CHƯƠNG 13
Ngày tôi thi đại học, cô gửi nhà cho bà Đũa cả
tuần. Tuần lễ ấy, cô ở nhà nấu nướng, chăm sóc tôi. Mẹ tôi vẫn đi chợ ngày
ngày.
- Người buôn bán, tham buổi chợ, chẳng mấy khi
dám nghỉ.
Cô bảo mẹ tôi như thế. Tôi thi xong, cô về
quê. Nhưng tuần một lần, cô lại gửi thư lên thăm kết quả. Mặc dù, đã ba lần tôi
nói với cô, phải vài tháng sau mới có thông báo chính thức.
Sự quan tâm, lòng
thiết tha của cô khiến tôi lo ngay ngáy. May sao, tôi đã trúng tuyển. Vừa được
tin, ngay hôm sau cô đã có mặt . Lại bà Đũa gánh hoa quả, bánh trái, gà vịt
theo sau. Cô bảo:
- Cho cái Hằng mở tiệc khao bạn bè.
Nói xong, cô mở túi, rút cho tôi một cuộn giấy
bạc:
- Còn đây là tiền cho cháu đi chơi. Chơi cho
thoải mái đầu óc. Trước khi vào trường một tuần lễ cô nhắn người đón cháu về
quê. Lúc ấy, cô khao họ hàng, làng xóm.
Tôi giãy nảy lên:
- Thôi, cháu chịu thôi. Đỗ đại học đã nên công
trạng gì mà làm thế.
Cô nói:
- Cô bảo, phải nghe.
Tôi lắc đầu quầy quậy:
- Không, cháu chịu thôi, cháu chẳng làm thế.
Cô cau mày lại. Gương mặt cô như đen hơn bình
thường. Cô nghiên giọng nói:
- Ngày trước, bố mày mới đỗ đíplôm thôi. Cháu
là người đầu tiên đậu bằng tú tài trong dòng họ nhà ta. Có phải chuyện đùa đâu.
Hãy nghe cô.
Biết không thể cãi được, tôi đành im lặng. Hôm
ấy cô tôi về ngay. Bà Đũa, thu xếp đồ lề xong, quảy chiếc gánh không đi theo.
Tôi nhìn tấm lưng mỏng của cô dưới lớp áo nâu, cái dáng khô cứng bất thường của
người đàn bà không qua kỳ sinh nở, ứa nước mắt.
Sau khi cùng bàn bè đi chơi, tôi theo chị em
cô bạn đi du lịch. Họ là con của một gia đình cán bộ cao cấp ngành ngoại giao.
So với cán bộ cỡ cục vụ trưởng khác, tài chính phong phú hơn nhiều. Năm ấy, cô
bạn tôi cũng đỗ đại học. Cô chị đã đi làm, nhưng chưa chồng nên xin phép nghỉ
hè đi chơi với em. Ba chúng tôi đủ tiền tiêu xài. Chuyến đó, chúng tôi đã đi
khắp vùng biển miền Trung: Nha Trang, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Sau rồi vòng lại Sầm
sơn, ra Bãi Cháy. Vẫn chưa hết tiền cô Tân cho, khi đã vào học rồi, nghỉ Tết
Nguyên Đán xong, chúng tôi còn rủ nhau lên Tây Bắc. Và chuyến đi cuối cùng lại
là chuyến đi kỳ thú nhất trong dịp ấy.
Nhưng thôi, hãy trở lại với cô Tâm. Trước ngày
tôi vào học mươi hôm, một người đàn ông ngoại tứ tuần phóng Honda 67 vào tận
cửa nhà tôi:
- Đây có phải nhà cô Quế, con tên Hằng không?
Tôi đang ngồi thêu chiếc túi trong nhà. Nghe
tiếng hỏi trống không, tôi cắm đầu thêu, chẳng thèm ngẩng đầu lên.
- Tôi hỏi.
Người đàn ông dóng tiếng to hơn. Ông ta vẫn
ngồi trên xe, và chiếc xe Honda đen trùi trũi, vẫn nổ máy phun ra làn khói hôi
xì:
- Tôi hỏi, đây có phải nhà cháu Hằng không?
Bất đắc dĩ, tôi phải ló mặt ra:
- Phải. Ông cần gì?
Người đàn ông nhìn tôi qua cặp kính che nắng
màu xanh chai:
- Tôi là người bà Tâm phái lên đây. Xin cô
nương chuẩn bị quần áo, tôi đưa về nhà.
Nói xong, ông ta tắt máy, gạt chân chống xuống
để dựng xe vào một góc sân. Rồi không đợi mời, ông vào nhà, ngồi phì phèo hút
thuốc. Dáng điềm nhiên của ông, khiến tôi không còn cách nào khác là thu xếp
vài bộ quần áo vào chiếc túi du lịch nhỏ rồi theo ông ta ra đi. Tôi nói với
người đàn ông trước khi lên xe.
- Chú cho cháu qua chợ.
Ông ta đáp gọn ghẽ.
- Sẵn sàng.
Vứt mẩu thuốc cuối cùng xuống sàn, ông cho xe
nổ máy. Chiếc xe Honda 67, trong xấu xí như một con ong ruồi, nhưng đi khá êm.
Người đàn ông đưa tôi tới cửa chợ, rồi vào một quán giải khát gọi cà phê:
- Tôi ở đây. Cô nương cứ chuyện trò thoải mái
với bà cụ. Bà Tâm dặn tôi nói với cô rằng cô phải ở dưới quê ít nhất một tuần.
- Vâng. Chừng 15 phút cháu sẽ quay ra.
Tôi vào chợ, đưa chìa khóa cho mẹ. Lúc ấy, mẹ
tôi đang vắng khách. Dãy hàng đồ khô của mẹ cũng vắng khách. Hai bà ngồi xõa
tóc cho con gái nhổ tóc sâu. Bà thứ ba ngủ gật. Tôi nói với mẹ:
- Con đi nhé.
Mẹ tôi gật đầu:
- Ờ, con đi.
Nói xong, mẹ lại cúi xuống, nhặt những hạt lạc
lép trong thúng lạc. Từ ngày tôi được cô Tâm bảo trợ, và mẹ tôi tìm được những
người cần sự bảo trợ của mẹ, mối quan hệ giữa chúng tôi trở nên nhạt nhẽo. Tôi
không ngờ sự thể như vậy. Dù sao, mẹ cũng vẫn là mẹ của tôi. Tôi im lặng chờ
đợi một vài phút rồi hỏi:
- Mẹ không dặn dò gì hay sao?
