thấy lính già
này", Thuấn đưa điếu thuốc chỉ Lạc. "Ông ta cũng tha thiết với cái
lon lắm chứ, mười tám năm lính có khá gì được đâu, thế nhưng ông Lạc cũng đồng
ý với tao cơ mà".
"Ông Lạc đồng ý với anh theo ý khác, ông
ta chỉ cần thủ kỹ, giờ này Trung uý hay Trung tướng đối với ông ấy cũng thế
thôi".
"Thế sao được em". Lạc ghìm giọng
xuống phủ lên đó hơi rượu và nỗi chắc chắn của kinh nghiệm. "Trung tướng
khác xa Trung uý, tao ở lính lâu lại càng hiểu rõ giá trị của cấp bậc hơn ai
hết. Thuở xưa đóng cái lon cai lên vai sếp thấy mình như trở thành một người
mới mẻ, quyền thế. Tao ở lính lâu năm mới hiểu được nỗi ao ước của anh Trung sĩ
để thành Thượng sĩ, Chuẩn uý lên Thiếu uý. Giữa những cấp bậc đó có những nấc
thang rõ ràng. Chuẩn uý không được vào câu lạc bộ sĩ quan, nhưng Thiếu uý thì
khác. Câu lạc bộ sĩ quan đời Tây làm tao thèm thuồng, đi qua đi lại hoài, chỉ
tưởng tượng được ngồi vào trong cái ghế da đỏ có thằng bồi sénégallai mang đến
một ly pernord tao cũng ngây ngất lạnh dọc xương sống. Tao là Thượng sĩ nổi
tiếng, tụi sĩ quan Tây mới ra trường cố xin cho được tao về làm Trung đội phó,
nhưng vẫn thấy quá xa cách với một anh sĩ quan mặt mũi non choẹt hiên ngang đi
vào câu lạc bộ đá vào cánh cửa bật… Chỉ có cái đá vào cánh cửa đó cũng gây
trong tao sự kính nể thực sự nên khi đứng nghiêm trình diện Trung đội cho nó, À
vos ordrês mon Lieutenant tao nói thật thành kính, trong khi nếu bỏ cái lon,
tao có thể xách tai bợp nó năm ba cái như không… Đấy mày thấy, tao đã nếm rõ
cái vụ lon lá hơn ai hết, lên sĩ quan được vào chơi ở bordel dành cho sĩ quan.
Mày tưởng tượng tụi nó đang đô hộ Việt Nam, nhưng mình lại nằm sấp trên mình
đàn bà nhà nó chi bằng leo lên cái tháp Effeil đái xuống! Egalité ở đâu không
thấy chứ tao cảm thấy mấy cặp mắt xanh lè kia dựng lên ngất ngư là khoái chí
rồi. Tụi mày thấy Mẽo dẫn điếm Việt Nam đi chơi thì khó chịu, huống gì nếu một
em da trắng tóc dài con nhà quý phái, con cựu bộ trưởng, chủ tịch, giám đốc cặp
kè với một anh đen như botte de saut thì chúng mày điên tiết là cái chắc. Đằng
này cũng vậy, trước mặt mấy anh Jean, Henri, mày đè lên một em đầm da trắng tóc
vàng, em tóc vàng như Brigitte Bardot, em tóc vàng cựa quậy ưỡn ẹo oh! oh!…
cheri! ha! ha! Anh Việt Nam răng hô mũi tẹt da vàng xì nhún nảy vò cái lá cờ
quan tài cũng không còn đau hơn nữa… ĐM… cứ xảy ra đánh nhau ở bordel là vậy.
Mấy thằng lính Việt Nam mất dạy nhất định thọi đầm, dù có hôi nách, tàn nhang
rụng lông gì cũng được, trái pome thối vẫn lạ hơn trái ổi, beef steak cứng như
đá vẫn làm dân Annam khoái hơn thịt bò lúc lắc … ĐM… đi thì em nào cũng chỉ
mười em trở lên, thế nên cứ đứa nào cho nó pourboir nhiều là ok. Tiên sư mất
năm chục được cởi quần bà đầm Antoinette trước mặt lính Tây còn muốn gì
nữa".
"Thôi ông ơi! Đang luận về công danh ông
xoay qua mục ăn chọi là thế nào". Minh ngắt lời.
"Thì như tôi đã nói, chính những cảnh ăn
chọi hào hứng như thế mới làm tôi hăng hái đánh giặc giựt giải, đời Tây đeo cấp
bậc trên dưới mười năm là chuyện thường, thế mà tôi chỉ trong ba năm từ cai lên
đến Thượng sĩ là vô địch, tiếc là lúc Tây về nước mới mon men đến Thượng sĩ
nhất. Le plus jêun adjudant de l’armée. ĐM… thằng Thiếu tá Bgiard đã nói với
tôi như thế".
"Bgiard là thằng nào?"
"Là Tiểu đoàn trưởng Tème BPC, tức là
Tiểu đoàn 6 Thuộc địa, thứ này hách hơn Tiểu đoàn Nhảy dù Việt Nam… Tôi thèm
thuồng đến nhức tim, tìm đủ cách để bắt thêm huy chương để đủ điểm lên cấp bậc,
hơn ai hết tôi biết điều đó. Đến hôm nay cũng thế, tôi phải lên Đại uý, tôi cần
điều đó hơn ông, lên Đại uý chuyển ngành làm sĩ quan tiếp liệu Sư đoàn nhàn
hơn, có chút tài lợi. Đại đội trưởng tác chiến ăn cái gì đây, palm tôi có 6
cái, lục quân huân chương có rồi… Tôi muốn gì nữa, không lẽ làm Lữ đoàn trưởng?
Đấy, tôi biết tôi phải làm những gì cần thiết. Tôi cần lên Đại uý hơn ông,
nhưng tôi cân nhắc so sánh, tôi không tapi ẩu, sức mấy để đại đội bị mẻ vô ích,
cái gì tôi cũng làm được nhưng liều thì không. Liều, việc đầu tiên là giết mình
trước, mình mà chết thì còn gì để nói nữa".
"Đúng! Đúng!" Thuấn hét lên, lính
già mở miệng như cóc cắn, nó nói là bằng beefsteak, mù tạt, xì dầu, nước mắm,
huy chương đồng, huy chương vàng của mười tám năm un đúc nên, em cãi lại thế
nào được. Minh con ơi! Mày mới hai mươi bốn tuổi hai tháng, mày có thông minh
tài giỏi thế nào cũng không bằng thằng mười tám năm lính, kinh nghiệm là cái sờ
bằng tay, ngửi bằng mũi, kinh nghiệm có chiều cao, chiều dài, và kinh nghiệm
nhà binh là nhất, nó như cái nón sắt trên đầu, nó đè đầu mày xuống, nó bóp máu
mày lại, nó làm gãy cổ cứng người nhưng không có thì chết, chết nghe con trai…
Hà hà, luận tiếp nữa đi Lạc già năm cùng tháng tận, giờ phút thiêng liêng ông
bà tổ tiên về đâu đây, nói đi cai Lạc, lời ông tôi chịu hết cỡ, truyền lại kinh
nghiệm xương máu cho đàn em. Thuấn đưa ly rượu lên môi, mọi người bắt chước, những
cái ly để xuống mặt bàn gồm những thùng lựu đạn xếp vào nhau, sau những tiếng
lạch cạch im lặng đè xuống như bóng núi đè xuống phần chân trời.
"Thế ông đi lính để làm gì?" Minh
hỏi qua phía Thuấn.
"Tôi à, cái mục tiêu của tôi lạ lắm, đôi
khi tôi cũng chẳng biết trong lòng muốn điều gì, tôi đặt những mục tiêu và bắt
buộc phải đạt cho kỳ được, tạo ra khó khăn để bắt tự thân gánh chịu… Trước kia
tôi không rõ, nhưng sau này càng ngày như thấy mình trong suốt. Tôi có cảm giác
thấy được ruột gan phèo phổi của chính thân mình. Có những câu nói bình thường
nhưng tôi biết xuất phát từ đâu và định hướng vào mục tiêu che giấu kín đáo nào
đó, thấy được thế và đồng thời cũng hết thú vị vì không đánh lừa được mình
nữa…"
"Ông nói nghe rắc rối bỏ mẹ". Lạc
gật gật đầu.
"Tôi không chối, tôi tự mình gây nên
chuyện rắc rối và chui đầu vào đó. Hình như trong khốn đốn nghiệt ngã tôi tìm
được thú vị… ĐM… ĐM… nói theo kiểu chữ nghĩa đúng là bạo dâm tinh thần".
"Ví dụ?"
"Nhiều lắm, uống cái đã rồi luận tiếp.
Này nhé, thuở bé tôi là thằng học dốt, tôi học dốt kinh khủng, chẳng hiểu sao
lời giảng tai này chạy sang tai kia, trí óc trơn như thỏi xà phòng chẳng đọng
được chút cát bụi mơ hồ nào trên đó. Và nếu hiểu rằng sự học dốt là thiếu thông
minh hay không chuyên cần thì thật khoẻ, đằng này, tôi không chịu mình là loại
người tầm thường, thiếu cố gắng. Tôi tự cho mình là phi thường, cỡ người có trí
thông minh sắc bén, rõ hơn là thiên tài… Thiên tài, tôi chẳng bất tài chỗ nào,
nhưng lòng cứ tưởng như thế, thế là tôi đặt ra những mục tiêu, những điều lệ,
những tiêu chuẩn để chứng tỏ sự thông minh ngoại khổ của mình. Tôi sửa soạn mài
nhọn giác quan để rình rập từng cử chỉ sơ hở của bạn đồng lớp, trẻ con nào
chẳng ngờ nghệch ngây thơ thiên bẩm, khi linh hồn chưa phải phấn đấu, thế nên
tôi dồn hết năng lực để nói những câu khôi hài lạnh tái người, câu móc họng làm
đắng cổ kẻ đối thoại. Tôi che giấu sự kém cỏi học dốt của mình bằng lớp sơn
khôi hài phóng khoáng. Lâu ngày thành thói quen, tôi nhạy cảm đến mức bệnh
hoạn. Năm mười ba tuổi học đến bài khoa học về khí ammoniac, tôi lấy liền danh
từ đó để biến thành một tĩnh từ, chỉ sự xấu xa nhơ nhớp cùng cực. Bằng hết cả
khôn ngoan, tôi phổ biến và tập cho lũ bạn chấp thuận ý nghĩ của mới của danh
từ. Một cô bạn phải bỏ học vì không chịu nổi sự trêu chọc khi tôi chọn cô ta
làm đối tượng đầu tiên cho "tĩnh từ" đó. Khổ một điểm, tụi bạn học
cùng lớp đều đồng ý gọi tôi là "thiên tài khôi hài", chúng nó gọi
thật lòng và nồng nhiệt, và vì thế, bao nhiêu suy nghĩ chỉ hướng về sự tìm tòi
những chữ mới, những danh hiệu nực cười, tôi rình rập đám đông để kiếm nét khôi
hài của họ… Sự mệt nhọc ấy kéo dài cho đến ngày khôn lớn".
"Ông kể cái gì rõ nhất và gần đây hơn để
thiên hạ hiểu rõ, chứ chuyện đời xưa lâu quá đâu ai biết…"
"Chuyện thì phải có đầu đuôi, phải kể lúc
nhỏ rồi qua tuổi lớn mới có mạch lạc. Để tôi kể tiếp, như vụ bà cụ tôi, phải
nói tình mẹ con giữa tôi và bà già vượt khỏi mức tầm thường. Ông cụ tôi ở lại
ngoài Hải Phòng, gia đình tôi vì lần lữa mãi nên vào Nam bằng chuyến tàu chót.
Tàu lớn ngoài khơi phải đi mảng ra đón mới được, tỷ như cảnh trong hình cái tem
di cư. Tàu chúng tôi đến Đà Nẵng, ở trại định cư bằng lều nhà binh trên cát mỗi
ngày được 6 đồng và ổ bánh mì. Thiếu thốn, cực khổ, đói và rét, trời dịp đó gần
Tết, mưa và gió thổi qua cánh đồng vắng, trại đóng sát bờ biển, chúng tôi ngủ
trên đất, gió thổi xông hơi nước mặn chát ở trên da. Nhưng trong hoàn cảnh ấy,
bà cụ làm việc đầu tiên là xin cho tôi vào học trường công thị xã… Các ông thấy
đấy, bà cụ già nghèo khổ xin được cho con mình vào học trước khi nhà trường xét
đến lớp con của công chức và quân nhân di cư. Tưởng cảnh một bà già áo sũng
nước mưa, bụng đói cố vịn từng cây phượng băng qua khu trường học mông mênh để
đến văn phòng hiệu trưởng năn nỉ ông này nhận con mình vào học, mẹ tôi gục ngay
cổng trường khi nộp đơn xong. Bà ngất đi vì đói và rét. Tôi biết tình thương
cao quý đó và tự nhủ rằng phải sống như bà cụ mong ước. Nhưng các ông thấy, tôi
làm ra vẻ lạnh nhạt, hằn học với cụ, tôi không chịu học, tôi đi học một cách
miễn cưỡng, bỏ bê sách vở, tôi cố nhớ lại trận đòn năm mười tuổi, một buổi
chiều giáp Tết, tôi lấy bộ áo quần mới mặc vào, đến trước mặt cụ khoe: "Mẹ
xem con mặc quần áo mới có đẹp không?". Lúc ấy tôi nhớ rõ ràng từng chi
tiết, hơi thở, tia nhìn… Bà cụ quay sang gắt: "Sao lại mặc bây giờ, mồng
Một lấy gì mặc?"… Giọng bà hơi khó chịu vì đang tiếp chuyện người hàng
xóm. Chỉ có thế, nhưng tôi nhớ như in vào mỗi phân tử óc, rồi tôi cứ đeo quanh
câu nói bất chợt đó, đi tạo nên thù hận, cau có, nói trái lời và không chịu học.
Tôi chống đối với mẹ tôi bằng tất cả khó khăn đau đớn trong lòng vì tôi thương
mẹ biết bao nhiêu. Nguy biến hơn, càng ngày tôi càng cứ nghĩ thái độ nguỵ trang
đó là thật, cho đến ngày mẹ tôi chết, tôi mới biết mình đã đóng một vai trò
nghiệt ngã quá sức.
"Thế bây giờ đã xong chưa?"
"Chưa, chắc sẽ có màn kịch mới khác, các
ông không biết tôi là đại diễn viên sao? Thuở nhỏ các anh giáo sư và tụi bạn
nhất định gọi tôi là "thiên tài" kịch nghệ. Tôi nhớ có ông giáo sư
tên Hào trong buổi liên hoan toàn thể học sinh miền Trung đã giới thiệu tôi:
"Đây là một thiên tài dành riêng cho sân khấu, niềm hãnh diện của trường
chúng tôi, anh Trần Nguyên Thuấn"… ĐM, cứ như thế là tôi tuột đi dài dài…
Cái vụ đi lính này cũng vậy, đúng chỉ làm khổ thân. Rót thêm ly rượu nữa, có
rượu tôi mới luận tiếp được".
"Hết rồi, còn một chút khi kể chuyện Tây
say, ông Lạc bắt chước Tây, uống sec mấy cái còn gì đâu". Minh chậm rãi
đứng dậy, cho áo vào quần vuốt vuốt mấy cái.
"Đi đâu?" Thuấn nhìn vào chiếc ly,
xoay xoay mấy vòng trên tay.
"Về Huế, sếp cho tôi nghỉ hai ngày kể từ
6 giờ chiều nay cho đến chiều mồng Một. Từ ngày ra trường đến giờ tôi mới được
về nhà".
"Có nhà để về là khá rồi, hôm nay bao
nhiêu?"
"28, năm nay 29 rồi đến mồng Một".
"Tháng ngày gì kỳ vậy…" Thuấn đánh
cái ly vào răng. Chẳng ai nói với ai. Mấy Trung uý và Chuẩn uý đứng dậy…
"Thôi chào Đại uý. Chào Trung uý".
"À, mấy ông về coi trung đội". Thuấn
vẫn ngồi trên ghế, đưa tay chào mỗi người, lòng bàn tay xòe phía trước, bàn tay
để dọc theo thái dương… Kiểu chào này là của Thiếu tá Bảo đây, khoá 14 Đà Lạt
giờ này mới bắt được Tiểu đoàn phó… nhà binh khó thật. Thuấn ngồi nghĩ lang
bang.
Lạc đứng dậy tiếp: "Tôi cũng về Huế
luôn".
"Ông Bắc kỳ về Huế làm gì nữa đây?"
"Bà vợ đem hai đứa con ra đây ăn Tết.
Tiên sư, mười tám năm lính chỉ ăn Tết ở nhà có ba lần, còn ngoài ra toàn đón
xuân trong rừng, đầu đường xó chợ không thôi…"
"Có gia đình làm gì cho khổ?"
