Trần Trung Đạo
- Nỗi lo sợ lớn nhất của một nhà tranh đấu cho tự do dân
chủ của một đất nước không phải là sợ bị tù mà bị sống lưu vong, bởi vì với
phần đông, đi là hết.
Boris Pasternak không phải là nhà đấu tranh
chính trị nhưng khi bị hăm họa nếu đi nhận giải Nobel văn chương có thể không
được phép trở về Nga, ông từ chối đi nhận giải. Aung San Suu Kyi được phép đi
thăm chồng bịnh nặng nhưng có thể không được trở về, bà đành chịu không thấy
mặt chồng còn hơn phải rời Miến Điện. Nhắc lại, năm 1997, chồng bà, Tiến sĩ
Michael Aris, bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối nhưng bị chính phủ quân
phiệt Miến từ chối cấp giấy phép nhập cảnh thăm bà và cuối cùng Michael Aris đã
chết ở Anh Quốc đúng trong ngày sinh nhật của ông không có mặt vợ.
Vùa Hàm Nghi của Việt Nam mình là bài học
khác. Trong suốt ba năm từ 1885 đến 1888, chịu đựng bao gian truân đói khổ
trong rừng núi Quảng Bình, nhà vua không hề than van và ngay cả khi bị bắt vị
vua 17 tuổi còn mắng vào mặt Việt gian Trương Quang Ngọc "Mi giết
ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây", nhưng khi bước xuống tàu
Biên Hòa để bị lưu đày sang Algérie, ngài đã khóc. Giọt nước mắt của vị vua mất
nước và cũng là một thanh niên Việt Nam chỉ mới 18 tuổi tuôn rơi chỉ vì phải
rời xa tổ quốc thân yêu và một phần khác ngài cũng biết đi là hết, giấc mộng
Cần Vương xem như chính thức cáo chung.
Trong giai đoạn từ 1975 đến nay, có hai nhà
đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân bản Việt Nam nổi tiếng nhưng có hai chọn lựa
khác nhau: Giáo sư Đoàn Viết Hoạt chọn lựa ra đi và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế chọn
lựa ở lại.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt: Không thể ra khỏi nhà tù nếu thiếu điều kiện ra đi khỏi Việt Nam
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt bắt đầu các hoạt động
chống độc tài CS ngay sau 1975 và bị tù tổng cộng gần 20 năm:
- Lần thứ nhất: Ngày 29 tháng 7 năm 1976 ông
bị bắt với cáo trạng“Tuyên truyền tư tưởng phản động chống phá Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Giáo sư bị CSVN giam giữ 12 năm không bản
án. Ông ra khỏi tù lần thứ nhất ngày 9 tháng 2 năm 1988.
- Lần thứ hai. Một năm sau, Giáo sư Đoàn Viết
Hoạt góp phần thành lập nhóm Diễn Đàn Dân Chủ và sáng lập viên của tạp chí Diễn
Đàn Tự Do. Ngày 17 tháng 11 năm 1990, ông bị CSVN bắt lần thứ hai. Tòa sơ thẩm
CSVN ngày 31 tháng 3 năm 1993 kết án giáo sư 20 năm tù giam. Tuy nhiên, tại
phiên tòa phúc thẩm sau đó, giảm án xuống còn 15 năm tù giam. Năm 1993, ông bị
đưa sang trại tập trung lao động khổ sai. Ngay trong tù, ông đã tổ chức hoạt
động đối lập và vì vậy, ông bị đưa đi giam giữ cô lập 4 năm liền tại trại giam
Thanh Cầm, Thanh Hóa.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đối diện với chọn lựa
không thể ra khỏi nhà tù nếu không chịu rời bỏ Việt Nam, nhưng ông cũng chỉ
chịu rời Việt Nam khi vợ, con và nhiều bạn bè khuyên ông nên chấp nhận ra nước
ngoài. Năm 1998, từ nhà tù, ông được đưa thẳng tới sân bay Nội Bài để bay sang
Mỹ.