Mẹ tôi ngẩng đầu lên, mắt thoáng qua ánh ngạc
nhiên và có phần mỉa mai:
- Có cô Tâm rồi mà.
Tôi tức nghẹn họng. Nhưng tôi vẫn nói bình
thản:
- Con không muốn xa mẹ. Nhưng dù sao, việc
cũng phải đi.
Mẹ tôi đáp:
- Con đi đi. Ở dưới ấy chắc người ta mở tiệc
nừng to lắm. Mẹ thì chẳng đủ tiền để lo.
Tôi nhìn mẹ:
- Mẹ đừng nói thế. Xưa nay, mẹ con ta vẫn sống
với nhau tùng tiệm, có cần tiền bạc gì đâu.
Mẹ không ngẩng lên nhìn tôi, đáp nhạt nhẽo:
- Ờ... mẹ biết thế. Nhưng xưa khác, nay khác.
Những hạt lạc lép lọt qua kẽ tay mẹ rơi xuống
chiếc rổ nhựa con. Mắt mẹ tôi chăm chăm nhìn xuống thúng lạc, vẻ như không còn
muốn tiếp tục chuyện trò nữa. Vẻ mặt mẹ điềm tĩnh, có phần lạnh lùng. Vẻ mặt
của người đàn bà tự chủ. Khác hẳn với mẹ trong những lần cùng tôi đến nhà cậu
Chính. Vậy là, tôi cầu xin tình yêu của mẹ, còn mẹ lại cầu xin sự đoái hoài của
những người họ Đỗ. Trò đuổi bắt quái gở và vô lý. Tôi nuốt cơn nghẹn ngào:
- Con đi đây. Mẹ nhớ giữ gìn sức khỏe.
- Ờ, con đi.
Người đàn ông ngồi trong quán cà phê đang tán
tỉnh một thiếu phụ đẫy đà, mặt tròn tóc xoăn tít. Trông chị ta mũm mĩm như con
búp bê. Thấy tôi vào, ông ta ngẩng lên:
- Ô, nhanh thế à? Tôi chưa uống hết cốc cà
phê.
Tôi nói:
- Xong rồi.
Ông ta bảo:
- Cô uống cái gì nhé?
Tôi đáp:
- Cám ơn. Cháu không khát.
Nhanh nhẹn, người đàn ông dốc tuốt ly cà phê
vào họng rồi đứng lên:
- Bao nhiêu đây bà chủ?
Ông ta móc từ túi quần sau ra một chiếc ví da
đen cũ bẩn, nhưng bù lại, nó có rất nhiều ngăn và rất nhiều tiền. Toàn những
xếp bạc lớn. Người thiếu phụ mũm mĩm liếc mắt nhìn:
- Ái chà, ông anh sộp ghê.
Người đàn ông nhoành mồm cười:
- Cũng kha khá, bà chị ạ. Hẹn lần sau lên
chơi. Giờ tôi phải làm nhiệm vụ.
Nói đoạn, ông ta quay lại tôi:
- Mời cô nương lên xe.
Tôi vừa thấy ông ta vui tính vừa khó chịu vì
vẻ nhăng nháo nhà quê đó. Chờ ông ta quay xe, nổ máy, tôi mới ngồi lên. Người
đàn ông sửa lại cặp kính màu xanh chai rồi đưa tay chào thiếu phụ. Chiếc xe lao
vụt về phía trước. Tôi ngồi sau tấm lưng lực lưỡng của ông ta, chịu đựng một
thứ mùi hôi nhờm gớm cùa mồ hôi dầu, mùi hôi nách thượng thặng, trộn lẫn mùi
nước hoa nội địa hăng xè. Cái thứ mùi hỗn hợp ấy không thể nào gọi tên được.
Suốt chặng đường dài, tôi không mở miệng vì phải chống đỡ cái mùi khó ngửi đó
một cách quyết liệt. Người đàn ông, thoạt đầu còn hăng hái trò chuyện. Sau thấy
tôi toàn đáp lại bằng những tiếng ưm, hừm... đành thôi. Chắc ông ta ghét tôi vì
ông ta thuộc loại người vui tính, thích chuyện trò.
Dầu sao tôi cũng đã cố gắng để không xảy ra
một cuộc va chạm nào đáng tiếc. Khi người đàn ông đưa tôi tới trước cổng nhà cô
Tâm, ông ta gọi tướng lên, giọng oang oang:
- Này, bà chủ ơi. Bà chủ ơi, ra mở cửa. Sứ giả
về rồi đây.
Không phải bà Đũa mà đích thân cô tôi ra mở
cửa. Có tiếng cô cười hỉ hả phía sau cánh cửa gỗ:
- Nhanh quá nhỉ. Tôi cứ nghĩ tối sẫm hai chú
cháu mới về.
Tiếng then lách cách, rồi hai cánh cửa mở
toang. Cô tôi ôm lấy tôi:
- Ối dào ơi.
Cô cất tiếng kêu vô nghĩa. Tôi bất giác bật
cười:
- Cô khỏe không cô?
- Khỏe lắm. Mong con suốt ngày.
Đoạn, quay sang người đàn ông đeo kính xanh,
cô bảo:
- Cạu vào chơi.
Ông ta lắc đầu:
- Thôi, xin kiếu bà chị. Em phải về nhà trình
diện không con hổ cái lồng lên. Thế là bà chị hài lòng nhé.
Cô tôi gật đầu:
- Vâng, cám ơn cậu.
Người đàn ông nhe răng cười, chìa tay cho tôi:
- Chào cô nương.
Bắt tay tôi xong, ông ta co chân đạp khởi động
máy một cách hùng dũng rồi phóng xe đi. Tôi ngạc nhiên nhìn theo, hỏi cô:
- Sao cô không mời chú ấy vào uống nước?
Cô tôi đáp:
- Thôi, vào nhà đi con.
Đóng cổng rồi cô mới nói tiếp:
- Cậu ta có vợ lẽ ở cách đây non 20 cây số. Cô
vợ cả ghen lồng ghen lộn, có bữa dội cả thùng dầu hỏa vào người dọa tự thiêu.
Để cho nó về.
Cô xách túi cho tôi. Rồi hai cô cháu vào nhà.
