Tiến Sỹ Phạm
Trọng Chánh - Những năm 1980, nhà thơ Huy Cận thường sang Paris, mỗi
năm ba bốn lần. Ông được Tổng thống Pháp François Mitterand mời vào Hội đồng
Tối cao Pháp ngữ. Ông còn là một nhân vật trong Hội đồng Cố vấn Cơ quan Liên
Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn hóa, kiêm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Việt Nam.
Có lẽ xưa nay Việt Nam chưa có một nhân vật chính trị nào có uy tín quốc tế về
văn hóa như ông, và ông giữ chức Bộ trưởng, Thứ trưởng từ Canh nông đến Văn hóa
hơn 40 năm. Từ năm 25 tuổi, ông là kỹ sư Canh Nông ngành nuôi ong, nhưng đã là
một thi sĩ nổi tiếng từ năm 17 tuổi. Ông là vị Bộ trưởng trẻ nhất, mới 25 tuổi.
Năm 1945,
ông là một trong ba người phái đoàn chính phủ Việt Minh nhận ấn kiếm thoái vị
của Hoàng đế Bảo Đại.
Mỗi lần ông sang Paris, ông được ở những khách sạn 5 sao, những
cơ sở sứ quán. Có lẽ chán với những lễ nghi tiếp đón quá trịnh trọng, mỗi lần
xong việc quan là ông điện thoại cho tôi hay cho anh Đặng Tiến, hai người bạn
tri kỷ tri âm của ông để được sống một đời sống bình thường, một thi sĩ giữa
lòng Paris. Ông thích tôi đưa ông dạo Paris, đến ở nhà tôi như một người dân
thường, ông thích đi dọc bờ sông Seine mùa thu lá vàng bay, đi thăm các lâu
đài, các công viên, các viện bảo tàng hay lặn lội trong các chợ trời tìm một
món quà cho người thân, đi thăm các nhà văn Pháp hay đi rong chơi trong các
hiệu sách, ông thích nhất là các bộ sách Pléiade của nhà xuất bản Gallimard, in
toàn tập từng tác giả danh tiếng thế giới, món quà ông thích nhất là sách
Pléiade. Ông thích nói chuyện với tôi đủ mọi vấn đề, từ đất nước đến văn hóa,
từ chuyện thời Tự Lực Văn Đoàn đến chuyện ngày nay và dĩ nhiên cả chuyện gia
đình. Tôi nói chuyện với ông hằng giờ mà không biết chán, tôi có cảm tưởng ở
Việt Nam ông không có nhiều bạn để tâm sự, ông đã chán chung quanh đầy những
người ngồi đồng một ý nghe diễn văn của ông, ông chán cuộc sống đầy nghi thức
phải giữ miếng, phải báo cáo, ông thích sống cuộc sống tự nhiên, có gì nói nấy,
chân thật và giản dị và tôi là người ông trút hết bầu tâm sự, những gì ông
không thể nói được. Năm1981 Xuân Diệu sang Paris ông gửi Xuân
Diệu cho tôi đưa đi chơi trong một tháng. Và những ngày cuối cùng ông Xuân Diệu
đã ký thác cho tôi toàn thể di cảo của ông để tôi soạn Tự Điển Tình Yêu bằng
thơ tình Xuân Diệu, đó là ước vọng tha thiết nhất của ông. Nhất là ông có nhiều
bài thơ đau đớn về cuộc tình tan vỡ của ông và bà Bạch Diệp, phải ba mươi năm
sau mới công bố được. Và tôi đã giữ đúng lời hứa năm 2011 tôi đã hoàn thành và
xuất bản tại Paris quyển Tự Điển Tình Yêu bằng thơ tình Xuân Diệu.