Sáng 8 tháng 4, 2014 vừa qua, phái viên Kính
Hòa của RFA phỏng vấn Giáo sư Đoàn Viết Hoạt về việc Cù Huy Hà Vũ được trả tự
do và tức tốc đưa sang Mỹ. Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt phát biểu:
“Tôi nghĩ rằng nếu có thể thì chúng ta nên ở
lại để đấu tranh. Tôi cũng muốn sớm được trở lại để đấu tranh với các bạn trong
nước. Và ở ngoài này thì chúng ta phải vận động để thả ở trong nước chứ không
đưa ra ngoài. Mỗi một người đi ra ngoài là mất một chiến sĩ trong nước, mà
chiến sĩ ở trong nước mới là chính. Ngoài này chúng tôi chỉ hỗ trợ thôi. Khi
sang ngoài này thì chúng tôi làm hết sức mình để hỗ trợ trong nước. Tất nhiên
trong nước là cái chính, chúng ta phải bằng mọi giá đấu tranh để Hà nội thả anh
em ra trong nước. Và phải chấp nhận những tiếng nói đối lập để đi đến dân chủ
một cách ôn hòa bất bạo động.”
Ông Phạm Văn Thành, một người đã từng ở tù
chung với giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhận xét trên Facebook về những lời phát biểu
của giáo sư:
“Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đã trả lời rất thực
lòng. Với bản thân tôi, tôi luôn luôn giữ lòng kính trọng với các quyết định
của ông, kể cả quyết định chấp nhận đi ra nước ngoài, một quyết định tôi biết
là cực kỳ khó khăn đối với ông, người mà tôi trân trọng gọi bằng thầy xưng con
ngay từ khi anh em chúng tôi đón nhóm của ông chuyển từ trại Z30D Hàm Tân vào
trại Trừng Giới A20 Xuân Phước cuối năm 1993. Thời gian ở trại A20 Xuân Phước,
ông là người nỗ lực không ngừng nghỉ trong mục tiêu nâng cao khả năng lý luận
cho những anh em tù chính trị đã bị giam cầm quá lâu (từ 1977 /1980/1984). Vốn
liếng văn hóa, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế của ông đã làm chúng tôi
bật ngửa và đặc biệt nhất là sự can trường và ý nhị của ông. Trước sự đeo bám
của an ninh trại, ông bất chấp những đớn đau sẽ đến với mình và liên tục tham
dự các buổi họp nhóm với tất cả các anh em tù kỳ cựu tổ chức. Nhiều người trong
nhóm (nhóm Diễn Đàn Tự Do) của ông đã phải tránh hẳn ông vì sợ sự liên lụy. Bối
cảnh ấy, anh em võ biền chúng tôi mới thật sự kính phục người mà trước đó nhiều
anh em có ý không phục vì ông có liên quan đến những nhóm phản đối chính quyền
miền Nam VNCH trước 1975. Bối cảnh trại A20 Xuân Phước, một trại khét tiếng tàn
khốc với gần hai ngàn nấm mộ số (tính đến 1994) đã giúp cho chúng tôi nhận ra
giá trị thực thụ của một kẻ sĩ. Một bậc trí thức thực sự.”
Về việc Giáo sư Đoàn Viết Hoạt ra đi. Cựu tù
nhân chính trị Phạm Văn Thành cũng cho biết chính ông là người được giáo sư hỏi
ý ngay khi ở trong tù. Hỏi ý nhiều khi không phải để nhận câu trả lời nhưng chỉ
là cách để nhẹ những ưu tư đang đè nặng trong lòng.