Đồng hồ treo tường thong thả điểm hai tiếng. Trên phản, có mâm cơm đậy lồng
bàn. Tôi hỏi:
- Cô vẫn đợi cơm con hay sao?
Cô tôi gật đầu:
- Ờ, không thấy đói. Sáng dậy cô ăn khoai sọ
luộc chấm vừng. Rồi uống hai ấm chè ướp ngâu, bụng dạ lưng lửng chẳng ra đói
chẳng ra no. Giờ con về thì cô thấy đói. Đi rửa mặt mũi rồi hai cô cháu ăn cơm.
Cô lại theo tôi ra tận giếng, cầm chiếc khăn
mặt bông mới. Thứ khăn nhập ngoại. Trên nền bông trắng, in một chùm hoa lyla
tím. Tôi thả chiếc khăn vào thau đồng, trong lớp nước tinh khiết của giếng
khơi, lòng êm dịu. Nước mát, rửa sạch bụi bám. Thật hạnh phúc khi biết ở cuối
chặng đường dài, có người chờ đợi ta, với tấm khăn trắng, và chậu nước tinh
khiết. Trời oi, thỉnh thoảng, tiếng chim vườn lại thả vào không trung. Bóng râm
đã bò tới hàng gạch thứ ba ở dưới hiên.
Cô Tân bảo:
- Nào, ta ăn cơm.
Cô thong thả mở lồng bàn. Tôi reo lên, trên
mâm có món canh tôi thích nhất. Hoa thiên lý nấu, không phải với giò sống mà là
cua đồng lẫn trứng cáy nghiền. Những tầng gạch vàng rộm nổi trên mặt nước, với
những đám hoa lý bị luộc hín, ngả sang trong suốt. Cô còn rán món chả xương sông
với vài bìa đậu sống chần nước sôi chấm tương. Tôi ăn ngon lành. Cô sung sướng,
chốc chốc lại chống đũa nhìn tôi. Tôi ăn gần xong bữa mà cô vẫn chưa qua bát
thứ 2. Cô ăn rất ít. Dường như cô thưởng thức tôi ăn hơn là thưởng thức các món
ăn. Xong bữa, chúng tôi tráng miệng bằng hai bát chè sen, cô tôi nấu lấy, với
sen trần hầm nhừ và bột sắm dây. Không có vani nhưng nhiều sen nên nước rất
thơm. Cô bỏ mâm xuống bếp, lau phản cho tôi nằm. Tôi hỏi cô:
- Bà Đũa đâu ạ?
Cô bảo:
- Bà ấy đi mời người làm tối nay.
Nói đoạn, cô đưa cho tôi chiếc gối nhỏ bọc vải
trắng thêu, còn cô gối gối mây:
- Nào, cô cháu ta tềnh tang.
Tôi nằm xuống tấm phản gụ bóng nhẵn, mát như
thạch, ngủ liền. Lúc thức giấc, chiều chạng vạng. Có tiếng kêu eng éc chói tai
của một con lợn bị chọc tiết. Hai cánh cửa chính đóng kín, khiến căn nhà tối
om. Ngoài sân, có ánh đèn. Tôi ngồi trên phản, nghe tiếng lợn kêu hộc lên, rồi
những tiếng kêu rời rạc tắt dần, người ta đã chọc tiết xong con vật xấu số.
- Thôi, tao đã bảo thôi, hứng sang chậu sành.
Tiếng một người đàn ông, nghe thô lỗ. Ngừng
một lát, lại vẫn tiếng ông ta:
- Đã nhớ chưa? Lần sau cứ thế mà làm. Tham một
tí là tiết canh chẳng ra gì.
Một thiếu niên đáp lời:
- Con nhớ rồi.
Hóa ra một ông đồ tể luyện nghề cho con trai.
- Múc nước sôi ra sân mau lên.
- Có ngay đâu. Liệu bao nhiêu thì pha xong?
- Hai mươi phút là cùng. Cánh bên ấy cứ lau
cối rửa chày di. Tay tôi pha thịt chỉ một nhoáng.
- Được rồi. Để tôi bảo đám đàn bà băm hành răm
đã. Xong việc, ta làm cỗ lòng rõ ngon.
- Rõ ngon. Lại như hôm giỗ cụ Toái ấy chứ?
Nguyên cả mùi phân.
- Ông này thù dai thật. Hôm ấy tôi say, tôi để
cho anh em thằng Cựu làm giúp. Mà nhà chúng nó ăn mắm mút ròi quen, ai lạ gì?
Tiếng nói qua lại vang dãy sân. Tôi khẽ hé
cánh cửa, nhìn ra. Chính giữa sân, trên chiếc đòn sứ men xanh, cây đèn măng
sông cháy rừng rực. Ánh sáng chói chang của nó rọi tới tân hàng cau, vướt qua
bức tường hoa, soi từng vòm lá cam um tùm. Trên sân, phía bên trái, gần cửa
bếp, một người đàn ông đang đưa dao cạo lông lợn xoèn xoẹt. Một thiếu niên trạc
17, 18 để ria mép con kiến, rất đẹp trai đang cầm gáo dội nước sôi. Nước dội
tới đâu, lưỡi dao của người đàn ông đưa tới đó, và lượt lông lợn đen tuột đi,
phơi làn da trắng. Gần nơi bố con người đồ tể làm lông lợn, đã kê sẵn một tấm
ván gỗ nhẵn nhụi, chờ pha thịt. Hai người đàn bà đang ngồi băm một mớ hành và
rau thơm, chắc để làm món dồi. Sau lưng họ, bà Đũa ngồi xát mẻ lạc rang. Bên
phải sân, hai người đàn ông khác đang lau chày cối. Thứ chày cối vĩ đại, lần
đầu tôi nhìn thấy. Chày cao quá đầu tôi và chiếc cối đá cũng ước chừng non tám
tấc. Rõ ràng, họ đã phải mượn các đồ dùng này ờ nhà những gia đình chuyên làm
giò chả hoặc những đại gia đình thường xuyên phải lo những bữa cúng giỗ hàng
trăm khách. Quang cảnh thật tấp nập, nhưng rất trật tự. Và dường như đám người
đang hoạt động náo nhiệt kia chịu sự chi phối chung của một người chỉ huy tối
cao, đầy uy lực. Mãi rồi tôi mới nhìn thấy người ấy. Bà cô tôi ngồi ngay sát
cửa, trên một bậc tam cấp, khuất lấp trong bóng tối chậu cây đinh lăng. Cô ngồi
vót tăm. Đầu cúi xuống, tay đưa con dao bổ cau đều đặn, cô không ngẩng đầu lên,
không để mắt tới bất cứ công việc gì. Nhưng rõ ràng, cái guồng máy đang cử động
kia chịu sự điều hành nhẹ nhàng, và đầy uy thế của cô.