Mỗi lần ông Huy Cận sang Paris thường mang
tặng sách cho tôi, sách mới xuất bản của Xuân Diệu, Huy Cận; có những tập thơ
cũ ông còn một bản ông cũng giao cho tôi và ghi bằng viết chì: “Thơ Huy Cận nhờ
anh Chánh giữ hộ”. Những tập thơ của ông tôi có, ông cẩn thận lấy sửa lại từng
lỗi nhà in đã in sai.
Ông Huy Cận thích gặp tôi có lẽ vì, có nhiều
chuyện tôi không đồng ý với ông và thích cãi lại ông. Lần đầu tiên gặp ông, tôi
tặng ông bài thơ: “Bên các vị La Hán chùa Tây Phương, đáp lời thơ Huy
Cận”. Trong bài thơ danh tiếng của ông, ông cho rằng:
Một câu hỏi lớn không
lời đáp,
Cho đến bây giờ mặt
vẫn chau.
Đạo Phật không đáp được câu hỏi lớn trong đời
là khổ nên ngàn năm các pho tượng La Hán chùa Tây Phương vẫn chau mày. Và phải
đợi đến:
Hôm nay xã hội đã lên
đường,
Tôi nhìn mặt tượng
dường tươi lại,
Xua cả hoàng hôn tản khói
sương.
Tôi đặt lại ông câu hỏi:
Câu hỏi nào câu hỏi
ngàn năm?
Câu trả lời nào đứng
vững trăm năm?
Câu trả lời “Xã hội đã lên đường” chỉ tồn tại
được 70 năm từ 1917,
không đứng vững được đến trăm năm. Bài thơ ấy tôi viết năm 1978,
mười năm trước khi Đông Âu sụp đổ.
Và tôi có cho ông xem tập thơ “Nhục nước
đói nghèo”.
Xưa nhục nhã làm dân
mất nước,
Nay nhục làm dân nước
đói nghèo.
Ông đồng ý, nhục của nước mình ngày nay là
nhục còn nghèo đói. Biết tôi là người thích nói sự thật mỗi lần gặp tôi, ông
thường hỏi ý kiến về những vấn đề trong nước. Ông thừa biết rằng ở địa vị cao
thường khó biết dư luận vì cấp dưới thường báo cáo những gì tốt đẹp và che giấu
những sự thật.
Nhiều lần đến chơi nhà tôi, ông cùng đi với Hà
Vũ. Lúc ấy Hà Vũ mới làm luận văn Cao học Văn chương về Stendal. Khi tâm sự
chuyện gia đình, ông bảo Hà Vũ hay cãi bố. Hà Vũ không chịu vào Đảng. Giá như
Hà Vũ nghe lời ông, ông thu xếp mọi việc, con đường thăng quan tiến chức sẽ dễ dàng.
Học xong Hà Vũ sẽ nối nghiệp bố trở thành một nhà hoạt động quốc tế Văn hóa
Ngoại giao, trở thành Đại sứ Việt Nam tại Unesco, hay Khối Pháp ngữ. Hà Vũ xong
Cao học, không theo con đường văn chương mà chuyển hướng làm luận án Tiến sĩ về
Luật Hiến Pháp.
Tôi cười đọc cho ông Huy Cận hai câu thơ của
Thiền sư Quảng Nghiêm đời Lý:
Thanh niên tự hữu xung
thiên chí,
Bất hướng Như Lai hành
xứ hành.
Tuổi thanh niên tự nó có cái chí xông thẳng
trời xanh,
Không cần phải theo con đường của Đức Phật
Thích Ca.