Câu trả lời của giáo sư Đoàn Viết Hoạt và tiết
lộ của một người ở tù chung nhiều năm với ông, cho chúng ta biết chọn lựa ra đi
của ông là một chọn lựa khó khăn. Chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Ông ra đi
mang theo một niềm tâm sự luôn chôn giấu trong lòng và tâm sự đó đã nhiều đêm
làm ông trăn trở. Ông cho nhiều người thân biết khi máy bay bay lên trời cao,
nhìn xuống thấy đất nước xa dần ông đã bật khóc, không cầm được nước mắt. Bởi
ngày trở lại không biết đến bao giờ. Ông không bao giờ muốn rời xa quê hương
nếu được tự do lựa chọn. Như ông đã chọn lựa trở về Việt Nam sau khi học xong
bằng Tiến Sĩ ở Mỹ. Và sau khi CS chiếm miền nam ông cũng đã quyết định ở lại
quê hương để tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng nhân chủ mà ông đã noi theo thân
phụ ông từ khi còn trẻ.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt không phải là mẫu người
hoạt động theo kiểu xông xáo đó đây nhưng là một nhà giáo dục, một cựu tù nhân
lương tâm phát xuất từ miền Nam, một nhà tư tưởng, học ở Mỹ nên việc hội nhập
vào sinh hoạt chính trị dòng chính Mỹ cũng như tham gia vào cộng đồng Việt Nam
hải ngoại không mấy trở ngại khó khăn. Không giống như nhiều người tranh đấu
khác chỉ tập trung vào các hoạt động có tính cách chiến thuật, ngắn hạn, giáo
sư viết sách, phân tích tình hình quốc tế, sử dụng tích cực các mối quan hệ của
cá nhân ông với quốc tế, đề nghị các chiến lược dài hạn cho các phong trào đấu
tranh, vì thế, vai trò của ông tại hải ngoại có thể hữu hiệu không kém, nếu
không muốn nói thuận lợi hơn, vai trò của ông khi còn ở trong nước.
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế: Lưu đầy không phải là tự do
Một người bạn tù của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt,
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế thì khác, ông đã chọn lựa sống chết với quê hương ngay
trong giờ phút Sài Gòn thoi thóp thở cho đến hôm nay.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong lúc nhiều
người Việt Nam chạy ra sông, ra biển, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã chạy ngược dòng
người, ông chạy về bệnh viện, nơi hàng trăm thiếu nhi Việt Nam bị thương tích
và bệnh hoạn không có người chăm sóc, không có ngay cả một viên thuốc chống
đau. Với chức năng của một bác sĩ và tình thương dành cho thể hệ thiếu nhi đang
bị chế độ bỏ rơi, ông đã ở lại tiếp tục ngành chuyên môn của mình trong bệnh
viện nhi đồng Sài Gòn. Tuy nhiên, một năm sau, trước những bất công, hà khắc mà
chế độ CS áp đặt lên nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn từ trong bệnh viện nơi
ông làm việc cho đến ngoài xã hội, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế phát động cuộc đấu
tranh vì tự do dân chủ và nhân bản cho dân tộc Việt Nam.
Từ đó, ông đã dấn thân vào hành trình tranh
đấu cho một Việt Nam tự do dân chủ và nhân bản. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị bắt
nhiều lần và có những bản án kéo dài hàng chục năm qua nhiều trại tù lớn ở miền
Nam:
- Lần thứ nhất: Mười năm, từ 1978 đến 1988,
trong đó có thời gian dài bị biệt giam vì đã sáng lập Mặt trận Dân tộc Tiến bộ
"với âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản". Không đưa ra tòa xét
xử.
- Lần thứ nhì: Ngày 29 tháng 11 năm 1991,
trong phiên tòa chỉ vỏn vẹn ba mươi phút, CSVN đã xử Bác sĩ Nguyễn Đan Quế 20
năm khổ sai và 5 năm quản chế vì "hoạt động lật đổ chính
quyền". Đến năm 1993, Bác sĩ Quế bị đưa đi lao động khổ sai ở trại K4
Xuyên Mộc (Bà Rịa) và ở trại K3 Xuân Lộc, cách Sài Gòn 80 cây số về hướng Đông
Bắc. Mặc dù sức khỏe của ông ngày càng yếu, quản giáo CSVN vẫn tìm cách hành hạ
ông bằng lao động khổ sai và biệt giam.