- Uỵch...
Ông đồ tể ném con lợn đã mổ xuống tấm phản gỗ.
Xong, đứng ngay ngắn phía cuối tấm ván, ông gọi:
- Dao, mày.
Chàng thiếu niên đẹp trai ngoan ngoãn mang tới
các loại dao cần thiết cho ông bố. Người đàn ông lấy mu bàn tay đẩy hai ống tay
áo lên, cuộc pha thịt bắt đầu. Trước hết, ông ta cắm cây xiên vào chính giữa
cái bụng mổ banh của con vật. Rồi, giơ con dao pha lưỡi vuông lên: “Phập.” Nhát
dao thật ngọt, chính xác, chẻ giữa sống lưng con lợn. Nhát thứ 2, thứ 3...
Không nhát nào chệch, trong nháy mắt con lợn bị phanh làm hai mảnh, đều đặn hơn
tất cả mọi cán cân công lý. Rồi ông ta ngẩng lên:
- Nong. Rải tao mảnh nilông.
Tức khắc, hai người đàn ông có nhiệm vụ giã
giò chả lăn tới chiếc nong, ngả cạnh tấm phản pha thịt. Chàng thiếu niên đẹp
trai có hàng ria con kiến rút tấm nilông trong chiếc bị cói đem theo, rũ đánh
“roạt” rồi rải lên. Ông đồ thể ném một nửa con lợn vào nong, xoay ngang nửa còn
lại, bắt đầu dùng tới con dao khác. Một trong hai người đàn ông đứng bên cạnh
trầm trồ:
- Nhanh thật. Thịt còn bốc khói.
Người đàn ông đáp gọn lỏn:
- Thịt nóng hôi hổi mới giã được giò ngon.
Thịt nguội mà giã giò, chỉ có đem cho cửa hàng mậu dịch.
Nói xong câu đó, ông ta đã lọc được một tảng
thịt to tướng.
- Vào cối đi.
Lại buông ta một mệnh lệnh, dõng dạc không kém
mệnh lệnh của các nguyên soái. Hai người đàn ông đón tảng thịt cũng nhanh nhẹn
như những thủ môn siêu việt của sân bóng đá thế giới, bắt bóng, chạy sang sân
bên kia.
- Nhớ nước mắm tiêu chưa?
Ông đồ tể vừa tiếp tục pha thịt, vừa ném sang
lời nhắc nhở rất nghiêmngặt, một trong hai người giã giò đáp:
- Đủ hết rồi.
Sau đó là tiếng chày thì thụp.
Trước cửa bếp, đám đàn bà đã băm xong hành và
rau thơm, bắt đầu trộn tiết để nhồi. Họ đụng chậu, đụng nồi, vui vẻ lắm. Và
những câu chuyện rì rầm của họ, về đồng áng, về ông chủ tịch xã với bà trưởng
cửa hàng, về cô con dâu nọ đánh nhau với mẹ chồng bị đuổi khỏi nhà, cắp nón với
hai bộ quần áo ra đi... giống như tiếng nước chảy qua miệng cống.
Trời tối hẳn. Xung quanh, mọi nhà đã ăn xong
bữa cơm chiều, im hơi lặng tiếng, Chỉ thỉnh thoảng có con chó ăng ẳng sủa người
đi đường. Tối hôm đó, lần đầu tiên tôi cảm nhận được bầu không khí u tịch nơi
thôn dã. Nó thật vô định, nhưng bền vững khủng khiếp. Như làn nước thâm u của
quá vãng, nó trôi chảy, lãnh đạm ù lì, trơn tuột qua những kẽ tay nắm bắt của
con người. Giống như nước, nó mềm mại, uốn lượn, nhưng sẽ làm chết ngạt một
cách dễ dàng những kẻ không biết bơi. Và ánh mặt trời chói chang nhất, cũng chỉ
hâm nóng được làn nước mỏng bên trên, và cơn dông tố mãnh liệt nhất cũng chỉ
cày xới lớp sóng bên trên. Cô tôi vẫn ngồi vót tăm trong bóng cây đinh lăng,
không nhúc nhích rời chỗ. Mái đầu nhỏ nhắn, đôi vai nhọn nhô lên. Tôi nhìn cô,
chợt hiểu: người đàn bà đó, người ruột thịt của tôi cũng như bầu không khí u
tịch kia đã hòa nhập thành một toàn thể. Cái toàn thể ấy ngự trị trong tôi, nơi
cỗi rễ, nơi máu huyết, vừa gần gũi nhưng vừa cách xa, vừa đem lại nỗi êm dịu
vừa trói buộc tôi trong nghiệt ngã và đau đớn. Tuy nhiên, đó hoàn toàn là những
tiên cảm rất mơ hồ.
Dường như linh cảm được, cô vội quay lại:
- Hằng dậy rồi phải không?
Vẫn đứng sau cánh cửa, tôi đáp:
- Vâng ạ.
Cô bảo:
- Ra đây chơi, chờ lòng và cháo chín.
Tôi đáp:
- Con không đói.
- Ờ, chắc con cũng chẳng thích gì món cháo
lòng. Thế thì lại ngủ nữa đi. Mai cô gọi dậy sớm.
Sớm hôm sau 4 giờ rưỡi, tôi tỉnh giấc. Như thế
cũng đã ngủ bù cho cả tuần lễ trước mải xem phim và đánh tú lơ khơ với lũ bạn
cùng phố. Chiếc gối may của cô tôi vẫn đặt sát tường, không suy suyển. Suốt
đêm, cô không ngủ. Tôi bước ra sân. Trời vừa sáng. Cây đèn măngsông vẫn còn đặt
trên chiếc đôn sứ men xanh. Nhưng đám người làm đêm qua không còn ai. Chiếc
chày gỗ đã rửa sạch sẽ chống bên tường hoa. Chiếc cối đá lăn ngiêng cạnh đó.
