1.
Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công
hàm Phạm Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lí của Trung Quốc, mà không hề
thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy, về cơ bản,
công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và
Nam Sa.
Phản luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lí của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành”
với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa
nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về
lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng
không có căn cứ.
Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng
hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo
lô-gich, là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung của
Tuyên bố Lãnh hải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả chủ
trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”
2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập niên 1950, quan hệ giữa
Trung Quốc và nước Mĩ là xấu, hạm đội 7 của hải quân Mĩ đóng giữ tại eo biển
Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh
hải là để cảnh cáo nước Mĩ không được xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công
hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc
dựa trên tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến
lãnh thổ.
Phản luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung tốt
đẹp là sự thực, nước Mĩ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt – Trung, Việt Nam
lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lí do tình cảm đó. Thế
nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế,
cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán
thành” rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng
chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu !
3. Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam đang ở vào
giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho Việt Nam, để có được
chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc.
Phản luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào
hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ
không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện)
công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại
một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của
công hàm Phạm Văn Đồng.
Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng
Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép
chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ
của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung Quốc và nội dung của
nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.
Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì
từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của người Việt Nam,
chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít
thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài.
Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp
(nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt
Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung
Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng
quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính
là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở thời điểm đó (1954-1958),
căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đều thuộc
phạm vi quản lí của nước Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh
thổ là giữa Trung Quốc và chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chính quyền miền Bắc
là bên thứ ba ở ngoài không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc
không có quyền xử lí đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công
hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền
Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố
mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính
quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt.
Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc,
trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất
cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị
của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc,
hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên
trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện
nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, sau
khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn tắc
cơ bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc
gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi
ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa ? !
Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là
“bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị
hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay
“chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính
quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế,
bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên
bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính
quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính
quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo
Nam Sa.
5. Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
5. Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị
Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định
rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam
Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này được kí kết
dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt
Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không
muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính
quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng
tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không
đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố
mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu”
mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn
chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.
Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục
nữa.
6. Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên tắc của hiến pháp,
tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được
phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công hàm Phạm Văn Đồng không thông
qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật.
Phản luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu
nhất để chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lí do
không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc
như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich
pháp luật, sự thực lịch sử.
Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không
phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn
của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục
đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng
cho một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm
này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước
mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán thành” chủ quyền
lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay
từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của
Trung Quốc”, về cơ bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của
mình.
Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.
Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.
Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp
chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng
trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng
1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình
quản lí được, đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính
lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng
tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại
bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng
chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của “quốc hội soạn thảo
hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật,
thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa.
Do đó mới có “Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định
của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960.
Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kì của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến
năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường:
(quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các
hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là
Hiếp pháp năm 1959.
Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm
túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có hiến
pháp, cũng chưa có quốc hội. Chính phủ căn cứ vào qui định của “quốc hội soạn
thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa,
trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm
Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm
vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.
No comments:
Post a Comment