- Lần thứ ba: Bị bắt năm 2003 vì lên tiếng
tranh đấu cho tự do thông tin và phát biểu. Lần nữa, trước áp lực quốc tế và
đồng bào trong cũng như ngoài nước. CSVN đã buột phải thả Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
vào năm 2005.
- Lần thứ tư: Bị bắt vào cuối tháng 2 năm
2011, sau khi công bố “Lời kêu gọi toàn dân xuống đường cứu nước”. CSVN trả ông
về nhà sau khi bị tạm giữ 48 giờ.
Năm 1998, trước áp lực quốc tế, chính quyền
cộng sản đồng ý thả bác sĩ Nguyễn Đan Quế với điều kiện ông phải rời Việt Nam.
Với hai mươi năm tù tội, CSVN nghĩ rằng bác sĩ
đã cạn kiệt tinh thần cũng như thể lực và phải chọn con đường bình an nhất cho
những ngày tháng cuối đời là ra đi. Nhưng họ đã lầm. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế từ
chối. “Lưu đầy không phải là tự do” ông tuyên bố một
cách khẳng khái. Tự do của một người chỉ trọn vẹn ý nghĩa nếu được tự do trên
quê hương mình và cùng với dân tộc mình. Không có tự do dành cho những kẻ bị
lưu đày. Cuối cùng, Cộng Sản đành thả ông và giam lỏng ông tại Sài Gòn.
Ngày 11 tháng 5 năm 2014 sắp tới đây đánh dấu
24 năm ngày Bác sĩ Nguyễn Đan Quế công bố Bản Tuyên Bố của Cao Trào Nhân Bản
kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, các chính phủ và nhân dân yêu
chuộng tự do dân chủ khắp thế giới tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh bất bạo động
đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải (a) Tôn trọng các nhân quyền căn bản của người
dân Việt Nam. (b) Phải chấp nhận sinh hoạt chính trị đa nguyên. (c) Phải trả
lại cho người dân Việt Nam quyền được lựa chọn một thế chế chính trị phù hợp
với nguyện vọng của mình qua các cuộc bầu cử tự đó và công bằng dưới sự giám
sát của Liên Hiệp Quốc.
Hôm nay, bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã 73 tuổi với
gần một nửa đời người trong tù tội lao lung. Ngọn đèn nhân sinh có thể một ngày
sẽ tắt nhưng ngọn đèn nhân bản ông thắp lên trong ngày 11 tháng 5 năm 1990
chẳng những không tắt mà mỗi ngày một sáng hơn. Hai mươi năm trước, phong trào
xã hội dân sự tại Việt Nam chỉ có Cao Trào Nhân Bản và Diễn Đàn Tự Do, hôm nay
hàng trăm nhóm, phong trào, mạng lưới internet, tập hợp xã hội dân sự đang được
ra đời và phát triển. Con đường ông đi ngày đó chỉ có một vài dấu chân lẻ loi
đơn độc, hôm nay, hàng trăm, hàng ngàn người cùng đi. Tuổi trẻ Việt Nam xem bác
sĩ như là một người cha, người chú, một chỗ dựa tinh thần, một nơi để tìm nguồn
an ủi trong những lúc khó khăn. Và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, cũng giống như trong
buổi chiều 30 tháng Tư, 1975 lại tiếp tục săn sóc, khuyên răn các em bằng đức
tính khiêm cung và tấm lòng nhân ái.