Tấm phản gỗ vừa cọ rửa, còn ướt nước kê sát tường bếp. Tấm nong cũng đã lăn đi.
Sát giếng, ba chiếc rổ xề lớn đựng các loại thịt đã pha. Hai thúng cỡ đại đựng
giò vừa vớt. Một làn hơi mỏng bay lên: chắc chắn giò hãy còn nóng. Bên kia bức
tường hoa, gần gốc cau đầu tiên, còn bếp tro kê bằng viên đá lớn. Than chưa tàn
hết, chốc lát lóe lửa. Cô tôi đang cọ rửa vết tiết đọng trên sân. Thấy tôi, cô
ngẩng lên:
- Sao con dậy sớm thế?
Cô hoàn toàn tỉnh táo, nhanh nhẹn, không có vẻ
gì biểu hiện là đã thức đêm qua. Tôi hỏi:
- Sao cô không ngủ đi một lát?
Cô cười, răng không còn trắng bóng nhưng vẫn
đều tăm tắp:
- Ăn thua gì! Ngày mùa, cô có thể thức liền
năm bảy đêm. Con rửa mặt rồi vào nhà ăn sáng.
Thấy tôi còn chần chừ đi vòng quanh sân, cô
bảo:
- Mau lên con, lát nữa thợ nấu cỗ đến đây,
chẳng còn rảnh rang đâu.
Nghe lời cô, tôi đi đánh răng. Lúc vào bếp lấy
muối, tôi thấy bà Đũa ngủ lăn trên chiếc chõng tre kê sát tường, không còn đủ
kiên nhẫn để đi đến chiếc giường riêng của bà, vẫn kê ở nhà phụ. Thấy tôi nhìn
bà ta, cô Tâm cười:
- Thế đấy, người ta đến chết cũng không đổi
thay được tính nết. Hễ khát, là nước ruộng cũng vục nón xuống múc uống. Hễ đói,
cơm thiu cũng và lấy và để, hết cả bát mới ngửng mặt lên. Đụng cơn buồn ngủ là
gốc cây, vệ đường cũng lăn đùng ra ngủ. Hồi cô còn nhỏ, bà ấy đã có cả một đứa
con trai. Ông chồng người Thổ Cao Bằng, lưu lạc về xuôi. Ông ta làm thợ mộc,
đóng tủ thuê cho vợ chồng cụ Nhiễu. Thấy cô con gái xinh xắn, béo tốt đem lòng
yêu. Vợ chồng cụ Nhiễu gả tắp. Còn đứng lên lo cưới. Ông chồng ở rể luôn. Bà ấy
tốt nái, ngay năm đầu đã đẻ được đứa con trai. Núc ních như hòn bột. Ông chồng
Thổ yêu lắm đi làm thì chớ, về tới nhà lại bế ẵm nựng nịu con. Thế mà rồi vài
năm sau, ông ta cũng không chịu được. Trần đời mới có một người đàn bà đoảng
như thế. Đụng tới bát mắm, bát mắm đổ, Đụng vào vại dưa, vại dưa khú. Người ta
trồng lau ra mía. Bà ta trồng củ tía ra củ nâu. Năm đứa con 7 tuổi, ông chồng
dắt đi mất tích. Bố mẹ già chết, không dựa được vào ai, bà ta bán sạch nhà đi
mà ăn. Đang từ chỗ có cơ nghiệp thành trắng tay đi ở đợ.
- Bà ấy họ hàng thế nào với nhà ta ạ?
- Ông bà Nhiễu gọi bà nội con là chị họ. Chị
em con dì, con già cách ba đời. Hồi cải cách, cũng được bầu vào nông hội đấy.
Sau làng nước thấy không được việc gì nên lại cho ra. Mấy năm làm hợp tác,
không đủ bảo đảm ngày công, sông lơ lắt, manh quần tấm áo cũng đi xin. Có mảnh
vườn đất phần trăm trồng toàn rau môn thục. Cuối năm kìa, thấy bà ta túng
thiếu, dẹo dọ quá, cô nghĩ gần nghĩ xa, dù giọt máu pha trăm bát nước cũng còn
hơn nước ao nước hồ, cô gọi về đây.
Bà Đũa vẫn ngủ say như chết, thỉnh thoảng lại
ngáy khò khè. Tiếng ngáy của bà hệt như tiếng ngáy của đàn ông. Cô tôi bảo:
- Thôi, ra đánh răng, kệ cho bà ấy ngủ. Hễ ngủ
không đẫy giấc đang ngồi đun bếp bà ấy cũng ngã dụi vào đống than.
Ngoài sân, trời sáng trắng. Hương cau thoang
thoảng, mát lạnh. Như mùi thơm có hơi ẩm của sương đêm. Chích choè hót lảnh lót
ngoài bụi tre đầu ngõ. Cô tôi đã chuẩn bị cho tôi ăn sáng: Xôi trắng với chả
ống. Chả ống gần giống như thứ chả nạc, nhưng người ta pha nhiều tiêu, quế và
quấn quanh các ống vầu lớn mà nướng trên than. Gắp miếng chả lên rất nhẹ, thơm.
Miếng chả uống cong rồi lại bật ra, dai như cao su vì thịt rất tươi, quết kỹ
trong cói, lại pha thêm chút ít hàn the. Ở Hà Nội, cả những thanh chả quế nổi
tiếng cũng không tìm được thứ chả ngon thế. Như mọi bận, cô tôi ăn rấy ít, rồi
chống đũa ngắm tôi ăn.
Chúng tôi vừa ăn cơm xong, chưa kịp uống nước
đã nghe tiếng gọi ơi ới ngoài cổng:
- Bà Tâm ơi... Ới bà Tâm.
Cô bảo:
- Họ đến đấy. Cháu dọn bát đũa lại cho cô.
Rồi cô ra mở cổng. Ba người đàm bà cũng trạc
ngoại tứ tuần bước vào. Họ ăn mặc gần như cô tôi: Quần lụa đen, áo cánh. Tóc
búi hoặc kẹp thả sau lưng. Lớp phụ nữ nông thôn sau này không vấn khăn nữa. Các
bà đon đả hỏi:
- Chúng tôi có đến sớm quá không bà?
Cô Tâm cười:
- Không đâu. Vừa rạng đông. Mời các chị lên
nhà.