Một Thiền sư thời Phật giáo thịnh trị nhất mà
dám bảo: “Thanh niên tự nó có cái chí hướng tốt tung thẳng trời xanh, không cần
phải đi theo Đức Phật Thích Ca” thì quả thật là chuyện động trời như ngày nay
chúng ta nói: “Thanh niên tự nó có cái chí tung thẳng trời xanh, không cần phải
đi theo con đường Cụ Hồ”. Không ai gọi Thiền sư Quảng Nghiêm là phản bội Phật
giáo, ma quỷ xúi giục, mà trái lại xem Thiền sư là bậc đạt đạo, hiểu Phật giáo,
theo ngón tay chỉ mặt trăng mà không chấp ngón tay. Hoàn cảnh xã hội thời Đức
Phật khác, hoàn cảnh xã hội thời Cụ Hồ khác, thanh niên ngày nay đối diện với
cuộc sống, xã hội tiến bộ hoàn toàn khác biệt với cách đây hai ngàn năm, cách
đây trăm năm, điều then chốt là vươn lên hấp thụ cái không khí, ánh sáng của
trời xanh, đi theo con đường chánh đạo không phải câu nệ: Đức Phật ngày xưa đi
khất thực nay ta phải khất thực mỗi ngày như Đức Phật. Cụ Hồ ngày xưa bôn ba
hải ngoại sống đạm bạc nay ta cũng đạm bạc như cụ. Thời cụ đấu tranh độc lập,
nay ta có độc lập ta phải tiến đến cải cách dân chủ, nâng cao dân trí, chấn
hưng công thương nghiệp cho dân giàu nước mạnh, nhân dân hạnh phúc, giải quyết
những mâu thuẫn để thống nhất lòng dân, hoà giải dân tộc. Giặc của thời đại ta
là sự ngu dốt, đói nghèo, dân trí, quan trí thấp kém. Thanh niên ngày nay đi
tìm kiếm một tổ chức xã hội làm nền tảng lâu dài cho sự hưng thịnh đất nước,
không nhất thiết phải sao chép chế độ độc đảng của cha ông.
Tôi đánh giá cao sự cãi lại lời bố của Hà Vũ.
Điều đáng sợ trong xã hội ngày nay là thái độ thụ động, “đồng một ý là ỳ một
đống”. Trẻ con tại Pháp được quá nuông chiều trở nên thụ động, đến mức cô giáo
bảo mở quyển tập, lấy cây bút ra cũng loay hoay không biết làm, trở nên trẻ em
mù chữ không biết đọc, biết viết. Bộ Giáo Dục Pháp hàng năm phải trả một chi
phí rất lớn để giúp hàng trăm ngàn trẻ em bị bệnh thụ động, là mướn một người
ngồi cạnh các em, cô bảo lấy vở thì lấy vở ra giùm, lấy cây viết chì thì lấy
đúng cây viết chì, không đổ cả đống viết ra bàn rồi loay hoay không biết làm
gì, đi học thì mang theo cả 14 ký lô sách vở, cô hỏi loay hoay cả giờ không tìm
ra quyển sách nào để học.
Cái đáng sợ của xã hội Việt Nam, là sự ù lỳ,
đồng ý, không có ý kiến gì cả, không tranh cãi, ai cãi là bị tù, bị đày đọa, bị
giáng chức, làm cho nhiệt khí xã hội bị lụn bại, mà chúng ta xem sự lụn bại là
đoàn kết, nhân dân nói một lời, đất nước chỉ có một suy nghĩ ở Bộ Chính trị
Trung ương Đảng. Bao nhiêu vị dân biểu Quốc hội cả đời không nói được một tiếng
nói nào, không có một ý kiến xây dựng nào. Bộ máy tuyên truyền chế ra một anh
hùng, một mẫu mực là cả xã hội thi đua nhau sao chép lại.
Xã hội như một cái xe không có phanh, thắng,
không có người lái xe thay thế, khi lạc đường cũng không có định vị GPS, bản
đồ, hay địa bàn để hướng dẫn, một xã hội như thế rất nguy hiểm, dễ dàng đứng
trước nguy cơ diệt vong, đứng trước vực thẳm tận cùng của nghèo nàn lạc hậu.