"Người không có gia đình thì có gì? Ông
chỉ nói dóc, dăm ba năm nữa khi mót lấy vợ dám nhặt cả điếm về làm vợ không
chừng".
"Sức mấy, tôi trẻ tuổi đẹp trai mà
ông…"
"Tôi đi với ông cho vui"
"Ừ". Lạc và Minh đi xuống con đường dưới chân đồi…"
"Thuấn". Minh gọi vọng lên.
"Gì?"
"Chiều mai xuống nhà, tôi dẫn đi ăn cơm,
có cái tiệc của bà chị họ".
"Ừ". Bóng hai người khuất sau rặng
tre. Thuấn nhìn vào những chiếc ly lăn lóc trên mặt thùng lựu đạn.
"Thiên?"
"Dạ, gì Đại uý?"
"Lục túi áo tao, xuống dưới kia mua tao
mấy chai bia".
"Dưới làng không có bia".
"Có, phải có, không bia thì mua rượu đế,
rượu nếp cẩm gì cũng được, mua cái gì tao đổ vào mồm say được thì thôi… Nghe
chưa?"
Binh nhất Thiên cười lầm lì quay đi không nói.
"Tiên sư! Thuấn lẩm bẩm chửi thề. Trời
lạnh cóng. Nắng vàng ánh lên rộn rã.
°
"Thầy uống với tôi ly rượu?" Thuấn
đẩy chiếc ly về phía người tu hành.
"Cám ơn, dạ không uống được, tôi ngồi
chơi với Đại uý được rồi… Những ông kia đâu hết rồi ạ?"
"Đi rồi, tụi nó bạc lắm, hết rượu là
biến, vừa rồi có chai Black and White. Bây giờ tôi uống rượu nếp cẩm, uống đi
ông thầy…"
"Dạ thôi, tôi uống không được".
"Thầy uống không được hay thầy không được
uống?"
"Cả hai". Người tu cười, nụ cười
hiền trên gương mặt đôn hậu đỏ hồng ánh nắng.
"Không uống rượu được thì thầy uống chút
bia vậy, buổi chiều cuối năm như thế này buồn quá, thầy ngồi chơi với tôi cho
vui".
"Dạ, Đại uý cứ để cho tôi tự nhiên".
Thuấn đưa chiếc ly nhỏ lên miệng. Ực. Thuấn
rót thêm ly nữa. Người đi tu đưa mắt nhìn tỏ vẻ lạ lùng.
"Rượu nếp, tôi hoà thêm bột dâu Mỹ vào
nên có màu tím, ngọt vô cùng, như nước đường vậy, thầy uống thử cho biết".
"Thôi, tôi uống bia vậy". Đại đức
Trí Không lanh lẹ nắm lấy ly bia. Hơi men làm lớp da người tu hành hồng hào
hơn, ánh mắt loáng lên tia nhìn vui thích mới mẻ.
"Bia ngon hả thầy? Tiếc rằng thầy không
ăn mặn được, không thôi tôi lấy cái ché mời thầy. Bia ăn với ché ngon không tả
nổi…"
"Được, Đại uý cứ để tôi. Đại đức nâng ly
bia lên lần thứ hai".
"Đừng gọi Đại uý nữa thầy ơi, nghe kinh
bỏ mẹ. Ấy, tôi lại ăn nói nhảm nữa, anh, à thầy tha lỗi, tôi có cái tật hay nói
nhảm, nhà Phật gọi thế là… là gì tôi quên mất, là nghiệt khẩu phải không
thầy?"
Người tu tủm tỉm cười: Nghiệt khẩu là nói
những điều ác. Đại uý nói toàn chuyện vui thì đâu có gì.
"Sao ông biết tôi nói chuyện vui? Ấy tôi
lại quên gọi thầy".
"Không sao, thầy chỉ là một tiếng gọi,
cốt cái tâm của Đại uý là đủ. Giọng người Huế đều đều chậm rãi, không thoáng
nhỏ ngúc ngắc".
"Không, tôi thích gọi tiếng thầy lắm,
nhưng chưa có thói quen, trở lại chuyện nói đùa, thầy không biết chứ tôi nổi
tiếng bốn vùng chiến thuật vì cái mồm. Người xưa người ta lập công, lập đức và
lập danh, tôi thì lập ngôn, ngôn rồi nó cũng thành danh, danh này quý lắm, danh
ba xạo, danh say rượu, danh núi lở trời xoay…"
Người tu hành vòng hai tay vào áo cà sa ngồi
nghe vui thích. Từ bi và phiền não gặp nhau, gặp gỡ để thấy rõ nguồn hạnh phúc
cùng nỗi muộn phiền của mỗi bên. Biết để thấy không thể hoà hợp giúp ích gì cho
nhau, hai bên nhìn nhau như phần đời xa cách không đạt đến.
"Tôi vốn tánh ba hoa, nên khi thấy người
trầm tĩnh tôi mến lắm. Bắt tôi ngồi một mình giữa chốn tĩnh mịch này khoảng hai
ngày chắc tôi điên mất, sống phải cho tôi nói chuyện, chuyện gì cũng được,
chuyện trời trăng mưa gió, chuyện đá cá lăn dưa, từ hội hoạ cho đến nghệ thuật
chơi bời, tôi luận một mạch không vấp váp. Ấy tôi lại nói với thầy những điều
xấu".
"Không hề gì, tôi cũng đã lớn và không
đến nỗi kinh điển quá để không thể nghe một tiếng tục tằn. Ở chỗ tôi học, các
anh sinh viên thường trêu tôi bằng cách gợi những chuyện ái tình hoặc tiểu
thuyết không đứng đắn. Nhưng tôi nghĩ không can hệ gì cả".
"Hà hà… tôi đâu biết, tôi chỉ tưởng ông
kẹt cứng đời dưới cái chuông rồi. Xin lỗi thầy, tôi lấy ví dụ để nói về sự kìm
kẹp của đạo giáo, sự kiềm chế tự nguyện. Có cái dòng tu trên Đà Lạt, tôi theo
ông linh mục dạy triết vào thăm, cứ mỗi ông một cái buồng, ngồi úp mặt vào
tường đọc kinh, chỉ thấy thôi tôi cũng đủ sợ đến khiếp. Có người trẻ cỡ tôi với
thầy…"
"Phật giáo cũng có các thầy Thượng toạ
ngồi thiền cả ngày, thầy trụ trì chùa này tám mươi mốt tuổi, ngồi thiền như vậy
gần năm mươi năm, đến một lúc nào đó xác thịt không còn là vấn đề".
"Tôi biết, như những tỉ dụ bố thí của
tiền thân đức Phật, nhưng cái xác mình đây tự nhiên đem ép thành một hình khối
vô tri thấy… kinh bỏ mẹ". Thuấn ngần ngừ trước chữ "bỏ mẹ" một
chút, giọng nói tiếp tục tự nhiên. Nhà tu hành mỉm cười ý nhị không nói.
"Mỗi cảnh đời có một quyến rũ riêng, đời
lính tráng cũng hay, khổ cực thể xác làm sáng tỏ linh hồn. Đấy cũng là một lối
tu".
"Tôi chẳng thấy hay ở đâu hết, nó ép buộc
mình trong ti tiện tầm thường, tập con người sống khuôn thước chật chội của bản
năng, tôi chỉ thấy càng ngày càng tệ hơn trong cảnh lính tráng này. Nói luôn
với thầy cho nó hả, bên đạo Công giáo có xưng tội, thuở nhỏ tôi học trường dòng
có điều gì cứ xưng tội là xong. Chúa gánh hết trách nhiệm phần hồn mình, ông ấy
tạo nên đàn ông, đàn bà, con rắn nên ông ta chịu trách nhiệm cứu vớt, thế là
phải. Đạo Phật rắc rối và mệt quá, phải tự mình thắp đuốc lên mà đi, sợ rằng
không có đuốc mới khốn nạn!" Thuấn cười sung sướng vì tìm ra được câu ví
với nhau đúng. "Tôi nói thế này có phật ý không?"
"Không. Đại uý nó đúng lắm, tôi rất
thích". Giọng nói bình thản, phẳng lì như gợn âm thanh của tiếng chuông
tản mát vào hốc núi. Thuấn thấy bị đe doạ và coi thường.
"Thầy đừng gọi tôi là Đại uý nữa. Ông
tiếp tục gọi như thế tôi xưng "con" cho ông choáng váng luôn".
Người tu hành cười im lặng, đưa ly bia lên một lần thật lâu.
"Vừa rồi thầy bảo đời lính cũng hay, bây
giờ người ta bắt thầy đi lính, thầy có đi không?"
"Có. Câu trả lời không ngần ngại. Cởi
chiếc áo này tôi vẫn là người tu đạo, tôi thấy không có sự khác biệt nào dù tôi
thay chiếc áo nâu này bằng áo sơ mi rằn ri như của Đại uý. Nếu cần trong hoàn
cảnh khó khăn để sống, tôi cũng có thể làm điều luật giới ngăn cấm như ăn
mặn…"
"Thầy giết người được không?"
"Không. A Di Đà Phật, chữ đó kinh khiếp
quá, tôi muốn nói đến những điều phạm cấm kỵ bình thường thôi. Giới sát là giới
nặng nhất, nhất là phạm với đồng loại". Người tu hành nhìn xuống hai bàn
tay run run như thể đang có một lớp máu vô hình.
"Như thế chúng tôi thuộc hạng giết người
nhà nghề, đáng kinh tởm lắm sao?"
"Không phải vậy. Khi đặt vấn đề như thế
là lương tâm xao xuyến, là đang khởi đầu một vận động tinh thần hướng về từ bi.
Chúng ta không nên khắc nghiệt với chính mình. Cuộc đời mở đầu bằng nỗi triền
miên".
Có tiếng chuông thu không, hai tiểu bắt đầu
tụng kinh chiều, tiếng ê a trầm bổng từ chùa vang ra thênh thang khắc khoải. Im
lặng, nỗi im lặng mệt ỏi của con người sau cuộc đua.
Thuấn mời nhà sư điếu thuốc: "Thầy hút
thuốc được?" "Dạ có, ở lớp các anh vẫn mời tôi hút luôn". Điếu
thuốc đưa đến. Đại đức Trí Không đón lấy thành thạo nhẹ nhàng. Điếu thuốc hay
dấu vết trần tục, bao nhiêu người đã có hậu ý khi mỗi nhà sư khởi đầu thói quen
nhỏ bé này. Họ muốn gây một vết ố mờ nhạt trên tấm vải mênh mông. Đại đức biết
điều đó nhưng thường chấp nhận tự nhiên và giản dị. Một phần nhập thế ở trong
hơi thuốc xanh xám. Bao nhiêu lần nhà sư đã chơi trò trốn bắt vui thú giấu mặt
này?
"Thầy có vẻ hiểu rõ đời sống trần
tục?…"
Nhà sư cười đưa điếu thuốc trước mặt:
"Qua cái này?" Câu hỏi sau khi thở một vòng khói thật kiểu cách.
"Có nhiều người đã rủ tôi sinh hoạt các phong trào sinh viên chống chiến
tranh và người Mỹ, như trong vụ đòi thành lập Hiến pháp và Quốc hội năm
ngoái".
"Thầy có theo không?"
"Không, tôi không thích bạo động, bất kỳ
hướng nào đến, tôi không có tinh thần cực đoan dù cho Tổ quốc hay Đạo giáo, tôi
chỉ là đang trên đường tu đạo và đi học, chưa phải lúc chọn cho mình một quyết
định khác ngoài đời sống này. Đại đức thở thêm vòng khói. Chợt nhớ lại trên đầu
có ba lỗ thủng quỳ hương, ba lỗ thủng cháy sâu vào thịt chứng tỏ một bước đường
chế ngự thể xác đã đi qua, mùi thịt cháy bốc khói, than cháy đỏ luồn theo mỗi
tế bào máu, nhà tu có cảm giác từng đoạn thịt da, xương gân bị nung đỏ chảy
xuống một đường rực rỡ tóe lửa… Thế nhưng ngồi vẫn im lặng, hai bàn tay nhẹ
nhàng khép chặt vào nhau, đôi mắt nhắm xuống bình thản. Nhà sư qua chặng đường
khổ ải bằng nghị lực có cố gắng nặng nhọc…
"Đã đến giờ thu trai chiều, xin phép Đại
uý".
Thuấn lảo đảo đứng dậy, định đưa tay bắt hay
chào kiểu nhà binh. Tất cả thái độ đều không hợp. Thuấn lúng túng chào…"
Vâng, thầy vào". Nhà tu hành khép hai tay dọc theo thân áo rộng bước từng
bước ngắn lên đồi hướng về chùa. Thuấn ngồi xuống nhìn mông mênh. Vừa rồi quên
nói với ông thầy chùa về vụ thèm gái. Đi lính, nhét vào trong núi khoảng một
tháng người muốn điên lên vì ham muốn. Kỳ thật, càng cực khổ, nguy hiểm càng
thèm đàn bà, cứ như khoảng da thịt bí ẩn đó có khả năng chôn hết khốn cùng vào
chiều sâu hun hút của nó. Thì "cái ấy" chính là nơi mở đầu sự sống,
nên khi nguy cơ, lúc gần chết người ta ao ước rờ rẫm chui sâu vào trong đó! Lại
bắt chước ý nghĩ của Henri Miller rồi? Thằng cha loạn tình Tây phương đâu so
sánh với mình được. Nó già cằn cỗi, hết lực, nhão nhẹt nhưng trong lòng ngùn
ngụt dâm đãng bệnh hoạn, không thoả mãn nổi nó mới nổi loạn, vùng vẫy la hét,
lập thuyết trên cái phần thịt đen u thẫm sống động đó… Nó là thằng liệt dương
tinh thần nên diễn cơn bạo dâm bằng ngôn ngữ và văn chương. Thằng cha già dịch,
thứ tuổi già suy sụp của Âu châu hư hỏng. Mình khác, mình là lính sống gần cái
chết nên yêu đời sống, thấy đạn nổ thì nhớ cái l… kỳ cục thật, trông thằng lính
chết đầu tiên là mình nhìn vào con c… Chán thật, cái vật bỉ ổi quý giá của kẻ
chết co quắp lạnh lùng đến tội nghiệp. Thây ma yên có vẻ bình thản của nó,
riêng cái cột chống đời đó nằm như tức tối giẫy giụa… Hừ, mình cũng bệnh tật gì
trong đầu đây? Không phải đâu, thằng chết thắt cổ trong giây phút cuối cùng nó
chảy ra dầm dề, mấy thằng lính gỡ mìn khi hành sự có thằng són ra ướt đẫm, sinh
tâm lý, bộ não bị xúc động nên chảy ra? Nhưng tại sao mình không nghĩ: Nó gần
chết nên trút sự sống ra với đời, thứ tinh lực sống trong đó có những siêu tế
bào mang nỗ lực sinh tồn, nỗ lực đó giúp cho nó vọt ra đời tìm cách sống? Ấy
mình nghĩ thế có thể đúng lắm! Phật cũng phân biệt trong con người có những vô
lậu chủng tử kia mà, hai nghìn rưởi năm Phật đã nghĩ các tế bào siêu vi đó có
khả năng di truyền và năng lực tồn tại qua luân hồi. Cứ nhìn thằng lính chết
mình lại nghĩ đến phút nó ái ân với vợ, cái chết làm rõ giá trị khi được sống
và lúc nào nó sống đầy đủ nồng nàn nhất, thì đúng là lúc nó di động miệt mài,
rên rỉ, mê mải trên bụng con vợ. Lại có bà vợ nồng nhiệt đè thằng chồng xuống
là sự thường! Hay thật, giây phút ngắn ngủi đó chính là phút thiên thu. Khi trút
đi lượng chất lỏng mang sự sống là đạt tới một giá trị siêu hình thật chứ chẳng
chơi…!!
Trời xuống tím thẫm, lạnh. Thuấn choàng tay ôm
lấy ngực, người cúi thấp xuống, luồn một tay vào quần. Cứng quá thế này? Chắc
vì rượu, hai tháng hơn chưa dùng đến nó, lên đến óc rồi… Khó chịu thật.
"Thiên?"
"Dạ, Đại uý…"
Thuấn không nói, liếc nhìn thằng lính thân
tín, mặt nó đẫm trong bóng tối không rõ.
"Gì Đại uý?"
"Mày có thèm đàn bà không?" Câu hỏi
trống rỗng. Thuấn nghe tiếng cười gừ gừ từ cổ thằng Thiên.
"Mày cho tao say sao? Uống không? Uống
thứ rượu nếp cẩm Việt Nam pha với bột nho Mỹ. Uống đi, mày nuốt cả hai nền văn
minh siêu đẳng đó. Một thứ kỹ thuật siêu đẳng, một thứ đau khổ siêu đẳng. Tao
là loại sĩ quan siêu đẳng mà là thằng lạc đà siêu đẳng, mày với tao là hai thầy
trò".
"Siêu đẳng!" Thằng Thiên hân hoan
vui thú phụ hoạ.