Cả ba người đàn bà cùng bước qua bậc tam cấp,
vào gian bên trái. Tôi đã kịp dọn xong bát đũa. Các bà xếp thúng mủng vào chân
tường. Mỗi bà đem theo một thúng nhỏ, kiểu thúng đựng đồ lễ. Rồi họ ngồi lên
sập. Cô tôi tự tay bưng lên một mâm đầy xôi, chả. Một chồng bát sứ trắng với
đũa mun. Một đĩa chuối tiêu chín:
- Xin mời các chị ăn sáng rồi giúp cho.
Các bà xoa tay:
- Úi dào, bà chủ cho ăn sáng sang quá. Nào,
các chị. Thiên hạ thì tiền chủ hậu khách. Còn bà Tâm thì tiền khách hậu chủ,
các chị lên đũa lên bát cho vui.
Họ mời mọc nhau xong, quay lại hỏi cô tôi:
- Cỗ trưa hay cỗ chiều đây bà chủ?
Cô tôi đáp:
- Cả trưa, cả chiều, phải ăn hai đợt mới hết
khách.
- Mấy đĩa, mấy bát?
- Năm đĩa, năm bát.
- Làm gì mà gớm thế?
- Các chị dấn lên cho. Lần đâu tiên dòng họ
Trần nhà tôi có con cháu Hằng đỗ tú tài.
- Bà cô như bà, nước Nam này có một thôi đấy.
Nào kể đi.
- Vâng, xin phép các chị. Mỗi mâm xin cho 5
đĩa: một giò lụa, một giò pha, một chả ống, một chạo nem, một thịt luộc. Còn
năm bát là: một bát măng, một bát càri. Thịt, giò, xương đã đủ. Riêng bát hầm
và bát càri, tôi đã nhốt sẵn lồng gà. Thức ăn tráng niệng bữa trưa thì xin cho
nồi chè đỗ xanh. Còn buổi chiều, các chị lo cho vài đõ xôi gấc.
Một bà bảo:
- To gấp ba lần cỗ cưới nhà người ta đấy. Thảo
nào, mới bảnh mắt đã nghe con vợ thằng cha Đường hỏi chồng: Tôi nay anh đi ăn
cỗ nhà bà Tâm phải không?
Nghe tới đó, người đàn bà thấp bé, có vết bớt
trên má quay sang, giật giọng hỏi cô Tâm:
- Chị mời lão Đường đấy à?
Cô tôi đáp:
-Vâng, cả đám chức sắc trong làng, tôi mời
hết. Chị sợ tốn kém hay sao?
Người đàn bà có vết bớt trên má đáp:
- Không. Nhưng lão Đường đang định cướp mảnh
vườn xóm Trại của chị cả tôi. Bà ấy thân cô thế cô, chồng chết bệnh, con liệt sĩ
chống Mỹ, giờ còn vườn hồng nuôi thân, lão định cuỗm nốt.
Bà bên cạnh nói:
- Thằng cha ấy vừa gả chồng cho đứa con gái
lớn. Nó muốn cướp mảnh vườn xóm Trại để làm nhà cho con ở riêng.
Người đàn bà có vết bớt trên má nói tiếp:
- Chị tôi đang đâm đơn kiện trên huyện. Chẳng
hiểu có ăn thua gì hay lại kiện củ khoai. Nhưng tôi không thể bưng mâm rót nước
cho cái thằng cướp ngày ấy.
Nói xong bà ta cúi đầu xuống. Cô Tâm tôi thong
thả đáp:
- Tôi biết rõ mọi chuyện. Chị cứ yên tâm. Không
phải áy náy gì.
Nói đoạn, cô tôi bước ra ngoài hiên, cất tiếng
gọi:
- Bà Đũa ơ... đã dậy được chưa?
Người đàn bà có vết bớt trên má ngẩng lên,
gương mặt đã trở lại bình thản. Họ tiếp tục ăn sáng. Tôi nhìn theo cô Tâm,
không hiểu trong đôi vai lép kẹp kia ẩn chứa sức mạnh nào mà khiến cho những
người khác tin cậy và tuân thủ một cách lạ lùng như thế?
CHƯƠNG 14
Từ lúc ấy, tôi ngong ngóng chờ buổi tối. Chờ
sự xuất hiện của cái nhân vật có tên là: thằng cha Đường phó chủ tịch. Buổi
trưa, họ mạc tới kìn kìn. Hết mâm này tới mâm khác. Tôi đóng vai trò của một
con rối, mặc dù là con rối danh giá. Bất cứ ông chú, bà bác, rồi các thím, các
cô, các dì, các già, các chị, các anh... xa gần nào được cô Tâm giới thiệu tôi
đều phải tươi tỉnh chào. Trên môi, luôn thường trực một nụ cười giao đãi. Thế
mới biết, nghề chiêu đãi viên cực nhọc. Cười cho đủ số lượng cần thiết trong
một giờ cũng khổ không kém phải rặn ra những tiếng khóc hờ cho một đám ma có
nhiệm vụ khóc. Tôi không ăn được miếng gì, mệt phờ. Ba giờ chiều, tôi húp nửa bát
chè đỗ xanh rồi trốn sang nhà hàng xóm ngủ nhờ. Sẩm tối, cô Tâm cho bà Đũa sang
gọi.
Tôi về nhà. Cây đèn măngsông đã được thắp
sáng. Lần này, nó không đặt trên chiếc đôn sứ men xanh mà treo trên xà dọc. Ánh
sáng trắng lóa khắp mấy gian nhà, khắp sân, vướt qua tường hoa tới dãu cau. Cả
trong nhà lẫn ngoài sân đều la kiệt các bàn cỗ. May thay họ đã ăn gần xong. Tôi
theo cô Tâm ra mắt khi các mâm chè đã được bưng lên, thay thế cho cỗ mặn. Và
các đĩa xôi gấc đỏ rói đang dược chiếu cố rất mặn mồng:
- Xôi gấc thế này là hết ý đấy.
- Vâng, chẳng đám nhà ai nấu được thứ xôi gấc
như hôm nay.
- Khó gì đâu, cứ nhiều đỗ xanh, nhiều đường,
nhiều mỡ là khắc ngon.
- Đừng nói láo. Có một tạ đỗ với đường vào tay
nhà bà cũng thành cháo khê. Có nhớ hồi đi công trường bà cho chúng tôi ăn xôi
bánh đúc hay không? Dạo ấy bà còn đang xuân mà tôi cũng là trai tơ hơ hớ.