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và Mount Everest đang chờ
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là một người đa tài. Anh
sinh ngày 2 tháng 12 năm 1957 tại xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh). Anh
tốt nghiệp tiến sĩ luật học, thạc sĩ văn chương, họa sĩ nhưng được biết đến
nhiều nhất như một nhân vật bất đồng chính kiến với nhà nước CSVN. Anh bị bắt
ngày vào 5 tháng 11 năm 2010 tại Sài Gòn và bị khởi tố ngày 15 tháng 11 năm
2010 về tội danh quen thuộc của CS “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Anh bị kết án 7 năm tù. Phiên tòa ngày 2 tháng 8 năm 2013
giữ nguyên bản án. Tuy nhiên, trong lúc đang ở tù, anh Cù Huy Hà Vũ được CS
phóng thích và cùng vợ đi thẳng sang Mỹ ngày 7 tháng Tư năm 2014.
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ ra khỏi nhà tù CS là một
tin vui chung cho phong trào dân chủ Việt Nam. Cuộc vận động và tranh đấu thay
mặt anh đã diễn ra không ngừng trên mọi lãnh vực, mọi bình diện, mọi phương
tiện, mọi giới và mọi tầm vóc đã có hiệu quả. Trong nước Cù Huy Hà Vũ đã trở
thành niềm thôi thúc của tuổi trẻ dấn thân. Ngoài nước, Cù Huy Hà Vũ đứng hàng
đầu trong danh sách tù nhân mà các tổ chức nhân quyền dùng để gây áp lực cho
CSVN. Phần lớn các nhà phân tích và đồng bào quan tâm đều nghĩ CSVN phải trả tự
do cho anh sớm. Và họ đoán đúng. Tuy nhiên thay vì trở về với bạn bè cùng tranh
đấu, với công cuộc vận động dân chủ đang quá cần anh, với phong trào bảo vệ
Hoàng Sa Trường Sa mà anh từng gắn bó, anh được đưa từ nhà tù sang Mỹ ngay là
một tin làm nhiều người ngạc nhiên. Không ít người thất vọng, lo lắng và ngay
cả buồn phiền.
Lần nữa, chọn lựa đi hay ở là chọn lựa cá
nhân. Nếu anh chọn ra đi để chửa bịnh và được sống bình an sau những năm tháng
dài đấu tranh mệt mỏi ở Việt Nam thì đó là chọn lựa riêng tư. Mỗi người trong
thế giới này có quyền chọn lựa một cách sống riêng cho mình và gia đình mình.
Quyết định đó phải được tôn trọng. Đất nước Việt Nam là của 90 triệu người chứ
không phải chỉ của một mình Cù Huy Hà Vũ. Và đừng quên, phong trào dân chủ từ
thập niên 1990 đến nay có những lãnh tụ đấu tranh tưởng chừng như “gươm đàn nửa
gánh, non sông một chèo” đã tự biến mất đi không để lại một dấu vết gì. Thỏa hiệp,
đầu hàng, mệt mỏi hay dù gì cũng không ai trách và sau một thời gian sẽ không
còn ai nhắc. Cuộc vận động dân chủ như một chuyến tàu, tại mỗi sân ga, có người
bước xuống nhưng cũng có người khác bước lên. Lịch sử đã, đang và sẽ diễn ra
như thế.
Nhưng nếu anh Cù Huy Hà Vũ chọn ra nước ngoài
để vừa được bình an vừa tiếp tục con đường tranh đấu như phương cách anh đã làm
trong nước thì đó sẽ là một chọn lựa vô cùng khó khăn để thực hiện:
- Phương pháp đấu tranh: Từ trước đến
nay, anh Cù Huy Hà Vũ chọn phương pháp đấu tranh trong vòng cơ chế, nghĩa là
chấp nhận và dựa trên hiến pháp CS, luật pháp CS. Anh từng ứng cử vào chức vụ
Bộ trưởng Thông Tin, tranh cử Đại biểu Quốc Hôi. Anh từng kiện Ủy Ban Nhân Dân
tỉnh Thừa Thiên, kiện cả Thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng, đòi hỏi phải thay đổi
hiến pháp. Nói chung, anh tìm mọi kẽ hở của chế độ để tấn công, nhưng những kẽ
hở đó đã được đóng lại cùng lúc với cánh cửa máy bay. Điều kiện đầu tiên để đấu
tranh trong vòng cơ chế là phải có mặt. Không gian đấu tranh chính trị như thế
không tồn tại ở hải ngoại. Ở Mỹ không có “gậy ông” để anh “đập lưng ông”. Lịch
sử đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc có rất nhiều
người đã đấu tranh trong vòng cơ chế thực dân như Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, nhà
báo Nguyễn Phan Long, kỹ sư Bùi Quang Chiêu, nhà văn Diệp Văn Kỳ v.v... và đã
giúp tạo nền móng vững chắc cho chế độ dân chủ tại miền Nam Việt Nam từ 1954
đến 1975 nhưng họ đều trực diện một mất một còn với chế độ thực dân tại Việt
Nam.