"C… Khốn nạn. Mày với tao là hai thầy trò
khốn nạn. Hôm nay là hai mươi tám Tết rồi đó Thiên…" Giọng Thuấn trở nên
mơ màng, nghẹn nghẹn. Thằng Thiên không nghe được hơi rượu nữa, nó nghe thấy
tiếng khóc được nén xuống của "ông thầy". Trời tối, chẳng ai thấy mặt
ai, gió núi thổi se sắt rờn rợn như lưỡi dao mỏng lướt qua vành tai. Sương mù
đã phủ kín. Thiên nghe tiếng nói tức tưởi trong sương mù đó: "Mày với tao
là hai thầy trò khốn nạn, mày nghe chưa Thiên? Chiều hôm nay là hai mươi tám
Tết phải không Thiên? Tao nhớ bài hát "Chiều ơi nắng vàng phai màu rồi,
chạnh nhớ quê hương bên trời xa…". Mẹ tao chết nên tao cũng không biết
sinh tại chỗ nào, mày biết quê tao không Thiên? Nhưng tao cũng nhớ quê lắm, tao
nhớ làng nhỏ tên gì, phải đi qua một khoảng đồng trống nứt nẻ mới đến luỹ tre,
cổng làng. Quê ngoại cũng là quê hương được phải không Thiên? Quê mày ở Huế này
hở Thiên? Ở chỗ nào mày chỉ tao xem…"
"Đằng kia". Giọng nói ướt nhòe sũng
nước mắt.
"Ơ hay, sao mày khóc? Tao không khóc thì
thôi, sao lại mày? Ở đây có thấy làng mày không?"
"Dạ có, ban ngày có, ban đêm không
thấy".
"Ở đâu vậy? Quê gì kỳ cục, ban đêm nó
biến đi đâu?"
"Buổi tối, không thấy chỗ đó được, nó ở
sát bờ biển". Thiên ngửi thấy trong dòngg nước mắt mặn đắng có pha mùi đại
dương của ấu thơ. Trong bóng đêm giọng của ông thầy nó vẫn vang lên phiền muộn…
"Mày với tao là hai thầy trò khốn nạn!"
CHƯƠNG 5
Lạc bế đứa con nhỏ trên tay, đứa lớn theo sau,
người vợ đi bên cạnh mang gói thức ăn và trái cây.
"Mình đi mua thêm ít hồng khô nữa".
"Ở đâu?" Đứa bé trên tay nặng trĩu,
vùng vằng đòi xuống đất. Lạc hỏi, cau mặt đặt con xuống đất: "Đấy, mày
muốn đi thì cho đi!"
Bà vợ rít giữa hai hàm răng: "Bế nó lên
đi, người đông thế này làm sao nó đi nổi, chỉ mỗi việc bế con anh cũng làm như
khổ cực lắm".
Lạc không nói, xốc lại con trên tay, anh lóng
cóng móc gói thuốc với bàn tay trái. "Coi chừng hút thuốc trúng tàn vào
con". Lạc thở hơi khói chịu đựng không nói.
"Anh biết hàng bán hồng ở đâu
không?"
"Làm sao anh biết được". Lạc muốn
phì cười vì câu hỏi của vợ.
"Anh chẳng biết gì cả hay sao? Anh hành
quân ở đây suốt năm không biết chợ bán hàng gì, ở đâu?!!"
"Không biết nên làm sao bảo cho em".
Lạc tính nhẩm, từ mùng Tám Tết năm trước đến hôm nay hai mươi chín ta, biết bao
nhiêu ngày? Nhiều quá, một năm rồi đấy, một năm hành quân từ Gio Linh qua Cùa,
Khe Sanh, dọc theo con đường số 1 về Mỹ Chánh, Phong Điền, Phú Thứ… Quê ngoài
Bắc cũng không hiểu rõ bằng cái vùng đất cát của hai miền Thừa Thiên, Quảng Trị
này, vùng núi Đông thông băng qua Cổ Bi, Hiền Sĩ, trực thăng vận vào đến lần
thứ tư, khoảng hè có về Sài Gòn được mười bốn ngày rồi lại mò ra đây… Uống nước
sông Bồ, sông Thiệu Hoá, sông Hương đến độ mòn lưỡi, đôi giày botte de saut hôm
Tết kia mới toanh nay đã vẹt đế thấy được miếng sắt lót ở trong, một năm biết
bao nhiêu lần ăn thứ bún đỏ chạch cay xé cổ. Lạc quen với đất này bằng cách
biết rõ từng nhà chứa điếm, ổ của con mụ mặt mụn ở cửa Cập nhà trước có bàn
thờ, tượng Phật, tượng Quan Công, bát tiên, ông táo chen lẫn nhau, hàng rào chè
Tàu uốn khúc thành hình con công con phượng, kín cổng cao tường, nếu không có
người dẫn đến chẳng làm sao biết được đây là chỗ chơi bời. Lạc chỉ biết nơi chốn
hạ tiện, những điều vô bổ, những người truỵ lạc thảm thương, trong bóng tối,
nơi điêu tàn… Lạc di chuyển qua những ngày hè nắng gắt khô khan, qua những ngày
mưa dầm ủ dột triền miên. Mưa thối đất thối dai, mưa thảm sầu thê thiết, mưa
không dứt hạt, không thấy cảnh, không thấy người.
Lạc qua những núi cao lẩn vào sương mù, những
dòng sôngg phơi đáy, nghe những tiếng nói lạ lùng đầy danh từ đặc dị. Lạc mỉm
cười…
"Anh cười cái gì thế?"
"Không. Đúng là anh chẳng biết cái gì cần
thiết cả, anh chỉ biết, những chuyện vô ích thôi".
"Vớ vẩn!" Người vợ nguýt Lạc một
cái.
Đúng là vớ vẩn, Lạc thấy vợ nói có lý. Lạc chỉ
biết nhiều điều tai hại lạ lùng rất dễ dàng lung lay trí não con người như
những trái lựu đạn gài chi chít vùng Lại Hà, Đại Lược, những trái mìn chống
chiến xa nằm dưới mặt cát phẳng lì, mưa làm biến hết dấu vết tay người chỉ còn
lại mặt phẳng mênh mông trơn láng, chấm phá vài cụm lá cây dại, rễ không đủ sâu
nên thân chỉ nhoi lên khỏi mặt đất khoảng nửa thước. Đúng là vùng đất chết, hèn
gì Tây gọi là "dãy phố buồn thiu". Nhưng có nơi nào vui trên đất nước
này? Sài Gòn? Cũng chỉ là nụ cười gượng gạo trên khuôn mặt thiểu não mất máu
của quê hương đang giẫy giụa trong cơn hấp hối. Lạc còn biết thêm nhiều tiếng,
nhiều vật, nhiều cảnh lạ… Trầm – trên khoảng cát mênh mông những nơi trũng
xuống, nước đọng làm thành. Nhưng không thể gọi là hồ hay ao được, hồ hay ao có
vẻ đơn sơ êm đềm, hồ hay ao có hơi người, có sức sống. Những vũng nước đọng mà
người Huế gọi là Trầm có vẻ ma quái, lạnh ngắt, không bóng chim, không vết thú,
nước cạn khoảng một thước nằm dài dằng dặc trên cây số, rộng trên dưới hai mươi
thước, nước đọng giữa cát nên không tăm cá, chẳng có chiều sâu, không chiều
rộng để nổi lên gợn sóng, thân cây rên không có đất bùn để bám… Trầm, như u uất
lặng lẽ nghèo đói cơ hàn đọng từng vũng, từng vệt trên đất đai của xứ sở tội
nghiệp buồn phiền. Trầm, tên gọi nghe thật buồn. Người Huế quả thật nhạy cảm để
đặt tên cho nỗi buồn giấu kín. Rừng lựu đạn nằm chen trong luỹ tre, hai bắp
chân nhăn nheo của mụ điếm già, vũng nước lặng lẽ giữa hai cồn cát ngột ngạt,
trái ớt trong tô bún bò vàng đỏ… Mọi thứ hỗn độn trong óc Lạc, thứ óc não mệt
nhoài của mười tám năm lính, vợ bốn con. Còn chỗ nào cho Lạc nhét vào đó căn
hàng hồng khô để nói cùng vợ. Một năm Lạc ở Thừa Thiên chỉ đủ biết được nỗi
chết cùng sự buồn rầu.
Lạc cùng vợ và con bước ra khỏi khu chợ, băng
qua đường.
"Ấy hai ông đi đâu đó?" Lạc đặt đứa
con xuống đất. Đứa con làm bận bịu ông Trung uý Vũ Văn Lạc khi gặp Minh và
Thuấn. Vì gặp hai người, Lạc mới nhớ mình là một Đại đội trưởng Nhảy dù: Đứa
con phải đặt xuống để người cha lấy lại vóc dáng.
"Hai ông đi đâu? Có gì hay không, tôi đi
theo với!"
"Chị ạ! Chị và hai cháu vừa ra?"
Minh và Thuấn hình như không chú ý đến Lạc. Tụi trẻ hay chứng tỏ có khả năng lễ
phép và thuần thục. Lạc thấy trống rỗng, cơn vùng lên ngắn hạn xẹp xuống, nhưng
Lạc không ngã lòng, gã lính già cố gắng thêm một lần nữa:
"À bà xã moa vừa mới ra. Hai ông đi đâu,
tôi có thể đi theo?…"
"Thôi mà ông, cả năm ở với chúng tôi rồi,
có hai ngày phép bà chị ra, ông lại định đi đâu bây giờ. Vừa phải thôi, chúng
tôi cũng chẳng có chuyện gì".
Lạc cười hì hì. Như vậy coi như đủ, câu đi câu
lại cũng vừa chấm dứt vở kịch nổi loạn, trả thù sự cáu kỉnh của vợ. Lạc quay
sang nhìn vợ, trong ánh mắt mệt mỏi của người đàn bà có vẻ trách móc. Lạc vội
vàng:
"Ấy nói thế chứ đi theo các ông để bà ấy
xé tôi ra làm hai à… Hì hì…" Đứa con chạy xoắn vào chân Lạc.
"Chào các chú đi con, thằng này cũng tên
Minh".
"Tốt gì cái tên tôi, lại đi lính Nhảy dù
chứ khá được chút nào. Tiểu đoàn mình đổi chỗ rồi".
"Sao ông biết? Ông cũng đi phép từ chiều
hôm qua với tôi cơ mà".
Thuấn nói:
"Tôi vừa nói cho nó biết, mình dời ra cây
số 17. Dọn từ sáng hôm nay, chiều qua lúc các ông vừa đi, tôi nhận lệnh. Tôi
thì say, hai ông đi phép, quan Tư rên quá cỡ. Tôi cũng chẳng biết ông ta nói
gì. Sáng nay khi xe đến cây số 17, tôi không biết đóng ở đâu, cho xe ngừng ở
chỗ toà nhà Hội đồng xã, bị ông ấy phang cho mấy câu… Hi, tôi đâu có nghe trong
buổi họp ông ấy đã ấn định tôi phải vào ở trong doanh trại của Trung đoàn 2 bộ
binh. Say quá cỡ chẳng biết trời trăng gì nữa…"
"Chiều hôm qua uống có bao nhiêu. Thường
Đại đội phó của tôi có họp đấy chớ?"
"Có, nó cũng lính già mà ông, còn hy vọng
"đảo chánh" ông để nắm Đại đội chứ, sức mấy Đại đội phó bê bối nổi,
láng cháng cho xuống lại Trung đội trưởng là ăn mày. Tối hôm qua tôi say là vì
sau khi các ông đi, tôi uống thêm nữa, uống toàn rượu nếp cẩm… Hì hì, rượu nếp
cẩm pha với bột dâu màu tím của Mỹ ngọt như đường phèn, tôi uống đâu khoảng ba
bốn xị gì đó, có thêm cả ông thầy chùa uống nữa… Giờ này vẫn còn choáng
váng". Thuấn lúc lắc đầu.
"Vui há!"
"Vui gì đâu, ngồi một mình buồn quá tôi
mới mời ông ta đến. Ông ta đi tu đâu nhậu được tôi lại không được nói chuyện
tếu thì nhậu có vui gì. Uống là phải nói, nói để rượu bay đi. Uống rượu bắt tôi
im lặng chi bằng đổ lửa vào người. Ông thầy chùa cũng chịu chơi, uống hết một
chai bia lớn.
"Chai bia lớn có ra gì, cả két hoạ
may".
"Thế là nhất rồi ông ơi, tôi có ý muốn
làm cho ông ta say, nhưng mặt ông ấy nghiêm trang và hiền quá làm tôi không nỡ,
cứ tưởng tượng ông thầy chùa say là vui rồi, tôi khoái ông Lỗ Trí Thâm nhất
trong Thuỷ Hử".
"Các ông thật quá, ai lại phá cả nhà
sư". Vợ Lạc khẽ nói, giọng thoáng chút trách móc.
"Đâu có chị, ông này trẻ lắm, khoảng tuổi
tôi, sư đợt sóng mới, đẹp trai học giỏi… Ông ta cũng có vẻ thích tụi tôi. Chị
tưởng ông sư già chứ gì… Đâu phải, ông ta với thằng Minh còn nói chuyện trai
gái nữa…"
"Xạo mày, hôm đó tao nói về chuyện Freud
cũng chỉ cốt để xem ông ta có tránh né chuyện tình dục hay không…" À, anh
Lạc ở đâu?
"Tôi thuê khách sạn ở đàng kia". Lạc
chỉ tay dọc theo con phố. "Phòng số 14 lầu trên".
"Xong, tối giao thừa sẽ mang rượu đến
uống với anh, ở đây tôi cũng chẳng còn bạn bè, họ hàng toàn người già, về nhà
chỉ để đọc truyện kiếm hiệp. Thôi tụi tôi đi".
"Các ông đi đâu?"
"Qua bên Gia Hội, tôi có bà chị cô cậu mở
cái tiệc nhỏ hôm nay. Thằng cha anh rể đó làm tiệc, bà chị mời tụi tôi. Ông đi
không được đâu, bà chị giết bây giờ, hơn nữa tiệc người Huế nhiều ớt lắm, ông
ăn không được".
"Sao không?" Lạc cười, đưa tay bắt
tay Minh và Thuấn. "Tối giao thừa đến nhà chơi, nhớ có gì mang theo…"
"Chào chị. Chú đi nghe hai cháu…"
"Vâng, các anh đi. Anh Minh nhớ đến chơi
với nhà tôi. Ra đây chúng tôi không quen ai".
"Vâng, kính chị!" Minh đưa tay nựng
cằm đứa nhỏ trên tay Lạc. "Chú đem kẹo tới cho mày nữa nghe Minh".
Thằng bé ngúc ngắc cái đầu.
Bằng đứng dậy… Đáng lẽ buổi họp mặt hôm nay
phải có trước đây một tháng, nhưng hôm đó vì lý do… kỹ thuật. Có những tiếng
cười nhỏ làm ra vẻ thông cảm với chủ nhân. Bằng tiếp tục… Nhưng muộn còn hơn
không, một cái cớ rất cần thiết để giới thiệu với các bạn sự… Bằng tìm một chữ
chính xác và ẩn ngụ những ý nghĩa. Thôi cứ gọi là "sự đám hỏi" cho xong
chuyện. Minh thêm câu nói nhát gừng. Có những tiếng người nửa đồng ý nửa gượng
gạo. Vâng, để giới thiệu sự lễ hỏi của tôi và Quỳnh Như. Quỳnh Như cúi đầu e
thẹn, tưởng đến giờ phút nóng hổi trên chiếc giường trải tấm nệm đỏ… Bằng ơi!
Em bị rứa là một tháng, ra Tết mình đám cưới nghe không? Chắc không? Không chắc
lắm nhưng tháng ni em chưa có. Chưa có đâu đã chắc gì, để anh hỏi thằng bạn học
y khoa xem. Quỳnh Như ngẩng mặt lên, nàng bỗng có cảm giác như vẫn còn là một
tình nhân chưa biết thú vui xác thịt ngất ngư đó. Nàng thấy thẹn, thẹn thật sự
như cô gái mới lớn bị đám đông trêu ghẹo. Hôm nay Quỳnh Như mặc áo đỏ sậm ngả
qua nâu, tóc nàng dài, nước da trắng, đôi mắt to và đen chỉ hơi buồn vì chiếc
mũi không được thẳng, hơi cong vào ở chỗ gần hai mí mắt, nhưng không hề gì,
nàng đánh phấn đậm ở hai khóe mắt gây cảm giác chiếc mũi được nâng cao. Nhưng
toàn thể của nàng rất quyến rũ, đẹp, nói thật đúng và tổng quát. Và đôi môi
nữa, Quỳnh Như biết mình có đôi môi rất đẹp, rất lẳng lơ, lẳng lơ giấu kín, chỉ
lộ ra khi sắp sửa cho nụ hôn. Một đôi môi đủ tạo thành cảm giác cuống quít vội
vã khi chạm phải. Có những tiếng vỗ tay và lời tán tụng. Quỳnh Như như được kéo
đứng lên. Qua làn mi xanh nàng liếc một vòng bàn ăn, khoảng mười đến mười hai
người, phần đông mặc veston, hoặc áo len, những cái áo len đan sợi lớn theo
kiểu mới nặng nề phóng khoáng, những khuôn mặt tuổi trẻ xứ Huế đẹp đẽ, mơ mộng
và chút suy tư. Suy tư ở những sợi tóc dài lười biếng vuốt sang bên phải rơi
lãng mạn một vòng tròn trước vầng trán, vầng trán bao giờ cũng nhăn lại để vạch
rõ những nét phong trần. Có hai khuôn mặt không có những sợi tóc mệt mỏi lãng
mạn lười biếng đó, hai khuôn mặt không nghiêm cứng khó khăn không có vẻ suy tư
đau đớn, trên đó những vết nhăn tự nhiên của đêm không ngủ, chiếc má hóp vào
của những ngày thiếu ăn và trong mắt những sợi gân máu như muốn nứt nẻ, vỡ tan.