- Rõ đồ khỉ gió nhà ông.
- Ông ấy nói đúng đấy, xôi ngon tốn công lắm.
Gạo nếp vo xong để cho ráo nước. Không khô phải lấy khăn mặt bông mà xoa. Gạo
trăm hạt rời cả trăm mới trộn gấc. Mà gấc cũng phải chọn thứ gấc nếp, gai thưa,
ruột dầy, màu thắm như son. Nạo ruột xong, bóp lẫn ruợu ngon mùi thơm mới dậy.
Hết phần gạo, lo tới phần đỗ. Đỗ xanh đãi sạch vỏ, vẩy kiệt nước mới trộn muối.
Rồi chõ đồ chỉ dùng được loại rộng miệng, kín vung. Nồi nước đáy không được
đầy, hơi phì lên, ướt gạo là xôi nhạt. Ố dào trăm thứ công mới ra được miếng ăn
ngon.
Cô tôi dẫn tôi len lách qua các dãy người.
Người nào người nấy mặt đỏ gay, cười nói tưng từng vui vẻ. Từ sân vào nhà, tôi
phải trả lời không biết bao nhiêu lần những câu hỏi giống nhau. Đại loại như:
- Cháu mười mất tuổi rồi? Mười tám cơ à?
- Học đại học gì? À... đại học tổng hợp văn?
Thế học ra rồi làm nghề gì? Có được ngang chức trưởng phòng huyện hay không?
Tới trước đám người ngồi trên chiếc sập gụ, cô
tôi nói:
- Cháu Hằng nhà tôi đây.
Cả đám người ồ ề nói gì tôi không nghe rõ. Tôi
cúi chào lia lịa, miệng mấp máy cho phải phép. Rồi cô tôi rẽ rọt giới thiệu:
- Đây là ông Đường, phó chủ tịch xã. Cháu chào
ông đi.
Tôi cúi đầu:
- Chào ông ạ.
Hình như ông chỉ hơn cô tôi có vài ba tuổi.
Ông ta gật gù:
- Ờ ờ...
Cái miệng hơi méo nhếch sang một bên. Tôi chỉ
chờ có vậy, liền ngầng mặt lên, bắt chuyện:
- Ông làm ở xã lâu chưa ạ?
- Cũng khá... ờ ờ...
Tới đó, tôi không tìm được câu nào để hỏi
thêm. Tuy nhiên, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, tôi cũng đã kịp quan
sát. Đó là một người đàn ông thấp, to ngang. Mặt không ra tròn cũng không ra
vuông.đỏ như mắc chứng xung huyết. Cặp mắt lẩn dưới hai mí dày mỡ. Mũi ông ta
ngắn, có vết sẹo chém ngang cánh mũi phải. Một cái miệng dẩu ra như thổi lửa,
môi đỏ một cách bất thường, trông không đẹp mà rờn rợn. Ông ta nhìn cô Tâm,
tươi cười:
- Bây giờ mới thấy bà chủ. Bà chủ ngồi xuống
ăn với anh em chúng tôi một hòn xôi, uống với anh em chúng tôi một hớp ruợu
chứ. Thời đại chúng ta là thờii đại duy vật mà.
Nói xong, ông ta tự thưởng công bằng cách rinh
rích cười. Cô tôi đáp:
- Cảm ơn ông . Tôi ăn mỗi mâm mỗi miếng cũng
no. Mời các ông tự nhiên cho.
Ông phó chủ tịch ngả người, nắm cánh tay cô
Tâm:
- Không ăn bà chủ cũng cứ ngồi đây. Lát nữa
tôi có việc phải nhờ cậy bà chủ đấy nhé.
Cô Tâm đáp nhẹ nhàng:
- Vâng. Ông phó chủ tịch sai gì mà chúng tôi
chẳng phải làm?
Người đàn ông dãy lên đây đẩy:
- Ấy chết, bà nói thế có kẻ nghe thấy là khổ
tôi. Họ không biết chuyện đùa mà tưởng là chuyện thật.
Cô Tâm vẫn cười:
- Gớm, sao ông phó chủ tịch lo xa như vậy?
Ông ta lắc đầu:
- Không lo xa sao được hả bà? Thời này, người
ta hại nhau như bỡn.
Cô Tâm vẫn cười cười:
- Thế à? Tôi chẳng mấy khi tới nới hội họp,
tôi không biết. Ai dám hại ông phó chủ tịch thế?
Ông ta cũng cười, gượng gạo:
- Có, có chứ. Nhưng bà biết mà làm gì, cho nó
nặng đầu óc ra.
Rồi nheo mắt, ông ta nhìn cô Tâm có vẻ thân
mến:
- Cứ như bà bây giờ là sướng nhất làng. Cửa
cao nhà rộng, thóc đầy bịch, tiền đầy túi. Tháng ngày thanh thản, lời nặng
tiếng nhẹ chẳng đến tai.
Cô Tâm vẫn cười:
- Ra tôi sướng thế ư? Thế mà tôi chẳng biết.
Kìa, các ông uống rượu nữa đi chứ! Hãy còn quá nửa chai.
Ba bốn người cùng giơ tay:
- Thôi thôi, cơm no ruợu say rồi bà chủ ạ.
Cô Tâm gọi:
- Dưới nhà có ai rảnh giúp tôi cái mâm.
Có tiếng:
- Dạ.
Rồi một người đàn bà to béo nhưng nhanh nhẹn
lên, dọn mâm bát đi. Chắc bà ta mới tới buồi chiều, vì tôi không biết mặt. Cô
tôi thong thả mang phích nước, ấm chén lại:
- Chè tôi ướp ngâu lấy, các ông uống thử xem.
Phó chủ tịch cười bả lả:
- Bà làm cái gì mà mà chả nhất làng này!
Cô Tâm lại cười:
- Chết nỗi, ông phó chủ tịch cho tôi đi tàu
bay giấy.
Rồi cô chăm chú rót nước. Lúc ấy, tôi mới để
mắt tới cái góc chéo, đối diện với gian nhà tôi đang ngồi. Góc ấy, khuất lấp
sau cánh cửa, có một người ngồi bó gối. Ấy là người đàn bà có vết bớp trên má.
Bà ta, xong nhiệm vụ đầu bếp, đã tới đó, ngồi lặng lẽ trong bóng tối, giương
đôi mắt âm thầm lên. Cô tôi vẫn tươi cười chuyên trà mời khách. Phó chủ tịch
Đường gật gù:
- Ngon quá là ngon. Bà dạy tôi ướp chè nhà.