- Hậu thuẫn đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ
vận dụng tích cực các mối quan hệ cá nhân, gia đình, môi trường xã hội mà anh
xuất phát để làm điểm tựa đấu tranh. Những điều kiện đó thuận lợi bao nhiêu ở
trong nước sẽ bất lợi bấy nhiêu ở hải ngoại. Giả thiết rằng điểm hẹn cuối cùng
trong hành trình tranh đấu của anh Cù Huy Hà Vũ cũng là một nước Việt Nam tự do
dân chủ như phần lớn người Việt trong và ngoài nước đang tranh đấu, điểm khởi
hành của anh phát xuất từ trong lòng chế độ CS và vì thế không đi cùng một ngã
với đại đa số người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại không phải bao giờ
cũng bằng mặt, bằng lòng với nhau nhưng có một lập trường dứt khoát giống nhau
đối với chế độ CS như một điều kiện tiền đề, không có chuyện “tuy nhiên”, “lẽ
ra” hay “nói gì thì nói” nào cả.
- Lý luận đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ
không phải là nhà tư tưởng hay nhà lý luận. Hầu hết các hoạt động của anh chỉ
mang tính chiến thuật, ngắn hạn, gây khó khăn cho chế độ nhưng không tấn công
vào nền tảng của ý thức hệ Mác Lê và các nguyên nhân dẫn đến một đất nước điêu
tàn, nghèo đói, phân hóa như hôm nay. Có thể đó phương cách đấu tranh anh nghĩ
là thích hợp nhưng trong điều kiện hải ngoại những chiến thuật như thế không
hiệu quả và cũng không thuyết phục được bao nhiêu người. Tham nhũng tại Việt có
tính đảng và sinh sôi nảy nở tốt tươi dưới bóng cây cổ thụ quyền lực của đảng,
do đó, đánh tham nhũng mà tránh đánh vào đảng CS cũng chẳng khác gì đánh vào
chiếc bóng đen mà để yên cho kẻ trộm dọn nhà mình.
Anh Cù Huy Hà Vũ có thể nói đã một mình đã tạo
nên một phong trào đấu tranh đầy sinh động. Các nhà chiến lược và lý luận có
thể không đánh giá anh cao nhưng cách đấu tranh của anh lại dễ gây phong trào
quần chúng và gây khó cho lãnh đạo CS. Nhiều bạn trẻ đã khóc, đã xuống đường,
đã bị tù vì anh khi anh bị chế độ CS hạ nhục. Nhiều cụ già đã thương quý anh
như con, như cháu khi anh bị lao tù. Ngoài việc can đảm, gan dạ, với tuổi trung
niên, anh là chất keo nối kết các tầng lớp xã hội. Quốc tế nhìn anh như một
lãnh tụ đấu tranh nổi bật của giai đoạn này và luôn dùng để gây áp lực nhân
quyền với chế độ. Nhưng chất keo đó chỉ còn là những giọt nước mưa rớt rơi trên
mặt phi đạo khi chuyến bay mang anh đi vừa cất cánh. Nụ cười và dấu V chiến
thắng của anh đưa lên khi ra khỏi phi trường Dulles ở Washington DC có thể chỉ
để xã giao với người đang cầm máy ảnh nhưng làm đắng cay cho bao nhiêu đồng
bào, anh em đang kỳ vọng ở nơi anh.