Đất đỏ, lá thông, bùn non và thuốc súng hiển hiện trong đám tóc đen xám cứng
ngắc bị đè bẹp nằm im lặng như dấu vết của một chiếc nón sắt vô hình thường
trực. Hai khuôn mặt của Minh, em Quỳnh Như và một anh trẻ tuổi người Bắc, được
giới thiệu tên Thuấn. Thuấn ngồi co rút lại dưới ảnh hưởng của cơn lạnh, nhưng
thật ra vì không khí người Huế bao quanh.
"Ê, Thuấn. Mày biết tin con Diễm Mi
chưa?" "Sao?" "Con đó có bồ rồi, hình như thằng đó học bên
Luật, tao thấy tụi nó đưa nhau lên Ngự Bình". "Có phải thằng cao cao
hay mặc quần jean velour không?" "Không, đó là thằng Quyền làm bên
toà Hành chánh, thằng ni hình như ở Sài Gòn vừa theo gia đình ra đây, nó có
chiếc vespa mang số EH ở Sài Gòn". Sài Gòn, thành phố có bar dancing, có
những chốn ăn chơi để làm mốc cho sự trưởng thành hay sành sỏi, có những ca sĩ
được nhìn tận mặt, hỏi chuyện như bạn thân, có những nhà văn để ngồi cùng tán
gẫu mày tao như thâm giao… Gã đi xe EH chắc đã có lần gọi Lệ Thu bằng em, uống
cà phê với Nguyễn Thuỵ Long. Gã có một thế giới Sài Gòn huy hoàng riêng rẽ.
Những người trẻ tuổi xứ Huế không có Sài Gòn đó, họ chỉ có những tờ tuần san Ý
Thức, Máu Việt … Họ chỉ có những danh từ "người anh em, máu Việt Nam, niềm
đau nhược tiểu mới, vòng tay tuổi trẻ da vàng…". Họ chỉ có ly cà phê đen
thấy trong đó vòng tó cong rơi trên trán, chỉ có Rimbaurd, Quách Thoại mới
trong chiến tranh nhọc nhằn. Những điều người trẻ tuổi ở Huế có không hơn được
gã con trai đến từ Sài Gòn đi xe Vespa mang số EH… Nhưng giữa họ và gã trai trẻ
đó có liên hệ dính dáng, một Diễm My nào đó để so sánh và tìm hiểu cùng nhau.
"Tao biết mặt thằng đó rồi, nó có vẻ điếm lắm, thằng Vĩnh học Luật có đến
nhà nó chơi, nó mặc quần may ở Chua… Chua, nơi may đắt nhất Sài Gòn, cỡ bộ
trưởng … Thằng này con ông biện lý". Thuấn ngồi im lặng, cũng đến từ Sài
Gòn nhưng giữa Thuấn và những người trẻ tuổi chung quanh không có chung trận
tuyến. "Anh nghĩ thế nào là người Cộng sản?" Thuấn đốt điếu thuốc,
cười. Làm sao trả lời được. Những vận động xã hội, ý thức quốc gia cấp tiến
trong nhịp biện chứng cách mạng, sự nổi dậy của thế giới thứ ba… Những điều làm
sáng tỏ khả năng và giới hạn của phong trào cộng sản? Cộng sản? Thuấn thấy một
tên lính mặc quần cộc, chân mang dép Bình Trị Thiên nằm tênh hênh đầu gối trên
bờ ruộng, hai mái tóc ở thái dương hớt cao để lộ vết sẹo tròn ngây ngô. Cộng
sản ở ruột tượng gạo bị rách tung tóe những hạt gạo đỏ nằm lẫn lộn trong máu và
nước bùn. Cộng sản ở bức hình căn cước, hình một gã thanh niên răng hô áo
chemise chật cứng bẻ cổ đằng sau có hàng chữ "nhớ mẹ, xa quê, nhiều công
tác". Thuấn muốn dựng gã lính Bắc Việt đó dậy, đặt trước mặt những người
trẻ tuổi xứ Huế này để cho gã nghe được vận động xã hội, sự nổi dậy của thế
giới không liên kết… "Đại uý nghĩ sao sự hiện diện của ngoại quốc, nói rõ
hơn: người Mỹ?" Người trẻ tuổi xứ Huế cười cởi mở, cố gắng để trình bày
một vấn đề quá nhiều tế nhị và phức tạp. Thuấn cười, bật nắp hộp quẹt tanh
tách. Người Mỹ, những mưu toan thống trị văn hoá, chiến tranh lạnh, sự xâm nhập
và huỷ hoại của lầm lẫn tư bản Wall street, sự bế tắc lắng chìm trong chiến
tranh nhân dân… Những đề tài vuông vắn, sáng sủa linh động như miếng thạch
trong suốt được bày ra hàng loạt trước mắt Thuấn. Thuấn gật gật đầu lắng tai
nghe. Người Mỹ, những mưu mô thâm độc của CIA, quyết định gian xảo biển lận của
Toà Đại sứ. Người Mỹ với thuốc khai quang tàn hại, không khí nhiễm độc chết
chóc nhân tạo được rải lên cây, trên lá, chất độc ngấm vào đất, đóng chung
quanh bông lúa làm cho quắp khô héo hết sinh lực của tổ quốc. Chúng ta phải tố
cáo trước dư luận thế giới âm mưu thâm độc làm kiệt lực tiềm năng dân tộc! Một
người trẻ tuổi sau khi nhai xong miếng nem, nuốt xuống vội vã, khó khăn.
"Ăn một miếng ngon khi quê hương đang lầm than cũng là một cái tội, nên
phải nuốt thật nhanh thứ vật chất tội lỗi đó, nuốt xuống kín đáo và ép buộc,
xong để đấm bàn tay vào không khí. Phải tố cáo, phải tố cáo để đánh thức lương
tâm con người". Gã trẻ tuổi nhấn mạnh từng chữ, chữ có góc nhọn và sắc
sảo. "Tố cáo theo ngả nào?" Một giọng nói khúc chiết đặt lại vấn đề.
Người trẻ tuổi khác đặt đôi đũa xuống, cau vầng trán, nhíu mày hỏi bạn. Những
đôi mắt mở to, khắc khoải chờ đợi. Những đôi mắt thiết tha nồng nàn của tuổi
trẻ quá suy tư về dân tộc. Yên lặng nhức nhối bao trùm. Bằng lên tiếng:
"Phải tạo một phong trào rộng lớn ở quốc nội trong giới sinh viên học sinh
với môi trường tôn giáo…" Nhà chùa, Bằng thấy Đại đức Trí Không, khối trí
não từ bi như một bàn đạp vừa vặn cho dự định. "Phải, qua lầm lẫn của nhà
chùa, hội thanh niên Phật tử chúng ta có được yếu tính bất bạo động để làm lý
tưởng cho phong trào. Đúng, ông Bằng nói đúng và mình phải hướng dẫn phong trào
qua những mục tiêu cụ thể để tiến tới mục tiêu cuối cùng: người Mỹ phải rút
khỏi đất nước này. Người Mỹ, sự hiện diện của văn minh Tây phương bế tắc sa
đoạ". Gã trẻ tuổi đưa tay lên trời đau đớn, anh ta nén tiếng thở dài bi
phẫn. Phải tiến đến những mục tiêu như anh nói, đúng thế. Người Mỹ và áp lực
vật chất làm huỷ hoại tinh thần Đông phương, tinh thần Đông phương ở điếu thuốc
Ruby vàng khói chống với điếu Lucky đang ở trên môi Thuấn, hiện diện Tây phương
sa đoạ. Một chút khinh bỉ chán chường kín đáo trong ánh mắt. "Đại uý có
đồng ý như vậy không? Xin lỗi cho tôi gọi anh để được thân mật, tụi mình còn
trẻ mà". Bằng ép Thuấn phải mở miệng: "Vâng, gọi thế dễ chịu hơn.
Vâng, tôi đồng ý. Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy". Thuấn ăn thêm một miếng
chả tôm trên có lớp gạch vàng rực. Thuấn đưa tay hái lấy trái ớt xanh căng
cứng, bắt chước Minh cắn một miếng. "Ăn ớt sáng mắt và đỡ buồn nôn, dẹp
bớt mùi tanh của thức ăn". Minh đã nói thế. Người Mỹ, sự hiện diện sa đoạ
phải được kèm với trái ớt Huế để nuốt vào. Nhưng Thuấn không ăn ớt được, Thuấn
nhổ miếng ớt xanh ra, nhổ luôn thức ăn tanh tưởi, nhổ ra, há rộng cho trôi hết,
cạo yết hầu, cạo lưỡi cho trôi hết. Ọc! Ọc! Thuấn nôn không ngờ được…
Buổi sáng hôm nay ở cầu An Hoà, Thuấn ngồi ở
quán ăn bên đường. Người Huế nói xôn xao xung quanh, Thuấn kêu bát bún bò, sợi
bún trắng nổi dật dờ khối nước màu đỏ bốc khói trông thật ngon lành. Thuấn cúi
đầu xuống bát thức ăn, nghe trong bụng cơn xôn xao vì đói. Thuấn hít mùi thơm
trước khi ăn, ngày bắt đầu thật dễ chịu, không hành quân, được ăn sáng với thức
ăn nóng, sắp Tết và đầu óc trống trải lạnh lùng.
Xong bát bún. Thuấn hút điếu thuốc nhìn lơ
đãng ra đường. Rũ áo phong sương trên gác trọ, lặng nhìn thiên hạ đón xuân
sang. Thuấn đang nhìn thiên hạ chờ Tết đến. Thuấn vắng một gác trọ, chỉ có
chiếc võng nylon treo giữa hai hàng cột của ngôi đình, nhìn xuống con sông, xanh
ngắt, Thuấn thấy lòng xôn xao. Những đứa bé nép vào chân mẹ đợi chuyến xe đò về
thành phố trông ấm áp rung động. Nắng hanh vàng và gió lạnh. Thuấn nhớ quê nhà,
hàng cây me xanh ngắt rơi từng phiến lá li ti trên mặt đá của cái hồ đựng nước
mưa, mặt đá sạch bóng lạnh tanh. Thuấn lăn lộn trên mê mải im lìm đó. Những
ngày thơ ấu nhẹ hẫng như thứ gió đầu xuân phe phẩy những chòm lá me xanh biếc.
Gần Tết, Thuấn nhớ ngày vào Nam, tàu cập bến Đà Nẵng trong mưa bấc, trại định
cư trên bãi hoang cát trắng, cây xương rồng giãy giụa theo cơn gió và Thuấn gối
đầu trên chiếc valy mây, nghe pháo nổ bên kia sông, nơi thành phố. Thuấn nghe
giao thừa đến bằng tiếng sóng hung hãn đập mê mải vào bờ cát trong đêm khuya.
Thuấn gọi chai bia, thật khó khăn để qua buổi sáng trống trải lạnh tanh này.
Đốt thêm điếu thuốc nữa, nỗi xôn xao xoay cuộn ở trong lòng. Có đoàn công voa
từ Huế đi Quảng Trị ngang qua mặt, đoàn xe đi từ Đà Nẵng chở lính Thuỷ quân lục
chiến Mỹ tăng viện mặt trận Gio Linh, Khe Sanh. Lính Mỹ mang áo giáp, đội nón sắt
bao vải nguỵ trang viết những chữ "F.T.A. – Godammed Charlie, Vietnam
1967… Đa Năng holly jump…". Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ, bóng hình của
vinh quang Okinawa, Saipan, Wake ngồi im lìm trên thành xe, mũi súng chìa sang
hai bên đường để chống phục kích. Họ lo lắng vì ngoài kia là Khe Sanh và Gio
Linh, các căn cứ A1, A2… nằm trên chiến tuyến Mac Namara, chiến tranh ở đấy rất
nặng nề. Quá nặng, vinh quang Okinawa phải khó khăn mới xua đuổi được, nên
người Mỹ không quên mang theo lá cờ, lá cờ đã được bay nhiều lần trong chiến
thắng. Lá cờ lóng lánh sao, Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã dựng lên nhiều lần, họ
phải giữ truyền thống dựng cờ trên chiến thắng. "Chắc Đại uý đã đi hành
quân với người Mỹ nhiều hẳn biết những hành động bạo ngược của họ".
"Vâng", Thuấn đưa điếu thuốc lên môi. "Nhưng họ khéo tuyên
truyền dưới hình thức một cường quốc văn minh để giúp đỡ. Đại uý có nghĩ thế
không?" "Vâng", Thuấn ngồi trong buổi sáng, bát bún đã ăn xong,
lớp nước váng mỡ còn sót lại nhờn nhợt tanh tanh. Cho tôi ly cà phê đen. Ly cà
phê đem ra, Thuấn úp bàn tay lên, lòng bàn tay hun nóng, toàn thân lạnh, trí
não lạnh nhưng vô cùng rực rỡ…
Mười mấy lần ăn Tết một mình, ai đem thứ thời
gian cay đắng này đến làm gì. Ngày cuối năm như ngọn lửa khắc nghiệt nóng bỏng
đốt chảy quả tim lạnh tanh của người lính. Gió thổi, gió ông bà, Thuấn nghe đâu
đó một lần lúc ấu thơ. Trong gió có hồn ma hiện về dương thế tìm quê nhà. Tết,
ma còn có nhà để về, mình lai đi lang thang hơn ma hoang. Ngoài đường đoàn xe
chưa dứt. Những người quanh gánh đứng ở bến xe làm khán giả bất đắc dĩ nhìn văn
minh Hợp chủng quốc đi qua bằng con mắt buồn xám. Lũ trẻ con ngây thơ đưa bàn
tay lên! Ê! Ê! Một vài lính Mỹ ngồi trên xe uể oải ngoắt tay lại, lũ trẻ hăng
hái hơn, tiếng la được dâng lên hạ xuống đều đặn mỗi khi chiếc xe đến và đi
qua. Tiếng la biến thành loạt hoan hô nhịp nhàng khi từ trên xe có những gói
kẹo hoặc cam liệng xuống. Và những người lớn, những đàn bà đen cứng âu lo bắt
đầu đặt quang gánh xuống. Họ chờ đợi với tiếng "ê" khan đặc phiền
phiền. Người Việt Nam được người Mỹ ban hy vọng bằng những trái cam thừa bù lại
người Việt Nam trả ơn bằng cách cho người Mỹ niềm bình an đi về cái chết. Niềm
bình yên trên đường đi Khe Sanh, Gio Linh. Người Mỹ đã được hoan hô khi vào
Paris, đã được hoan hô khi vào Naples, khi vào Manilles, họ đã được hoan hô bởi
hàng vạn hàng triệu người đứng hai bên đường, mang cờ Mỹ và mồm hét lớn
"Hello, welcome Yankee", họ được đi dưới bong bóng bay nhiều màu, họ
được nhảy chân chim trong giày ngũ sắc, uống bourbon, bia hộp dưới những con
mắt hân hoan, những chiếc mồm mở ra để nói những câu "Longlive Américan
friendship, welcome GL…". Người Mỹ đã hưởng thật nhiều vinh quang, vinh
quang được điều động xếp đặt để trả ơn cho kết quả của hàng ngàn người chết ở
Bastonge, ở quần đảo San Hô, mũi Utah, hay một hẻm xó xỉnh nào đó trên bờ biển
Normandie. Nhưng chưa bao giờ người Mỹ được hoan hô trong vinh quang thê thảm
và tội nghiệp như buổi sáng nay bởi đám dân chúng nghèo nàn như một loại múa
rối tàn tạ, loang lổ hai màu đen trắng quang gánh cồng kềnh đứng trong nắng phủ
sương mờ. Mỗi chiếc xe đi qua, đám đàn bà trẻ con đưa tay lên ê! ê! Tiếng ê đứt
khúc giãy giụa trong âm thanh mệt nhọc của động cơ xe lên dốc. Lính Mỹ cười
ngây ngô, giương đôi mắt xanh nhìn đám dân vàng bệch. Trong đấu trường La Mã
trước kia đã có cơn lũ hoan hô để thúc giục kẻ giác đấu, ở Tây Ban Nha cũng có
tiếng reo hò thú vật, nặng cứng bạo ngược và dâm dục hối hả khuyến khích cơn
say sóng giữa tay đấu bò cùng con thú,. Hai nơi ấy con người có lạc thú nhìn
máu chảy. Buổi sáng gần Tết của một ngày xuân lạnh nhóm lính Mỹ và người Việt
Nam bất đắc dĩ phải vào trong một đấu trừờng hiu hắt vang dội yếu ớt những
tiếng ê khô rối. Thuấn ngồi nghe tiếng ê thảm não đó đặt từng tảng phiền hà dày
cứng lên mạch máu. Đoàn xe tiếp tục đi qua, có chiếc xe thật lớn, loại tracteur
routier kềnh càng chở các kiện hàng to lớn, sáu lính Mỹ ngồi vắt vẻo trên đống
thùng giấy im lìm, nón sắt úp sát mí mắt, xe qua cầu, đám dân chúng bắt đầu đưa
hai tay lên trời. "Ê! Ê!…" Lũ trẻ con xao động, chúng nhảy cỡn lên
khỏi mặt đất… "Ê! Ê!…" Sáu lính Mỹ đột nhiên đứng dậy. Có tiếng hét
giữa khối thân thể no đủ đó… "Down it…" Sáu cái thân cồng kềnh vội
cong xuống vây xung quanh chiếc thùng giấy họ đang ngồi… "Godammed it,
fack…! Down! Ok! Ok!" Mười hai cánh tay lực lưỡng Mỹ quốc xoay chiếc
thùng, lấy đà. Hey! Chiếc thùng tựa vào cạnh một thùng khác, tựa vào xe, ngúc
ngắc và rơi xuống. Sau lính Mỹ đứng thẳng dậy, ngoắt tay đám đông giã từ. Đám
đông ngừng bặt tiếng kêu, đàn bà, con nít sau giây phút sững sờ nhào tới.