Các nước Tây phương phải trải nghiệm qua những
kinh nghiệm đớn đau, mới tiến đến dân chủ. Sau Cách mạng 1789, tại Pháp phe phái
này lên thì đưa phe phái khác lên máy chém, các dân biểu ý kiến khác nhau, cãi
không xong họ thách nhau ra các cánh rừng bên cạnh Paris để đấu kiếm hay đấu
súng, những cuộc đấu một còn một mất. Có lúc điểm danh dân biểu Quốc hội chỉ
còn lại phân nửa, phân nửa chết trong các trận đấu, hay trên máy chém. Thế mà
các phe phái vẫn lại tiếp tục nảy sinh và cãi nhau. Một cuộc thỏa thuận qua
trung gian Hội Tam Điểm quy tụ những lãnh tụ uy tín, đã đi đến chỗ cấm đấu kiếm
và đấu súng, dẹp chế độ độc tài với máy chém. Phân chia Quốc hội thành Tả, Hữu
tùy theo chỗ ngồi. Dân chủ chính trị lưỡng đảng là một thể chế hoàn hảo nhất
của nhân loại ngày nay, nó tránh tình trạng độc tài tham nhũng chế độ độc đảng,
nó tránh tình trạng manh mún hàng trăm đảng mà không có đảng nào có thực lực
nắm đa số quốc hội. Tam Quyền Phân Lập: độc lập giữa Hành Pháp, Lập Pháp và Tư
Pháp. Tránh tình trạng vừa đá banh vừa là trọng tài. Chính trị lưỡng đảng khi
đảng thắng cử họ chỉ thay đổi khoảng từ 300 đến 3000 người lãnh đạo, khác với
độc đảng hàng triệu người bị loại khỏi guồng máy quốc gia. Khác với hàng trăm
đảng hỗn loạn không tìm ra một gương mặt nào sạch sẽ. Từ giã chế độ độc đảng
tránh cho nhân dân tình trạng một cổ hai tròng, mỗi chức vụ hành pháp đều có
một ông đảng kế bên, lương bổng phải trả hai lần, hai người cùng làm một nhiệm
vụ. Chế độ chính trị lưỡng đảng là một thể chế hào hứng, nhân dân góp phần trực
tiếp bầu người lãnh đạo từ Tổng thống, Quốc hội Thượng Viện, Hạ Viện cho đến cơ
cấu địa phương làng xã, thành phố.
Ngày nay hội nhập với thế giới, chúng ta không
cần mất hai trăm năm để đi đến những kết quả tương tự, mà nên nghiên cứu trực
tiếp đi đến một thể chế dân chủ, như chúng ta hội nhập vào thế giới kinh tế thị
trường, ngân hàng, hay văn hóa, du lịch.
Một lần trước mặt tôi và bố, khi còn là một
thanh niên, Hà Vũ bảo: “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ còn cái tên, Đảng đã chết.”
Ông Huy Cận im lặng nhìn Hà Vũ không nói, có lẽ cha con đã cãi nhau rất nhiều
về việc này. Hà Vũ nói đúng, chủ thuyết của Đảng Cộng sản là đấu tranh giai
cấp, nay không còn đấu tranh giai cấp, thì phải đổi tên thành đảng Dân chủ Xã
hội mới đúng thực tế.
Vai trò và nhiệm vụ lịch sử của Đảng Cộng sản
đã xong, nhường lại cho các sử gia viết sử. Hà Vũ nói là làm, anh nhất định
không vào Đảng, anh học xong về nước mọi cánh cửa đã đóng trước mặt anh.