Lịch sử cũng từng chứng minh không phải đi là
hết
Rất nhiều chính khách đối lập lưu vong hay tự
lưu vong ở nước ngoài sau đó đã trở về và thành công trong việc lãnh đạo quốc
gia như Benazir Bhutto, Kim Đại Trọng ở Á Châu, Jacob Zuma, Moncef Marzouki của
Phi Châu và nhiều người khác.
Nhiều độc giả đã biết trường hợp Kim Đại Trọng
của Nam Hàn và Benazir Bhutto của Parkistan, xin giới thiệu trường hợp của Tổng
thống Tunisia Moncef Marzouki mới đây. Sau khi tốt nghiệp bác sĩ tại đại học
Strasbourg, Pháp, Bác sĩ Moncef Marzouki trở lại Tunisia và thành lập Trung Tâm
Y Tế Cộng Đồng để ngăn chận lạm dụng thiếu nhi. Bác sĩ Moncef Marzouki không có
tham vọng chính trị nhưng trước việc nhà độc tài Ben Ali trấn áp một cách dã
man các thành phần đối lập, ông đã đứng ra thành lập Ủy Ban Quốc Gia Bảo Vệ Tù
Nhân Lương Tâm (the National Committee for the Defense of Prisoners of
Conscience). Ông bị tù nhiều lần trước khi lưu vong sang Pháp. Tại Pháp, ông
tiếp tục lãnh đạo Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa (Congrès pour la République) gọi tắt
là CPR. Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa quy tụ một tập thể trí thức thuộc nhiều tôn
giáo, thành phần xã hội, hữu và tả, Arab và không Arab nhưng theo đuổi một mục
tiêu tối hậu là thành lập một chế độ Cộng Hòa đầu tiên tại Tunisia bao gồm tự
do ngôn luận, tự do hội hộp, tự do bầu cử và ứng cử. CPR đòi hỏi một hiến pháp
mới đặt cơ sở trên các nguyên tắc của chế độ Cộng Hòa. Sau khi nhà độc tài Ben
Ali bị lật đổ, Moncef Marzouki trở về Tunisia để tham gia cuộc bầu cử quốc hội
và được chọn làm Tổng thống của Tunisia ngày 12 tháng 12 năm 2011. Trả lời báo
chí, Moncef Marzouki phát biểu về nhiệm vụ chính của ông ta “Khi một
đất nước phải trải qua 50 năm độc tài, nhiệm vụ chính của tôi là ngăn chận độc
tài tái diễn”.
Còn hơi sớm để đánh giá, nhận xét về việc anh
Cù Huy Hà Vũ ra đi bởi vì có thể có nhiều yếu tố về phía Mỹ, phía CSVN và cả cá
nhân anh vẫn chưa được biết, chưa được tiết lộ, chưa được tỏ bày. Những điểm
người viết trình bày không có ý phê bình, chỉ trích nhưng chỉ muốn nêu ra một
cách thẳng thắn về những hoàn cảnh và tình huống mà anh Cù Huy Hà Vũ có thể sẽ
phải đương đầu trong những ngày tháng tới. Nếu anh chỉ muốn có cuộc sống bình
an, đọc sách, họa, nghiên cứu luật sẽ không có gì để nói nhưng nếu anh tiếp tục
dấn thân trên đường đấu tranh như đã từng làm thì trước mặt là đỉnh Everest
đang đợi chờ anh.
Một góp ý chung cho tất cả những người ra đi,
dù ra đi bằng ghe như kẻ viết bài này hay bằng máy bay như các lãnh tụ đấu
tranh: Xa đất nước là một bất hạnh và ra đi, dù viện dẫn bất cứ một lý do gì,
cũng có lỗi với quê hương.
Trần Trung Đạo
danlambaovn.blogspot.com
No comments:
Post a Comment