"Thằng Mỹ cho cái thùng!! Thằng Mỹ cho cái thùng!! Thằng Mỹ cho cái
thùng!! Đồ ăn đó! Đồ ăn đó! Tao thấy trước". "Không phải, tao
thấy". Đám dân Việt Nam chạy lại, họ chạy trong tiếng thở, hơi thở gấp
rút… "Mau lên mạ ơi, bỏ cái gánh lại chút nữa lấy…" Đám người Việt
Nam nhào lại, những cánh tay đưa trước thân hình, những ngón tay khốn khổ sẵn
sàng cong lại để bấu xé, giành giựt… "Cái thùng Mỹ thật to!! Mau
lên!" Đám đông nhào vào chiếc thùng như vụn sắt bị hút bởi khối nam châm.
Những tiếng lao xao im dần từ trong quán Thuấn chỉ nghe những hơi thở dồn dập,
những ngón tay cào xé trên lớp giấy cứng, những thân áo bị xé. Hự! Hự! Người
đàn bà bị kéo ngã tung trên mặt đường, khối tóc khô cứng ngắc rối tung, nước
rãi ứa ra từ hàm răng đen mốc, cặp môi nứt nẻ quết trầu. "Chết tôi!"
Thằng bé bị nhấc bổng lên, thân áo trắng rách xoẹt. Nó được ném tiếp theo người
đàn bà… Hừng hực, những tiếng thở như khi cơn lụt lên cao nước đập rầm rập vào
mái nhà, liếp cửa. Cơn hồng thuỷ hơi thở Việt Nam lấp cứng nhận chìm khối thùng
giấy vô tri Mỹ quốc. Đám đông rú lên tiếng lớn giãn dần ra, những bàn tay nhăn,
những bàn tay trẻ thơ thả dần xuống từng mảnh giấy vò thùng, những mảnh giấy
báo vừa bóc được … Những cái mồm Việt Nam mở lớn, những con mắt đứng tròng…
"Chết! Chết! Người chết! Người chết bà con cô bác ơi!" Thuấn đưa mắt
nhìn ra: Một đầu tóc đàn bà xổ tung ở miệng thùng. Cơn gió lạnh cuối năm se
sắt, những mảnh giấy vụn bị thổi đi xào xạc, khối tóc người thiếu nữ bay khắc
khoải trên mặt nhựa đường.
Xác chết được lính kéo ra, xác chết trần
truồng khoảng hai mươi tuổi, da ngăm đen chỉ có hai phần trắng nơi hai chiếc vú
và chỗ cái l… Trắng nên thấy được vết bầm của dấu răng, những vết bầm còn ướt
máu! Hai đầu vú ướt thẫm, máu hay sữa non khi khoái lạc, hay nước bọt của những
tên lính trong cơn tình cuồng nộ? Nhưng thê thảm ghê tởm nhất ở bộ phận giữa
hai cái háng, lớp lông cong queo gãy góc dính bết vào nhau bởi chất đàn ông,
chất đàn bà và… máu… Túm lông không còn gợi nên sự sống mãnh liệt nhưng là gươm
đao địa ngục, vạc dầu khô đặc lởm chởm xương người cuồng sát, ngắc ngoải bết
bát mắc kẹt vào nhau… Cửa mình, những cái mép thâm tím trầy trụa bị kéo rút ra
ngoài phơi những sợi gân máu đen thâm dưới thứ nắng vàng lạnh ngọt cuối năm.
Chết vì bị làm tình quá độ! Viên Bác sĩ Tiểu đoàn gật gù. Thuấn cong người:
Thức ăn và toàn thể chất lỏng trong dạ dày vọt ra khỏi mồm. "Đại uý nghĩ
sao về sự hiện diện của người Mỹ?" "Down it!" Sáu lính Mỹ như đè
trên vai trên cổ, Thuấn khum người xuống… Ọc!!
"Gì đấy ông?" Minh quay lại hỏi.
"Không". Thuấn gượng cười đưa điếu
thuốc lên miệng. Khẽ liếc về bên trái, một đôi mắt đen đang mở lớn nhìn.
"Bây giờ mấy giờ rồi?" Thuấn quay
sang hỏi Minh.
"4 giờ, còn sớm, ông về sao?"
"Không về thì làm gì. Ông về nhà cô Quỳnh
Như có công việc, tôi làm gì nữa ở đây". Thuấn bỏ bớt ga, xe chạy chậm
trong lòng cổng thành mát rười rượi.
"Cổng này là cổng gì?"
"Cổng Thượng Tứ đấy ạ!" Quỳnh Như
đáp nhỏ nhẹ. Tiếng "đấy ạ" phát âm theo giọng Huế nghe hay hay. Các
ông người Bắc thường khéo nói, sao anh Thuấn nói ít quá?
"Tôi nghe mấy người kia nói đủ rồi, hơn
nữa tôi chỉ biết nói chuyện tiếu lâm".
"Như trông anh có vẻ buồn chuyện
gì?"
"Con gái thường quá nhạy cảm nên nhìn quá
đáng sự kiện. Tôi khi nào cũng thế".
"Ông ấy không buồn gì đâu, hôm nào chị
nghe quan ba kể chuyện "Thầy bói đi tắm piscine" thì biết".
"Chuyện gì vậy?" Như tròn mắt hỏi
Minh. Minh cười hất hàm phía Thuấn. "Chị hỏi ông Thuấn, sao hỏi em".
"Chuyện gì vậy, anh Thuấn kể đi".
"Đâu được, chuyện vớ vẩn ở bàn rượu. Đi
vào lối nào đây Minh?"
"Quẹo qua trái, mình vào Đại nội chơi, về
nhà làm gì".
Quỳnh Như mau mắn gật đầu: Ừ, vào Đại nội đi
cho anh Thuấn biết nơi vua ở.
Thuấn lái xe đi chậm chậm giữa hai hàng cây
xanh, chỉ vào hàng sấu. Đây có cây sấu trái ăn ngon lắm, từ lúc di cư vào đến
giờ tôi mới thấy lại.
"Thế thì ông ở đây hái sấu mà ăn, tôi tạt
qua nhà một chút".
"Làm gì kỳ vậy, nói chơi thôi, hết thời
leo cây rồi…"
"Nhưng ông và bà chị tôi ở lại đây để tôi
mượn xe về qua nhà".
"Ừ thì ông đi…"
Thuấn nhìn lên Quỳnh Như khó khăn.
"Cô Như đừng hiểu lầm, tôi hay lúng túng
khi đứng một mình với người mới quen dù là đàn ông, tôi không quen cung cách
này".
"Dạ". Như khẽ liếc về người đàn ông
bên cạnh, nơi anh ta có điều gì lạ, vẻ bứt rứt khó khăn cố che giấu dưới nét
mặt bình thản. Lòng người con gái bỗng xao xuyến khi nhìn Thuấn ngồi khom mình
trên bờ hồ nhìn xuống mặt nước xanh. Hết mùa hè, sen tàn chơ vơ vài cọng khô
héo.
"Ở đây tịch mịch và buồn quá, chỉ hợp cho
những người yêu nhau". Thuấn nói nhỏ nhưng Quỳnh Như đã lắng nghe. Nỗi xao
xuyến bùng lên.
"Anh nói đúng".
Im lặng, khó khăn nằm giữa hai người. Thuấn
đứng dậy bước đi dọc theo sân chầu, những tảng đá vuông vức mát lạnh im lìm,
nét điêu khắc tuy không tinh xảo nhưng thể hiện một lớp quan phong kiến trong
thời đại điêu tàn. Thằng cha tạc tượng biết thế nào cũng hết vua nên tượng nào
cũng có vẻ buồn. Thuấn thú vị vì khám phá của mình, đi trở lại nơi Quỳnh Như
ngồi. Mặt trời rọi bóng Thuấn đổ dài trên sân đá lạnh. Quỳnh Như nhìn Thuấn
không e dè. Lễ hỏi, Bằng và toàn thể sinh hoạt của nàng sau hai mươi năm tự nhiên
như vỡ nát. Mối tình của ta bi thảm.. Bằng và Quỳnh Như đã nói với nhau như vậy
sau mỗi cơn ân ái, khi áo quần đã được mặc lại, ngồi nghiêm trang nhìn chiếc
ảnh ở phòng Bằng. Nàng thấy buồn cười. Bi đát? Hình như nàng thèm muốn vị lạ
lùng quyến rũ đó, Quỳnh Như nhìn người lính đang đi về phía mình đầu tóc hớt
ngắn, vẻ mặt khắc khổ, có được nụ cười trẻ thơ nhưng vội vã che giấu. Tội
nghiệp. Quỳnh Như thấy mình dò dẫm được một lối đi giữa khu rừng chằng chịt bủa
lưới khó khăn. Thuấn ngồi hai chân buông thòng xuống bờ hồ:
"Cô Như biết sao mấy cái tượng có vẻ buồn
không? Thằng cha đẽo tượng gì cũng tiên đoán hết còn vua nên tượng anh quan nào
cũng như người đi đưa đám, cô Như thấy vẻ mặt của các bức tượng Tây phương đấy,
mặt nào trông cũng hiên ngang đáng tiền cả, không hiểu muốn tạc tượng quan võ
bây giờ người ta phải lấy khuôn mặt như thế nào?"
"Nếu tôi làm người dựng tượng, tôi tạc
anh!"
"Tôi?" Thuấn nhìn xuống mặt nước.
"Không được, tôi mặt ngựa tướng hầu chỉ để làm tài tử đóng vai độc, không
làm tượng đẹp được". Thuấn lúc lắc đầu, cười tiếng lớn khoan khoái. Bình
thản được lặp lại tự nhiên…
"Anh làm Như xúc động". Cách xưng hô
thay đổi mau chóng. Thuấn ngừng cười nhìn Như. Cô gái Huế bình thường ước lệ đã
mất, Quỳnh Như nhìn lại Thuấn không ngượng nghịu.
"Tôi có trực giác rất nhạy, biết người
nào thương hay ghét mình trong lần gặp đầu tiên. Chắc lần này cũng không
nhầm". Quỳnh Như gật đầu. Thuấn lần tay tìm bao thuốc trong túi, ngã người
trên mặt cỏ, nhìn lên trời, trời trong xanh không mây sáng rực, liếc về phía
Quỳnh Như đôi mắt đen vẫn nhìn chàng đăm đăm. Thuấn quay người một vòng, úp mặt
vào bàn tay Quỳnh Như đặt trên cỏ. Da tay người thiếu nữ ấm áp mịn màng chạm
vào lớp da chai đá nám đen của Thuấn. Bao nhiêu năm rồi, Thuấn không có xúc cảm
với nồng độ thế này, tất cả khối tình cảm được giấu kín dưới vẻ mặt lầm lì
khinh mạn, những tiếng cười ồn ào nặc hơi rượu. Nhưng sau tất cả ồn ào thô bạo
đó, Thuấn thấy rõ mình, người với linh hồn đơn sơ nhạy cảm nhất, loại người tối
mờ sương một mình chèo chống con đò cô đơn trong bóng trăng hiu hắt để biết có
một khối tình hoá đá trong lòng. Đã một lần như thế và kiệt lực khi tình tan.
Kiệt lực, Thuấn sợ hãi trăn trối nghiệt ngã của quả tim sau cuộc tình tan vỡ.
Từ đó đến nay là năm năm, năm năm khối tình nép kín vào một góc linh hồn lâu
lâu gây thành cơn đau nhói nhức buốt làm liệt hẳn người. Thuấn sợ phút giây đó.
Không những sợ, Thuấn cạn vốn tình sau khi đạt đến đỉnh chót của tình yêu. Phím
đàn đã chùng dây đồng rung vào độ cao nhất, lòng trống như khẩu súng đã bắn hết
đạn. Đi tìm một tình yêu khác, Thuấn không làm được khi lòng còn nhức nhối với
vết thương đầu đời. Sáu năm trước, thời gian sau khi ra trường, Thuấn vừa xong
một khoá huấn luyện Biệt động, mãn khoá ngày mồng mười Tết, Thuấn gầy gò đen
đúa như một tuổi trẻ tàn tạ. Thuấn hai mươi mốt tuổi, má hóp, tóc cạo trọc của
ngày nhập học nay mọc lởm chởm khô cứng xấu xí. Trên chuyến xe về Sài Gòn bắt
đầu bốn ngày phép, Thuấn gặp Bích Trân. Vẻ mặt lặng lẽ cùng những nét gian nan
trên mặt người lính làm người thiếu nữ xúc động. Chú ý quay hộ cái kính gió
lên. Thuấn khẽ liếc. Một khuôn mặt xinh đẹp hiền hậu với đôi mắt màu nâu thật
lớn long lanh ánh sáng niềm nở, xuống xe ở một góc đường Sài Gòn, Thuấn xoay
chuyển khó khăn bên cạnh người thiếu nữ, thế giới lính tráng vây bọc chung
quanh đã lâu làm Thuấn lạ lùng bối rối với người con gái. Khuôn mặt xinh tươi
có những ý nghĩ gì? Thuấn làm sao biết được. "Vừa rồi trên xe, sao cô gọi
tôi là chú, tôi mới hai mươi mốt tuổi". Môi người thiếu nữ khẽ cười.
"Tại vì em thấy anh già quá, như trên dưới ba mươi". Tiếng em, anh,
bất chợt làm Thuấn xôn xao. "Tại vì anh cực quá". Thuấn không hối hận
vì đã thú nhận kể lể. Người thiếu nữ gây cho chàng cảm giác quen thuộc.
"Em đi xuống tỉnh B làm gì?" Chữ em nói không khó khăn, chữ thần diệu
lần đầu tiên Thuấn nói được. Trong âm thanh ngắn ngủi nhẹ nhàng kia, Thuấn thấy
vẻ linh thiêng của một vật sở hữu ngàn đời không biến đổi. "Dạ, để gặp
người fiancé, em không muốn lấy người đó". Thuấn nhìn vào mặt người thiếu
nữ, Bích Trân nhìn lại. Năm phút đầu tiên gặp nhau quá ít đối với lượng thời
gian từ vô thuỷ nhưng quá đủ qua những câu nói vô nghĩa, những ngón tay bối
rối, tia nhìn ngượng ngập. Bỗng chốc họ như khám phá được lối đi trong rừng, họ
gõ được cánh cửa trong đêm, gõ tuyệt vọng, nhưng cánh cửa đã mở và thấy được
ánh sáng giữa bóng tối. "Anh có bốn ngày phép không biết làm gì, định đi
Đà Lạt, em đi cùng, ngày mai anh đến đón?" Bích Trân bước lên xích lô.