Hà Vũ là một cây thông đứng thẳng, anh không
chọn lựa con đường còng lưng vào Đảng để được tất cả danh lợi, sau khi xong
Tiến sĩ Luật tại Paris về nước, Bộ Ngoại giao nơi anh làm việc trước cũng từ
chối anh vì anh không phải là đảng viên. Anh xin ứng cử Đại biểu Quốc hội, để
góp phần tiếng nói, con đường cũng bị chận, anh đánh tiếng xin ứng cử làm Bộ
trưởng Thông Tin, mọi người cười ngạo, chẳng ai đếm xỉa tới, anh mở văn phòng
luật sư, khách hàng tới bị khó khăn, anh không cần đến quyền lực của bố, dù rất
đau đớn hai bố con giận nhau những ngày cuối đời. Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã tự
chọn cho mình một con đường, nói lên lời ngay thẳng của một người được đào tạo
từ Đại học Tây phương, từ chuyện đồi Vọng Cảnh ở Huế đến khai thác Bauxite tại
Tây Nguyên kiện Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nếu là một nhà chính trị cao tay,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho mời anh đến hỏi ý kiến, mời anh một chức vị cố
vấn vu vơ nào đó. Bắt anh trong một khách sạn Sài Gòn với hai bao cao su ngụy
tạo để bôi nhọ danh dự anh, và đưa anh ra tòa xử với một tội danh khác 7 năm
tù, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nâng anh lên hàng một đối thủ chính trị có tầm
vóc. Bản án tù 7 năm là một thử thách rèn luyện ý chí, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã
hiên ngang trước tòa án, đã tuyệt thực trong tù, con đường của Hà Vũ đi vào tụ
điểm niềm tin của cả dân tộc. Trước dư luận thế giới, anh trở thành một lãnh tụ
đối lập tầm vóc cho cục diện Việt Nam trong tương lai. Sau Miến Điện, Việt Nam
là nước cuối cùng đang trở dạ chuyển mình để khai sinh một nền dân chủ. Thiên
thời, địa lợi và nhân hòa, ba yếu tố đó đã đưa anh vào một điểm tụ mà hiếm có
một nhân vật Việt Nam nào từ năm 1945 có được như anh. Đã lâu rồi, như
chưa bao giờ có một nhân vật nào cả dân tộc trong và ngoài nước đang hướng về
anh, nhìn anh như một hy vọng, với cả niềm thương yêu như chờ đợi một đứa bé
sắp chào đời.
Tất cả những tiên đoán Dân chủ Việt Nam sẽ
khai sinh khi Đảng Cộng Sản Việt Nam sụp đổ, khi Chính phủ Việt Nam sụp đổ như
Đông Âu, điều này sai lầm. Trong hoàn cảnh đất nước trước áp lực Trung Quốc
đang bành trướng tham vọng một nền kinh tế thứ hai địa cầu, sự suy yếu của Việt
Nam sẽ là một nguy cơ cho dân tộc Việt Nam. Việt Nam sẽ tiến đến dân chủ trong
một thế mạnh, sau ba thập niên phát triển kinh tế. Việt Nam cần thiết phải cải
tổ hệ thống chính trị của mình. Hệ thống chính trị độc đảng đã lỗi thời, guồng
máy khai sinh từ trong chiến tranh không còn thích ứng với hoàn cảnh Hội nhập
Kinh tế Toàn cầu. Không chỉ có một Cù Huy Hà Vũ, hay Nguyễn Tiến Trung thao
thức cải tổ, mà hàng vạn cựu du học sinh sau bao nhiêu năm du học tại nước
ngoài, hàng trăm ngàn trí thức đào tạo trong nước, toàn dân Việt Nam cũng đã
thức tỉnh trước sự lạc hậu của hệ thống chính trị Việt Nam. Những nhà chính trị
Việt Nam hiện tại đang nắm giữ quyền lực chỉ còn có một lựa chọn là trở nên
những bà mụ tốt bụng hiền lành, làm công việc khai sinh một nền dân chủ cho
Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, từ sự kiện Lê Hoàn nhà
Tiền Lê, Lý Công Uẩn nhà Lý, đến những đổi mới năm 1986, các nhà lãnh đạo
Việt Nam đã có những sáng kiến thay đổi tài tình, chúng ta hy vọng và đặt hy
vọng vào tương lai Việt Nam vào thế hệ trẻ, chí tung thẳng trời xanh của Việt
Nam.
Paris, 10-4-2014
Tiến Sỹ Phạm Trọng Chánh
No comments:
Post a Comment