"Bảy giờ sáng mai em đợi anh ở ngã tư X". Thuấn gật đầu, di di ngón
chân trên mặt đất. Có một điều gì nghiêm trọng vừa xảy ra… Những ngày Đà Lạt
trôi êm như lớp sương kỳ ảo trên mặt hồ. Nửa đêm Thuấn thức giấc, chống tay
ngồi dậy nhìn sang giường đối diện, Bích Trân ngủ co quắp, mái tóc mềm xoã trên
gối, và vầng trán, thứ trán cao rộng thông minh nhăn lại đau đớn. Thuấn muốn ứa
nước mắt. Sao khuôn mặt trẻ thơ hồn hậu này có vầng trán khắc khoải đến thế.
Thuấn nhẹ chân bước xuống giường, lần từng bước đến quỳ gối bên nàng, đưa năm
ngón tay đen bẩn đầy dấu những vạch gai sừng trâu, những ngón tay gian lao đưa
dần tới đặt trên khối da thịt tinh anh mang bất hạnh tiềm ẩn… Bích Trân mở mắt,
đôi mắt màu nâu thắm thiết tội nghiệp, Thuấn vuốt nhẹ những đường nhăn trên
trán. Chỉ có tiếng thở và ngoài căn phòng cửa kín, gió thổi vút đi như cuồng
phong. Hai dòngg nước mắt của người xa lạ này, nàng thấy hết lượng của một lòng
thương yêu … Những giọt nước mắt rơi xuống … "Đừng khóc, anh van em đừng
khóc". Tiếng nói bối rối đứt quãng, ngón tay vẫn vuốt những vết nhăn trên
trán người con gái… "Em mười tám tuổi sao trán em quá nhăn? Tội nghiệp,
anh thương em…" Bích Trân khép chặt hàng mi lại, vũng nước mắt ứa đầy, màn
nước nóng chan hoà trên khuôn mặt ngây thơ bị đe doạ… "Đừng khóc, anh
không biết gì hết!" Thuấn thảng thốt cúi xuống, nụ hôn đầu của ba ngày
chung sống với nhau. Trong ánh sáng nhạt nhoà lạnh cóng, họ nhìn lại mặt nhau,
hai kẻ xa lạ được trói buộc cùng nhau bởi định mạng… Bích Trân xoay người úp
mặt trên bàn tay Thuấn, bàn tay đằm thắm đầy tiếng nấc bị nén…
Thuấn nhìn kẽ tay Quỳnh Như, những cọng cỏ sắc
xanh, mặt nước hồ hiu hắt, nhìn lên, hai con mắt đen và những sợi tóc xứ Huế
mượt mà. Thuấn bỗng thấy trống trải trong lòng. Ngồi dậy.
"Như vừa có lễ hỏi, sao có phản ứng
này?"
"Như không biết. Mới gặp anh lần đầu. Như
đã thấy có những biến đổi kỳ dị!"
Thuấn không nói, thở khói xuống mặt hồ. Cảnh
vật tịch mịch, lá bàng rơi xào xạc, nắng chiều vàng rực trên sắc cỏ xanh… Thuấn
hít thêm hơi thuốc, muốn nuốt hết lớp khói trắng xám vào hồn. Linh hồn trống
vắng như mặt phi đạo sau khi phi cơ cất cánh, để lại trong không gian ảo giác
ám động…
"Anh nghĩ gì? Có nghĩ xấu về Như?"
"Không, không phải thế". Thuấn vội
vã quay về phía Như, đôi chân khép lại đặt ngược chiều sát vào chân người thiếu
nữ. Không phải thế. Thuấn nắm hai bàn tay trắng mát vào giữa lòng tay mình,
nhìn xuống hai màu da tương phản, lạ lùng ngăn cách. Có tiếng động từ xa, Minh
bóp còi, ý hẳn đã tiên đoán được "tai nạn" giữa Thuấn và Quỳnh Như.
Xuống xe, Minh cười vang: "Xong rồi, chị
đi về, bác đang trông. Ông Thuấn cũng nên về nữa, chiều lắm rồi, Việt Cộng xơi
ông thì lãng xẹt". Khi Minh trở đầu ra, Quỳnh Như nói nhỏ: "Còn một
vài giờ hết năm rồi, giờ khắc cuối thiêng liêng như giờ hấp hối. Như có thể nói
không ngần ngại, Như yêu anh". Thuấn hít hơi thở dài như đang vác một sức nặng
kinh khiếp.
CHƯƠNG
6
"Bây giờ em muốn gì hãy nói thật với anh,
anh có đủ bình tĩnh để đợi đến giờ này và nói với em bằng tất cả bình tĩnh, anh
đã nổi giận và đau đớn, nhưng anh đã đè được xuống để nói với em. Muốn gì, em
hãy nói rõ cho anh biết, chúng ta đủ khôn lớn để quyết định công chuyện”.
"Em không có ý kiến, em không có gì để
bàn cãi cùng anh!"
"Đừng dối, có, vì em đã nhìn thằng Đại uý
bạn thằng Minh với con mắt khác lạ. Chưa bao giờ em nhìn ai như thế, em cũng
không nhìn anh một lần nào được như vậy. Em ngủ với nó, em ân ái trần truồng
với nó chắc anh không đau đớn bằng lúc chiều trong bữa tiệc khi em nhìn nó, bữa
tiệc giới thiệu em với bằng hữu. Em đâm anh nhát dao trong lúc anh không ngờ
nhất”.
"Nếu có một cái nhìn quan trọng như thế
kia thì có chuyện gì xảy ra nữa? Em đã có thai với anh, tháng sau Tết đám cưới,
sẽ có chuyện gì xảy ra?"
"Có, vì anh không còn em nữa, chỉ còn cái
xác vô tri, thân xác nặng trĩu dục tình để anh hân hoan mang nó đến hết đời”.
"Em đáng ghê tởm và khinh bỉ đến thế
sao?”
"Nếu anh ghê tởm và khinh bỉ được em thì
dễ dàng biết bao, anh đã có em rồi, thân thể tinh khôi của em một tuổi dậy thì
xa xưa anh đã đặt chiếc hôn đầu tiên đến bây giờ… Chuyện thể xác thì anh đã quá
đủ với em, nhưng không phải thuần tuý như vậy, anh yêu em. Yêu, đúng với nghĩa
sống bám vào đấy để cho mình ý nghĩa sống. Ba mươi năm ở thành phố này không
chuyển dịch, không mới mẻ, anh từ nhà đến trường qua phố, đá gỗ thấy anh chắc
cũng bật cười, anh mang nhiều hoài bão, anh xây nhiều dự định, nhưng anh đã làm
được việc gì ngoài một vài bài thơ đăng báo ở Sài Gòn, mấy chứng chỉ triết học,
anh làm một tháng được một ngàn sáu trăm đồng, có tiền mua bao thuốc, uống ly
cà phê… Đâu phải đời anh chỉ có thế, nhưng anh yếu sức rồi, anh kiệt lực, anh
vùng vẫy lấy đẹp, anh chui trong cái tổ tò vò chặt cứng tô nên bởi nước bọt của
chính đời mình, và vì thế, bốn năm nay, em cần thiết như một cuộc phiêu lưu
mộng tưởng, em là thiên đường mơ ước có kích thước, có hình khối, anh yêu em và
trút vào đó hết phần đời cuối cùng của anh. "Anh lý luận tội nghiệp".
Em là giải thích cuối cùng để anh sống. Nhưng trong buổi chiều này khi em nhìn
thằng cha ấy anh đã thấy hết, hết thật, và khi anh lại nhà mẹ bảo em chưa về,
chưa về có nghĩa là em đi cùng hắn với thằng Minh. Thế thôi, một cuộc đi chơi
phiếm, nhưng anh biết kết quả nó vô cùng, anh không quan trọng hoá cuộc đi chơi
đó nhưng nó làm sáng tỏ cái nhìn của em lúc buổi chiều. Anh đã nghĩ đúng và bây
giờ anh đau đớn nhưng gắng lắng xuống để nói cùng em…" Bằng nói thật đều
đặn, hai tay bỏ trong túi, đầu cúi xuống.
Quỳnh Như ngồi im không trả lời, nàng không có
phản ứng gì ngoài nỗi im lặng. Quỳnh Như thấy điều Bằng nói đúng nhưng câu
chuyện cũng chỉ có thế. Thuấn sẽ đi và nàng thành người vợ, người vợ bình
thường như tất cả mọi người đàn bà đã làm. Giải thích với Bằng thế nào đây? Quả
thật nàng đã nhìn Thuấn khác lạ, nàng đã nhìn xúc động, mãnh liệt cao hơn và
trắng hơn cả xúc động thể xác trong cơn tình ái. Nhưng hình như cũng chỉ có
thế, nàng cũng không có đủ can đảm đẩy sự việc đi xa hơn. Chỉ có thế, chút cỏ
may dính ở gấu quần, lượng nắng vàng trên mặt nước, nét bi thương có hình ngang
trái. Có thể Quỳnh Như dừng ở chỗ này, nàng khao khát sự mới lạ trong mối tình,
nhưng làm sao để nói với Bằng? Làm sao cho Bằng hiểu được nỗi buồn chán âm ỉ
sao mỗi lần ân ái nồng nhiệt, sợi tóc mai đẫm vào trán, hơi thở dồn dập, lần mò
tìm chiếc quần lót, ngửi mùi đàn ông chán chường từ Bằng bốc ra. Đời sống một
người con gái chỉ chừng này? Những ước mơ dậy thì, những rung động ngất ngây
cho một mối tình vĩ đại ở đâu?
Làm sao nói với Bằng nỗi chán chường mê man
khi cơn bão dục tình thổi qua còn đọng lại trong thân thể chút nhơm nhớp đàn
ông như lớp bùn trên đất khi con nước rút đi. Làm sao phá vỡ thứ keo đặc cứng
ướt đẫm dính chặt vào mỗi tế bào đã nguội lạnh, thứ keo do chính Quỳnh Như cùng
Bằng cấu tạo. Làm sao nói được với Bằng?
"Em không nói gì? Không phản đối lời anh
nói? Em chấp nhận?”
"Không phải thế, em van anh, không có
chuyện gì xảy ra hết. Em bây giờ là vợ của anh rồi, không có gì xảy ra
hết".
"Nhưng còn ánh mắt của em khi buổi chiều,
cái nhìn như dao cắt, nhìn như đổ thuốc độc vào người anh".
"Có thứ tội nào được xác định bằng cái
nhìn. Không có gì cả, anh ta người Bắc, mặc đồ rằn ri, em thấy lạ, em hơi tò
mò, chỉ có vậy, anh tin?"
Bằng nói cuối hơi thở. Anh tin, anh cố gắng
tin. Chàng lầm lũi đi ra cửa, bước chân nặng nề.
Quỳnh Như liếc nhìn đồng hồ, 7 giờ 45. Mình xa
chàng đã gần hai giờ, không biết đêm nay Thuấn có trở lại?
"Thôi nghe ông, đi chơi như thế đã đủ
rồi, ở nhà để có chuyện gì tôi còn nhờ ông, tình hình có vẻ nghiêm trọng lắm,
hai ông Lạc và Minh đi phép, ông đừng đi đâu nữa đấy”. Tiểu đoàn trưởng nhẹ
nhàng trách. Thuấn im lặng, chối từ điếu thuốc được mời.
"Ông giận tôi đấy à! Bố khỉ, tối hôm qua
ông say, ngày hôm nay ông đi từ sáng lỡ có hành quân tôi đi một mình sao, vừa
thôi, ít nhất ông cho tôi nói cho đỡ tức chứ!”
"Dạ vâng, Thiếu tá còn dặn gì nữa?"
"Đ… vào. Viên Thiếu tá nổi sùng. ĐM… Tôi
chỉ muốn ông đừng đi nữa thôi. Khi nào hai ông kia về tôi cho ông đi phép”.
"Vâng". Thuấn chào thật nhanh bước
ra. Viên Thiếu tá lầm bầm chửi thề… "Mẹ, thằng nhỏ không biết điều”.
Thuấn đi về nơi đóng quân, bực dọc khó chịu,
điếu thuốc trên môi cứ mãi rít vào, trời lạnh, sương mù dày đặc, cứ có cảm giác
vương vít khó chịu. Đã thế ông vọt đi Huế chơi cho biết mặt. Bản tính ưa chống
đối được dịp bùng lên, thêm duyên cớ, Quỳnh Như, khuôn mặt thanh tú, và thân
thể đầy đặn dỏng dỏng cao đang chờ đợi, tội gì cứ đeo cứng vào mối tình tuyệt
vọng Bích Trân. Bích Trân giờ này ở đâu? Năm năm trời không thấy mặt, chờ đợi
phải có hy vọng gặp… Thuấn chờ Bích Trân thêm bao nhiêu năm? Không một dấu vết.
Nhưng khi ngồi lên xe trong bóng tối tìm công tắc, Thuấn chợt thấy mệt. Mệt,
con đường trước mặt xa xôi nguy biến, sự liều lĩnh vô ích và khối tình xưa chắn
lối… "Thuấn ơi! Em mười tám tuổi, yêu và sống hết mình cho một người,
nhưng yêu anh để sống trong nỗi chờ đợi hoài hoài ngày anh về, và ám ảnh cái
chết cứ mãi mãi trong người làm sao em chịu nổi. Thôi em xa anh trước để để
tránh ngày phải mất anh…" Bích Trân đã viết bức thư ngắn ngủi đó trước
ngày xa Thuấn… "Em chưa bao giờ khóc trước mặt một người nào, thuở bé bị
đánh đau bao nhiêu em cũng cắn răng chịu đựng, em chỉ khóc khi ở một mình, gặp
anh sao em muốn khóc hoài, khóc mê mải. Hình như mười tám năm em gánh chịu tan
thành nước mắt hạnh phúc trước mặt anh. Tối hôm qua em đã khóc một lần chót, em
nhất định như thế, em khóc cho tình ta. Em đi, đừng bao giờ anh tìm kiếm".
Không phải là bức thư, nhưng là lời trăn trối cuối cùng Bích Trân để lại cho Thuấn.
Thuấn không phải chỉ nhớ, những nét chữ, màu sắc, mùi giấy đã khắc chặt những
nét hằn sâu trên trí não Thuấn sống trong không gian vây bủa bởi mối tình ngắn
hạn bi thiết đó. Năm năm, những giây phút ngặt nghèo khi chiếc trực thăng bốc
cháy lao xao, tiếng hét của những người xung quanh, ngoài kia trời xanh xoay
đảo theo sự cuốn tròn của độ rơi, rừng dừa dưới đất dâng lên ào ào đủ để thấy
rõ cái chết, chết cụ thể, chết có thể đếm bằng thời gian, xa bằng khoảng cách,
chết sờ được, ngửi được, mê man và sát mặt. Trong những giây phút ngắn hạn
thiên thu đó, Thuấn đọc lại hết bức thư, nhìn lại hết nét chữ xiên xiên đều
đặn, tờ giấy viết thư cong queo, chữ “em” ốm yếu, Thuấn thấy lại toàn khối tình
yêu sáng rực một lần trước khi giáp mặt cái chết. Sống với tình yêu Bích Trân
như thế vừa đúng năm năm. Nhưng bây giờ Thuấn đang rồ xe máy, con đường về Huế
đen tối xa hun hút, mười bảy cây số và đồng ruộng lặng lẽ, ếch nhái kêu vang
động thê lương. Thôi, phải đóng cho đủ vai trò, tìm lại mặt thật của tình yêu
và chính mình trong đó. Bích Trân đâu, về đây dự phần anh hoả táng tình em.
Thuấn lái xe nôn nóng, cảm giác nôn nóng quen thuộc đã bỏ qua từ lâu. Quỳnh
Như, nước da trắng mát, đôi mắt đen, bầu ngực căng tròn quyến rũ, bao năm rồi
Thuấn không có được cái thân thể nồng nàn quyến rũ đó, Thuấn chỉ có những ly
rượu, rượu mê mải và những cơn ái tình nhơ nhớp thô bạo.
Thuấn chỉ có những cơn tình ngắn ngủi thô bạo
đó, lượng sóng tinh khiết đã kéo ra khơi, còn lại trên bát ngát linh hồn thứ
rác rưởi khô héo của một đời gian nan. Thuấn không có thì giờ và cơ hội để nắm
được trong tay giọt sương linh thiêng của tình yêu. Chiến tranh và Bích Trân
quét một nhát cuồng phong trên đời Thuấn.
"Sao Đại uý không có bồ có vợ gì
cả". Thằng Thiên đã hỏi như thế.
"Mày coi có bà già nào chỉ tao tới, lấy
liền, còn mục học sinh con nhà lành "tìm bạn bốn phương" tao không
ham, lẩm cẩm và nhà quê bỏ mẹ…" Thuấn đã nói với gã lính thân tín như thế.
Gã lính cười, nó biết đâu cơn sụp đổ điêu tàn trong lòng Thuấn. Nhấn thêm gaz,
chiếc xe chạy như cơn hốt hoảng muốn chạy trốn nỗi tang thương, muốn bắt kịp
hình dáng sáng tươi của thanh xuân. Quỳnh Như, thịt da bí ẩn đợi chờ Thuấn
trong bóng đêm cùng với nỗi cảm xúc nhiệt thành bất chợt. Thuấn mở lớn hai mắt,
máu dồn lên thái dương, hai tay bấu chặt tay lái. Một con người thật quen thuộc
nào được hồi sinh. Xác ma trong giây phút âm dương hoà hợp chợt đứng dậy, hối
hả sống cùng đời.
Ánh đèn xe quét vội lên mặt hàng rào nhà Quỳnh
Như. Một bóng trắng thấp thoáng. "Anh". Tiếng nói thảng thốt mừng rỡ
cuối cơn nôn nóng, rất cuồng nhiệt. Thuấn thắng mạnh, tắt đèn, nhảy xuống xe,
bước về chiếc cổng gỗ đang lay động. “Em”. Trong bóng đêm mờ sương buốt giá,
dưới tàn cây xanh, hai người im lặng sít sao chặt chẽ, chỉ có tiếng thở đứt
khoảng và nụ hôn sũng ướt. "Anh lái xe lại đàng kia, tắt đèn đợi em lấy áo
choàng".
Quỳnh Như biến ra khỏi nhà. Trong nhà vang
tiếng hỏi: "Tối rồi, đi đâu?” Quỳnh Như không trả lời, nàng khép tà áo
chạy nhanh hơn. Đàng kia tình yêu, cuộc phiêu lưu kỳ lạ đang chờ đợi.
"Anh quẹo phía trái".
"Đường gì tối mò vậy?"
"Đường Âm Hồn, ngã này ít người quen, em
không muốn cho họ thấy".
"Em sợ?"
"Cũng không hẳn thế, anh đi về phía tay
trái nữa, lái chậm để em chỉ đường…”
Bây giờ xung quanh là bóng tối, mặt hồ đen
thảm hơi bùn non, cá đớp mồi nghe xa xăm.
"Hồ này là hồ gì? Lạnh và vắng quá…"
"Hồ Tĩnh Tâm, thuở xưa vua đến đây chơi…
Bây giờ mình đang đứng giữa một giả sơn, ban ngày đẹp lắm”. Thuấn kéo Quỳnh Như
ngã xuống. "Khoan để em lót chiếc manteau, nền đá dơ lắm”. Thuấn cởi chiếc
áo saut cuốn tròn một cục. Gối cho em đấy. Thuấn thấy hàm răng của Quỳnh Như
sáng trắng. “Anh có nghĩ em bất thường?”
"Không". Thuấn kéo Quỳnh Như sát vào
người.
"Anh với em cùng thấy tương lai cuộc tình
ngắn hạn, gắng sống cho đủ”. Quỳnh Như gật đầu trước khi chìm đắm vào nụ hôn.
Thuấn hít thật đầy qua lớp áo mỏng, mùi thịt da Quỳnh Như như khối không khí
được nén lại nặng trĩu kích thích.
"Khi em ra với anh, ở nhà biết?"
"Nhưng em bất kể, em không còn với anh
bao lâu nữa".
"Người Huế vốn kín đáo”.
"Nhưng đâu phải không biết liều lĩnh”.
"Lần đầu tiên anh quen với một người Huế,
bề ngoài của em không phản chiếu gì con người bên trong của em hết, lúc về nơi
đóng quân, anh còn lấy làm lạ phản ứng của em".
"Vì anh là thứ điện làm em bốc cháy, anh
là loại người giúp người khác sống hết mình".
"Anh chẳng thấy được quý tính ấy, nó như
thế nào?"
"Đừng đùa, em nói thật, anh có cái vẻ
người bạn thân từ lâu, gây cho người ta ý muốn được tâm sự”.
"Anh không biết điều đó, nhưng anh biết
được người nào thương hay ghét mình ngay lần gặp đầu tiên".
"Anh đã nói điều này khi chiều rồi, anh
có đoán được hành động của em không?”
"Có, nhưng không đến nỗi như thế này, anh
nghĩ em chỉ có một thoáng cảm tình, thứ "hồn bướm mơ tiên".
"Và anh thụ động?”
"Em muốn anh làm những gì? Em đã có
chồng…"
"Mới lễ hỏi thôi, chưa đám cưới, nhưng em
muốn nói về phần anh, anh không biết liều lĩnh?”
"Liều lĩnh". Thuấn cười nhỏ.
"Anh biết chứ, nhưng liều đến đâu, mang em đi, thú thật anh không nghĩ đến
điều đó, vì anh… mệt, anh mệt thật tình, sống đã khó, mang thêm một tình yêu
trắc trở anh làm không nổi".
"Anh hối hận về em?"
"Không, anh hãnh diện và sung sướng được
yêu em, em đánh thức anh dậy, anh ngủ mê hơi lâu. Anh muốn được yêu, anh đi tìm
điều này". Rất nhiều thành thật trong giọng nói. Thuấn thấy rõ nỗi thành
tâm cay đắng. Hai mươi sáu tuổi, số tuổi vững vàng và đẹp của người thanh niên,
nhưng Thuấn đã không sống cùng với nó. Trên chiếc chiếu thanh xuân của đời mình
chàng chỉ thấy lúc nhúc hỗn độn những buồn phiền có hình khối, mùi vị, thứ mùi
vị lạ lùng của thây người chết bốc lên theo vết thương tím thẫm máu bầm. Hơi
chết, hơi thuốc súng hỗn hợp hoà tan thành khối không khí nhạt nhoà xanh tươi,
tuổi thanh xuân của Thuấn lên men kinh dị trong môi trường đó. Tuổi hai mươi
sáu của Thuấn đầy dẫy tiếng động rên siết của xe nhà binh đi qua cầu hãm lại,
chiếc thùng gỗ ném xuống … Bục! Tiếng rơi lạnh tanh đắng cứng như lưỡi dao đi
xuống một đường cổ trần trụi. Tuổi trẻ của Thuấn chỉ có niềm vui khi bỏ đá vào
ly và lượng rượu màu vàng chảy xuống, đường suối thênh thang đoản mệnh bọt bèo,
thuốc độc của thượng du mời uống vào để bay là đà trên mặt trời lận đận…Tuổi
trẻ hai mươi sáu của Thuấn giống như lớp tro tàn của ngôi nhà bị cháy, còn trơ
lại chiếc cột đen đúa sừng sững giữa một trời mây xuống thấp.
"Sao anh yên lặng?"
"Không, anh bàng hoàng với tình yêu của
em". Quỳnh Như nằm hẳn trên người Thuấn, nụ hôn mê mái bằn bặt.
"Em làm anh thèm muốn!"
"Không quan hệ, em chìu anh… Em cũng
thế…"
Thuấn lần tay mở hàng nút áo, thịt da xôn xao
trống trải, hai cồn ngực của người thiếu nữ vừa trở thành đàn bà cứng ngắc.
Thuấn di động hơi thở trên đó, Quỳnh Như run thiêm thiếp dưới nụ hôn. Lâu lắm
Thuấn mới lại có cảm giác này, làm chủ được thân thể người khác, thân thể giới
hạn nhưng có những rung động mở ra vô cùng.
"Anh yêu em". Nhiều thành thật và
sung sướng trong tiếng nói thì thào. Quỳnh Như không phải ôm Thuấn bằng hai tay
nhưng bởi sức mạnh thèm muốn của một đời mơ ước. Đêm yên lặng, mặt đá cứng, nỗi
u tịch rì rầm trong lá nhỏ, dưới mặt hồ cảnh vật thấp thoáng tan vỡ, lung linh.
Mối tình này cũng vậy. Chút nước tìm được trong sa mạc bốc cháy uống cho hết,
uống mê man. Quỳnh Như cào cấu rên siết trên mối tình đột khởi do nàng vừa xây
đắp.
"Anh, em chết mất, bỏ anh sao được… Anh
thân yêu".
"Thôi, anh phải về, khuya rồi".
"Anh về đâu?”
"Về ngoài chỗ đóng quân, cây số 17”.
"Đâu được, bây giờ Việt Cộng đầy đường,
anh làm sao về được?!!”
"Không quan hệ, anh hành quân vùng này
suốt mấy tháng, chỉ có du kích, để đèn mắt mèo chạy cái ào sức mấy tụi nó
biết…"
"Không, em van anh, lỡ có chuyện gì em ân
hận suốt đời… Hay anh vào nhà em".
Thuấn mỉm cười. "Em định tập cho anh
thành Casanova tân thời? Phần anh, thì không kể, ngại cho em…"
"Không cần, em bất chấp tất cả để gần
anh, em cũng lạ với chính mình, không hiểu sao em yêu anh đến thế. Buổi chiều
khi anh về, em đếm từng phút, bảy phút, hai mươi ba phút, mỗi phút em nhớ anh
theo một cách khác, hình như có khối gì thật nặng đè lên trái tim, em thở không
nổi… Cơm chiều không ăn nhưng em không đói, nếu tối nay anh không đến chắc em
không ngủ được. Không phải là tình yêu thuần tuý, nhưng là cơn điên bất ngờ làm
nổ tung niềm ấm ức của đời em. Không phải em bị quyến rũ gì ở anh nhưng anh làm
em thấy rõ mình, anh làm em sống hoàn toàn cho mình". Quỳnh Như ngồi rũ
xuống, tóc đen hơn bóng đêm. Từ trong khối đen xôn xao đó Thuấn nghe tiếng nói
và nhịp dập của quả tim. Đã từ lâu Thuấn không nghe lời này, những lời của
người nói cho người.
"Được, em vào nhà mở trước cửa sổ đợi,
anh chạy vào trong chỗ tiền trạm gởi cái xe xong sẽ đến cùng em…"
Quỳnh Như gật đầu, nụ hôn không rời trước khi
chia tay. Cửa sổ phòng Quỳnh Như đã mở sẵn, bóng người thiếu nữ thẫm hơn nền
trời. Thuấn leo vào, cửa sổ đóng chặt lại. Ngoài kia trời cuối năm xứ Huế rét
cóng được xua tan.
"Sao anh đầy mồ hôi thế này?"
"Anh chạy từ trong tiền trạm ra… Để anh
cởi bớt áo, nực quá…”
"Đừng cởi áo trời lạnh lắm, mười bốn độ,
vào nằm sát em…"
"Em không thẹn với anh? Tiếng cười khúc
khích ấm áp…"
"Chỉ một lần với anh và thôi, đừng nói gì
nữa, em muốn nằm im…"
"Anh cũng thế, năm năm sau này anh chưa
nằm trên giường civil một lần, chỉ ngủ võng, về hậu cứ nằm giường sắt nhà binh,
anh bắt đầu lạnh rồi. Nằm trong chăn với em ấm thật, buổi sáng gặp em anh đâu
nghĩ đến lạc thú này… Quỳnh Như…"
"Gì anh?"
"Em có thể bỏ nhà vào Sài Gòn ở với
anh?"
"Em cũng nghĩ thế nhưng chắc không được,
không thể được?”
"Lý do chính?"
"Rất nhiều lý do nhưng trở ngại chính là
anh và em… Hỏi thật lại mình có muốn sống hẳn với nhau không?"
Thuấn im lặng, câu nói Quỳnh Như như ánh sáng
lóe lên trong căn phòng đồ đạc đã được dọn đi, người chủ trở về tìm kiếm sau
thời gian dài vắng mặt. Thuấn cảm thấy khó khăn, chàng khẽ chuyển động cánh
tay. Quỳnh Như biết ý, ngửng đầu dậy, cánh tay được rút ra, Thuấn khoanh trước
ngực.
"Anh đừng nghĩ ngợi, mình chỉ có một chút
thời gian để sống cho nhau, những quyết định mai sau chưa tính được trong lúc
này, một biến cố trọng đại nào sẽ giúp cho mình thấy được ý định có cần chung
sống với nhau hay không”.
"Em quá khôn!"
"Không phải, nhưng vì là đàn bà em có
linh cảm nhạy hơn đàn ông, hơn nữa em khởi đầu tai nạn này…"
"Tai nạn?"
"Tai nạn mê đắm…”
Bốn cánh tay xoắn tròn lấy thân hình chặt hơn
nụ hôn không vừa đủ, phải cấu vào thịt, phải ngậm chặt vào xương, phải ép sát,
cào cấu rên siết để uống cho hết lượng cảm xúc, hít cho hết hơi khoái lạc.
Không đủ, thân thể như thành trì không chinh phục được, có những khoảng sâu xa
xôi quyến rũ mê đắm mãi không tìm thấy… Đây rồi, thân thể có những vật dụng
riêng, những quý vật thần bí và tuyệt vời.
Bằng rú gaz, chiếc xe gắn máy chạy nôn nao
trên con đường đầy núi và bóng tối. Trời lạnh, sương mù, ánh đèn xe vệt một
đường vàng úa trong khối không khí xám đục. Sương quá dầy không thấy gì ngoài
một khoảng đường đất đỏ, xe lên dốc xuống dốc rú tiếng lớn, tiếng rú nghe nhức
nhối vọng lên trong đêm khuya được gió mang đi xa len lỏi vào trong rừng dương…
Tóc Bằng xoã xuống trán, bay ngược đàng sau, người chông chênh nhún nhảy theo
đà nẩy của thân xe. Lâu lắm Bằng không có hành động hung bạo này, Bằng đang đi
dưới chân Ngự Bình, hai bên sườn núi mồ mả mông mênh dằng dặc. Quá khứ của
người Huế đưa nhau ra nằm hai bên sườn núi này. Đây là quê hương của người
chết, số đông gấp đôi những người đang sống dưới thành phố. Có những ngôi mộ
của năm 1900… Đến nay là 70 năm, bảy mươi năm già của nghĩa địa có bề ngang từ
An Cựu qua Nam Giao và dài dài lần theo hướng Nam. Bằng ước tính chiều dài
khoảng mười cây số. Ba mươi cây số diện tích đủ chỗ cho bao nhiêu người nằm
xuống? Mộ trắng, mộ đen, thánh giá hay hoa sen nằm chen chúc hỗn độn dưới ánh
đèn của chiếc xe gắn máy, Bằng tưởng tượng hàng trăm ngàn bộ xương người dưới
đất đồng loạt đứng dậy, hàng triệu tiếng la từ khe hở của quan tài theo chân
cỏ, cọng hương vang lên the thé giãy giụa. Hồn ma nào chẳng có uất ức? Người
Huế có những cái chết đẹp như cụ Hường Phong sáng sớm trước khi chết tự tay pha
ấm trà nhỏ, bước chậm rãi ra vườn hái bông hoa lài, một hoa cắm ở bàn Phật, một
thả vào lớp nước xanh bốc khói. Cụ Hường tụng một đoạn kinh Thuỷ Sám; tiếng
tụng kinh chậm rãi khoan thai rọi sáng căn nhà thờ u ám, tiếng tụng kinh lách
qua chân cửa sổ sơn đỏ bay là đà trên lá ổi, lá sầu đông… Cụ Hường Phong điểm
tiếng mõ nhẹ nhàng, nhẹ dần, nhẹ dần, giọng kinh chuyển sang chơi vơi mơ hồ như
âm thanh rạt rào của tiên tri sóng hư vô vọng từ nơi xa. Cụ Hường chết khi rơi
xong tiếng mõ cuối cùng. Nhưng người Huế cũng có những cái chết kinh khiếp,
chết như bà Bộ Vĩnh, như cụ Ngáo. Bà Bộ Vĩnh giàu nứt vách đổ ngói, bà Bộ Vĩnh
giàu với vàng phải tính bằng ký lô. Lụt năm Thìn rút đi, người ta đói khổ thiếu
đường phải chết như năm Thân, năm Dậu, bà đem vàng ra phơi đầy sân đỏ chóe cả
trời.
Nhưng khi bà Bộ Vĩnh chết không có được cái
quan tài, thân thể bó trong chiếc chiếu rách buộc chặt bởi sợi dây thừng, con
cái đi vắng, hàng xóm lo chạy lụt, xác bà triệu phú giàu nhất Huế nổi lềnh bềnh
trong căn nhà rộng thênh thang, lũ chuột đói bò lên trú ẩn, chúng ăn vào cái
phao nổi đó trong những ngày mưa gió … Nước rút đi, cái xác chết của người có
vàng phơi đầy sân còn lại một đống xương nhơ nhớp. Những người chết sung sướng
và tang thương của xứ Huế đều được chôn ở đây. Bằng đi qua quá khứ quê hương
với một đầu óc nổ tung phẫn nộ… Bằng nghĩ đến cái nhìn của Quỳnh Như với gã
lính Nhảy dù, người chàng lao đao muốn nôn khan.
Bằng biết Quỳnh Như từ thuở bé, người con gái
bề ngoài lặng lẽ đó có một mơ ước kỳ lạ, nàng mơ những điều không thực, nàng ao
ước được nguy biến, nàng muốn sống theo nghịch lý hỗn loạn. Sức Quỳnh Như không
thực hiện được. Bằng cũng vậy, nên hai người níu kéo dày vò nhau trong không
khí đặc quánh chán nản của một xứ Huế khép kín. Họ đưa nhau vào chốn ào ạt dục
tình để đánh nhau từng đòn chí tử thê thảm và tuyệt vọng… "Cái quần lót
đâu?…” “Lỡ có thai rồi sao?” Những phút giây biến động hạn hẹp trôi qua, phút
giây bềnh bồng trong thiên đường có cường độ và kích thước, những phút giây
ngắn ngủi bèo bọt đó chấm dứt thật nhanh và họ thấy lại nhau… Thấy thật rõ,
loài chim cuốc vụng về lủi vào bụi cây hoang để tưởng đang thong dong trong
cảnh rừng thẫm bóng. Bằng biết Quỳnh Như qua bạc nhược của mình. Gã lính xuất
hiện đúng lúc.
Bằng thấy nhức mỏi, rũ rượi, có đổ vỡ toàn
diện của chiếc gương soi rõ được thảm thương đời mình. Chiếc xe chạy lồng lộng,
núi ban đêm xao động dưới ánh đèn quấy đục sương giăng.
Đến cổng chùa Từ Nghiêm, Bằng không tắt đèn,
bẻ cổ xe để ánh đèn rọi xuống thung lũng trước cổng chùa. Đáy thung lũng tím
thẫm, hàng ngàn côn trùng rả rích thê lương. Bỗng chốc tiếng rì rào buồn nản
như vụt tắt, vạn vật chìm thấp xuống một vùng đen tối mịt mùng… Tiếng rì rào lạ
lại nổi dậy ở một góc núi xa hơn. Bằng bấm còi xe, trong chùa có ánh đuốc, hai
bóng nhỏ hiện ra dưới ánh sáng lập lòe của ngọn lửa.
"Ai đó, làm chi mà khuya khoắt rứa?"
"Tui, thầy Bằng đây hai điệu, hai điệu vô
nói với thầy Trí Không có tui cần gặp, chuyện quan trọng dưới Viện Đại học”.
"Dạ". Hai chú điệu tất tả đi vào.
"Có gì vậy, anh Bằng?"
"Vâng, rất quan trọng". Bằng tắt
đèn, bóng tối dày đặc, rừng xung quanh đen thẫm. Chuyện quan trọng, thật ra đến
mai Bằng nói cũng vừa nhưng biến cố của buổi chiều, cuộc cãi lộn với Quỳnh Như
làm Bằng lao đao, một mình đi lên núi trong đêm khuya, Bằng muốn phá vỡ hết nỗi
hốt hoảng riêng ta trong lòng.
"Tôi sẽ nói vắn tắt xin thầy quyết định
mau chóng. Hôm nay là hai mươi chín Tết còn một ngày nữa là cuối năm, có những
biến động vô cùng quan trọng, lệnh tổng phản công được ấn định rồi, thầy không
cần biết điều đó, sau giờ quân đội Cách mạng làm chủ thành phố Huế, chính quyền
hiện tại, tôi ở trong Uỷ ban Thanh niên, thế nên hôm nay đến đây mời thầy gia
nhập Uỷ ban đó, thầy phụ trách về thanh niên Phật tử".
"Tôi?" Đại đức Trí Không khẽ rùng
mình: Thanh niên Phật tử những người trẻ tuổi hào hùng, bỗng chốc bùng lên tàn
ác. Thanh niên Phật tử, Đại đức Trí Không đã thấy hôm đốt phá Thư viện Mỹ, đám
tuổi trẻ quần xanh áo trắng mang dép nhào vào biển lửa, cấu xé, gào thét trên
từng trang giấy, trên mỗi mẫu tự, họ say sưa cuồng sát trên đống chữ nghĩa vô
tri một cách ma quái. Đại đức sẽ phụ trách dẫn dắt họ, tuổi trẻ phải có mục
tiêu, nhưng mục tiêu nào của họ đây? Người Mỹ, thật ra chỉ là tên gọi tổng quát
sức mạnh siêu đẳng của văn minh Tây phương. Đất nước này là nơi nôn mửa của các
nền văn minh, Tàu, Ấn, Nhật, Pháp và bây giờ là Mỹ… Tất cả sự no nê thừa thãi
trong lòng các thứ văn minh kia đã đổ xuống đây. Họ nôn xuống để tiêu tan cơn
thặng dư khó chịu gây thành chứng choáng váng tăng máu… Đại đức Trí Không sẽ
thống lĩnh đám trẻ tuổi hăng hái, đã trút giận hờn trên những trang sách ngoại
ngữ khó đọc, sách mà tuần trước họ đã kính cẩn nghiêm trang xếp hàng đi mượn
sách… Đại đức Trí Không sẽ làm lãnh tụ đám trẻ tuổi xôn xao ấy để nói những gì…
Người Mỹ bẩn thỉu, Đế quốc mới… Chiến tranh phi nhân, chiến tranh của bọn lính
đánh thuê… Cực quá thầy ơi! Trung sĩ Tròn của Tiểu đoàn mười chín Nhảy dù, loại
lính tàn ác nhất của lũ Nguỵ, cởi chiếc áo, lạnh quá, hai xương vai nhô lên gầy
guộc không căng nổi lớp da nhăn nheo… Tui bốn mươi hai tuổi rồi thầy… Đại đức
sẽ đưa tuổi trẻ về đâu?
"Thế nào, thầy chấp nhận?"
"Nếu tôi không…"
"Thì những người chỉ huy quân đội Giải
phóng sẽ suy diễn: Chùa đã cho lính Nhảy dù ở, thầy đã có những liên lạc chặt
chẽ với đám sĩ quan”.
"Những điều vô lý, ai cấm được họ vào
đây, câu chuyện giữa họ và tôi có liên hệ nào đến chính trị?”
"Những người chỉ huy kia không nghĩ như
thầy, chùa này tồn tại hay không do quyết định của thầy!!”
"Nhưng tại sao lại chọn tôi?"
"Thầy là nhà sư trẻ có sinh hoạt gần với
thanh niên, không phải tôi chọn thầy, nhưng chính Mặt trận ra lệnh tôi móc nối với
thầy vào công tác".
"Bao giờ khởi sự?" Nhà sư đè xuống
xao động để nói giọng bình thản…
"Thầy cứ ở chùa, đừng đi đâu, sẽ có người
đến đón ngày mai hay mốt, thầy cứ giữ cây súng này".
"Tôi không biết bắn súng và để làm
gì?" Đại đức Trí Không luồn hai tay vào cánh áo rộng, bàn tay siết chặt
vào nhau kìm xuống cơn hỗn loạn. Nhưng không được, giọng nói đã có nét bi phẫn,
người tu hành nhìn thấy một giờ phút sắp đến phải nổ viên đạn quái ác vào một
người nào đó… Đại đức Trí Không thở hắt ra… "A Di Đà Phật…" Cuộc đấu
tranh kinh hoàng đã đến, nhà sư gọi đấng Chí tôn sự trợ lực.
"Súng này là súng rouleau, bóp cò là nổ,
có đạn sẵn trong đó. Mặt trận đã tiên liệu trước vì thầy không biết bắn súng,
đáng lẽ người ta phát cho thầy loại K.54”.
Nhà sư muốn hỏi K.54 là gì, nhưng thôi, một
lớp lo âu đã che lên linh hồn yên tĩnh. Khẩu súng lục ở tay, bộ áo quần tu hành
không được tiên liệu để mang vũ khí, nhà sư giấu trong vạt áo nâu, hai tay ở
ngoài ôm lấy… "Thôi anh Bằng về". Bóng nhà sư thẳm hơn bóng đen của
rừng, đêm gió thổi luồn qua rừng dương dưới thung lũng nghe vật vã. Bằng đưa
chân lên đạp máy, chàng thấy mệt mỏi thật sự.
Bằng cho xe đi chậm, lạnh cuối năm như dao
cắt, buốt giá luồn sâu trong thịt xương. Bằng run rẩy đốt điếu thuốc, đóm lửa
lòe lên trong đêm trông như ma trơi. Bằng nhìn đồng hồ: 10 giờ 45 phút, thở hơi
khói vào sương mù. Muốn tan thành thứ khói vô tri.
10 giờ 45 phút, Thuấn chồm lên người Quỳnh
Như.
"Sao anh khoẻ thế, lần thứ ba…!!!"
"Anh nhịn lâu rồi, để anh thoả thuê trên
em bù lại…" Tiếng nói đứt khúc vì hai đôi môi đã gắn chặt.
"Nhẹ anh, mạnh quá đau em, em có cảm giác
lên thật chậm nhưng chắc chắn khi anh nhẹ nhàng em mới có cảm giác đó”. Quỳnh
Như thì thào, năn nỉ, từng tiếng động một di động khó khăn tạo thành những câu
nói đứt khoảng…
"Anh tu hơn tháng nay…"
"Và trước tháng nay?"
"Cũng thế, anh thuộc loại nặng tình dục
nhưng không thể ôm một thân thể khác phái nếu không xúc động. Năm năm nay anh
không có sinh hoạt thú vị này… Tạm nghỉ, để luận về tình yêu?…"
"Dạ, em mệt muốn ngủ, khi có đủ em muốn
ngủ, những đầu ngón tay căng cứng… Em thiếp đi thật thần diệu… Anh bảo anh năm
năm nay?”
"Ừ, gái điếm chỉ đến khi quá độ chịu
đựng, chóng vánh và thuần tuý của động tác cơ học để cái của anh được đụng
chạm, khích động thế thôi…”
"Không qua một cô gái nào với chút tình
yêu?"
"Không, hoàn toàn như thế, tuy anh lông
bông nói xạo cả ngày, nhưng anh thấy già, già cằn cỗi, sau trận Đồng xoài, em
biết trận Đồng Xoài năm 1965? Đấy, anh tập uống rượu sau trận đó… Rượu làm cho dục
tình tăng nhưng lại chặt đứt phần tinh tế của sinh hoạt yêu đương. Rượu đốt
cháy thật nhanh những cảm xúc linh diệu của động tác ái ân… Nên anh đã đi qua
tuổi trẻ mình không tình yêu. Tình yêu, với số tuổi và cách thế sống lính tráng
anh quan niệm hơi thô bạo. Tất cả sinh hoạt phong phú tinh thần phải được thể
hiện trên ân ái, anh không đến nỗi tuyên bố được như ông nội nào đó – Chiến
trường của tôi là cái giường – Anh không được như vậy, nhưng bảo anh yêu kiểu
ái tình cao thượng, tặng cái hoa pensée, hỏi em có thích màu tím không, có
thích nhạc Trịnh Công Sơn… Tình yêu là kết hợp của hai cô đơn!!! Những cái đó
không có anh, anh là lính Nhảy dù, thực tế và cụ thể. Yêu là sống hết và cho
đủ, yêu là sống trong người yêu… Hà hà, hôm nay anh luận về tình yêu kỹ quá, ra
vẻ có học lắm rồi… Lấy anh điếu thuốc”.
"Suỵt, anh nói nhỏ, bà già em nghe được
thì khốn".
Thuấn nghĩ thầm, nếu có thể anh yêu bà luôn.
Thuấn bằng lòng với ý nghĩ mất dạy thoáng qua.
"Anh bảo năm năm nay anh không yêu nhưng
trước kia thì sao?"
"Trước kia có, có một lần độc nhất,
choáng váng, ngất ngư, người nặng như đá, hút chặt vào da như đỉa, một lần rồi
kiệt lực luôn. Lúc đó anh mới ra trường, nửa trẻ con, nửa người lớn. Từ bao
nhiêu năm trước, lúc mới ra trường, anh đã thấy mệt, mệt rõ ràng, không phải
đợi đến năm nay lúc hai mươi sáu tuổi, sáu năm đi như con ma dọc hết nửa nước
Việt Nam. Nhưng từ lúc mới hai mươi mốt tuổi đó, còn ham đội mũ đỏ, mặc áo hoa
rằn ri, anh đã thấy trước một đời sống phiền muộn và nhọc nhằn. Hơn ai hết anh
không sợ khổ, khổ thể xác chỉ là cách tôi luyện bắp thịt. Lúc học Biệt động
quân, từ Ninh Hoà tới Dục Mỹ mười bốn cây số anh chạy chỉ khoảng năm mươi phút.
Anh hai mươi mốt tuổi, bắp thịt dẻo dai như con ngựa rừng, cơ thể qua khổ cực
dễ dàng không chút khó khăn, nhưng lúc đó anh đã thấy đời sống nhà binh khép
lại từ từ, như thằng người ngồi trên nóc nhà nhìn nước lụt đang lên từng phân,
từng tấc rõ ràng, nước dâng có tiếng động róc rách ngấm thành một lớp loang sẫm
trên cây cột màu vàng… Hơn nữa anh không thích làm lớn, chắc chắn như vậy vì em
thấy làm lớn ở đất nước này để làm gì, mở hotel cho Mỹ mướn, mở trại heo… Làm
Tướng để có đủ bộ ba, phương tiện, lo hộ chuyện đó sao? Anh không ham. Hay làm
lớn để đi xe bọc nệm trắng, xua quân ào ạt vào mục tiêu, trên trời có Đại
tướng, Tổng thống gọi máy nói liên lạc từ trực thăng xuống để nói chuyện… “Danh
dự tất cả quân lực ở trong tay anh…” “Vâng, tôi nghe rõ Mặt trời", xong
anh thúc lính tiến chiếm mục tiêu, tịch thu súng 12 ly 7, súng cối 82 ly, hoả
tiễn 122 ly, rồi được gắn Bảo quốc huân chương, được mấy thằng ở đài truyền
hình, truyền thanh rà cái máy vào mặt để hỏi. Xin Trung tá cho biết diễn tiến
trận đánh… Làm lớn để được chừng đó, anh đâu cần… ĐM, có cái thằng khoá đàn em
của anh mới Thiếu uý khi được phỏng vấn hỏi đến tương lai, nó trả lời: “Ít nhất
tôi phải được làm Tướng", bố khỉ, làm Tướng để được hút Craven A mua bằng
tiền quỹ hoả thực, có sĩ quan tuỳ viên bật hộp quẹt thì làm chó gì, Tướng vậy
là Tướng giấy…"
"Anh có vẻ cay cú?"
"Chẳng phải, nhưng anh muốn nói rõ tâm
trạng của mình lúc ấy, em thấy anh đã mệt từ cuộc đua khởi đầu… Và lúc đó, đồng
thời cái “tai” nạn thiên thu xảy đến…” Thuấn ngừng nói, lặng hút điếu thuốc
đang cháy đỏ.
"Rồi thế nào nữa?"
"Rồi… hết, chỉ có vậy, anh bị đè cứng,
hết nhúc nhích!" Thuấn dí điếu thuốc vào chiếc dĩa dùng làm gạt tàn thuốc,
xoay người lại… Thôi, không nói nữa. Luận hoài, mệt… Ôm anh…"
Quỳnh Như nhích người ra. "Nhưng tại sao
anh không nói rõ chi tiết tai nạn gì đấy?”
"Em không cần biết!" Thuấn lăn vào
kéo môi trên phần ngực trắng hồng… Quỳnh Như bất động, nhìn lên trần nhà.
"Anh vẫn còn muốn giấu em".
"Không phải đâu, nhưng chuyện ấy không
liên hệ gì đến em, đừng lộn xộn, em muốn đóng vai người tình đau đớn hả?”
"Bắc kỳ đểu!”
"Không phải, nhưng anh với em có cả ngàn
ngăn cách, mình gặp nhau được bao nhiêu lâu… Từ bốn giờ chiều đến bây giờ hai
giờ mười phút, chưa được mười hai tiếng, em biết để làm gì? Trước mười hai giờ
này em biết anh là ai?… Ngày mai anh về chỗ đóng quân, mốt chết, em làm gì
được, em khóc, đòi ngã xuống huyệt anh, đâu được, em có chồng, người ta lại đưa
anh vào nghĩa trang quân đội trong Sài Gòn, em sẽ làm sao? Em lên Phú Bài nhảy
tàu bay theo anh?!! Hà… hà, không phải thô bạo nhưng đó là sự thật, em với anh
thấy cả khởi đầu lẫn kết cục của tình yêu. Anh yêu em, có, nếu yêu theo nghĩa
gần và rõ nhất. Anh yêu em vì muốn sống cho mình thật đầy đủ, ôm em trong tay,
thấy hạnh phúc nhưng rồi sẽ được bao lâu? Anh sợ khi có ý nghĩ muốn chiếm giữ
em đời đời, đời đời… nghe kinh bỏ mẹ… Anh có giữ đời đời cho anh được không? Em
đừng trách anh thô bạo, hãy trách đời sống, đời độc địa kinh khủng vây bọc tấn
công và biến đổi anh… Thôi mệt, không nói nữa… Ôm anh, hôn nữa…” Mở trận chiến
ái tình mới! Quỳnh Như im lặng, trong nụ hôn nàng thấy mặn ở môi, giọt nước mắt
nào đã chảy nàng không ngăn nổi. Thuấn thở dài.
No comments:
Post a Comment