Tôi bảo nhà tôi trồng lấy vài bụi ngâu.
- Chết nỗi, ông quá lời. Sao mà tôi dám dạy
ông?
Ông ta hăng hái:
- Không khách khí gì đâu. Tôi nói thật, thật
trăm phần trăm bà Tâm ạ.
- Cái thời này con người đểu cáng lắm, tử tế
thì ít mà ba que xỏ lá thì nhiều.
Cô Tâm cười:
- Chết nỗi ông lại quá lời. Tôi thấy người
làng ta nhũn như chi chi ấy chứ? Chả thế ông sai quân bắt trói nhà Sâm không
giấy má gì mà nó vẫn chịu.
Phó chủ tịch gật đầu:
- Đúng. Nó chống lại nghị quyết của chi bộ,
tôi không gông cổ nó vào nhà ngục là may.
Cô Tâm vẫn cười cười:
- Theo luật pháp, bắt người phải có lệnh. Nhà
Sâm không trộm cắp, không buôn thuốc phiện lậu, không chứa chấp kẻ gian. Nó chỉ
mắc tội chửi bí thư chi bộ xã và chửi ông. Không có giấy lệnh nó cũng chìa cho
các ông trói, thế nghĩa là dân làng này đệ nhất hiền lành, ông chẳng nên trách
họ ba que xỏ lá.
Ông ta cau mày, nói gay gắt:
- Bà bảo những trường hợp cứng đầu cứng cổ như
thế, tôi không xử trí nhanh thì còn gì là kỷ cương nữa? Hôm nay nó chửi bí thư
chi bộ huyện, rồi ngày kia là... là...
Tới đó, ông ta ngừng lại, giơ bàn tay chém một
nhát vào không khí rồi dằn giọng:
- Chính quyền phải chuyên chính. Không chuyên
chính là không được. Từ xưa tới nay, nhà nước nào cũng phải có phép tắc, kỷ
cương.
Cô Tâm vẫn cười:
- Rước các ông xơi chè. Thuốc đây ạ. Tôi nhờ
người quen mua được thứ Du Lịch còn mới.
Đoạn, quay lại phó chủ tịch Đường, cô nhẹ
nhàng nói tiếp:
- Tôi không được học chính trị, tôi không hiểu
phép tắc, kỷ cương của nhà nước ra sao. Nhưng hồi nhỏ, thầy tôi còn sống, thầy
tôi có kể cho tôi nghe chuyện này. Nếu các ông cho phép, tôi xin kể hầu các
ông.
Mấy người đàn ông nhao nhao đáp:
- Kể đi, bà kể đi.
- Khoan đã, cho tôi vô phép rít điếu thuốc
lào. Lâu lắm mới có dịp rảnh rỗi thế này.
Một ông khách nạp thuốc, châm lửa, rít ro ro.
Rồi ngửa mặt lên, nhả khói. Trong khoảng thời gian ấy, cô Tâm đợi chờ, vẻ mặt
bình thản. Mấy đám người chơi tú lơ khơ và tổ tôm ngoài sân đã bỏ cuộc vào
hiên, hóng chuyện. Trong góc tối bên kia, không chì là người đàn bà nhỏ thó có
vết bớt trên mặt mà cả một đám đàn bà con gái túm tụm ngồi.
Sau khi đã nhả khói một cách mãn nguyện, ông
khách già ngồi bên cô Tâm nói:
- Nào, bà kể đi.
Cô Tâm đặt chén trà xuống, cất tiếng:
- Thầy tôi kể rằng: Dưới triều vua Tự Đức có
một ông quan Thượng Thư liêm chính lắm. Ông quê ở Thái Bình, dân thường gọi là
cụ Thượng Chính. Vua Tự Đức đã phải có câu đối đề tặng:
Nam phi Bình bất chính.
Bắc phi Chính bất bình.
Hồi tham triều, cụ Thượng đứng ra làm một công
trình thủy lợi lớn. Công trình này đem nước tưới cho đồng ruộng khắp vùng. Con
kênh đào đi qua ba huyện. Trong ba huyện đó, có huyện quê cụ. Các ông biết rồi,
đất đào thủy lợi xưa chạy vào ruộng nhà nào, nhà ấy phải chịu. Không nghiêm,
những địa chủ giàu sẽ dẫn hối vàng bạc để con kênh đi xéo qua ruộng nhà khác.
Những nhà nghèo, thấp cổ bé họng chẳng biết cầu cứu vào đâu. Cụ Thượng Đính suy
ngẫm tìm ra cách thức công bằng nhất khi thực hành việc đào kênh. Đêm tối, cụ
cho lính đốt đuốc, rọi theo ánh lửa mà kẻ đường thẳng trên mặt ruộng. Hai hàng
lính cầm đuốc đứng hai bên. Người chỉ huy điều chỉnh các cột lửa sao cho chúng
thành hai đường song song từ đầu tới cuối. Cứ theo vệt lửa làm mốc mà đào. Tàn
lửa đuốc này thắp lửa khác. Không chủ ruộng nào dám kêu ca. Con kênh thẳng thư
kẻ mực Tàu, cứ thế dài ra mãi.Tới phần huyện quê nhà, quan chức sở tại bảo rằng
theo đường kẻ của dòng kênh, đám đất sắp bị đào chính là mảnh ruộng có phần mộ
tổ tiên cụ. Họ xin cụ Thượng hủy lệ, cho con kênh vòng sang hướng khác. Cụ
Thượng Chính bảo:
- Ta biết xót phần mộ tổ tiên ta, vậy những kẻ
khác không biết xót hài cốt cha ông họ hay sao? Lệ đã định, cứ thế mà làm.
Đám quan chức dưới quyền chỉ biết cúi đầu tuân
thủ. Khi đào tới phần mộ của cụ tổ ba đời cụ Thượng, nước phun ra đỏ như máu.
Những toán lính đang đào, hoảng sợ nhảy lên, chạy về dinh phi báo. Lại một lần
nữa, cụ Thượng ra lệnh:
- Không được làm rối kỷ cương đất nước.
Quan quân rập đầu lạy tạ, tiếp tục đào kênh.
Con kênh ấy hoàn thành, chảy suốt qua ba huyện. Khắp vùng no ấm. Người ta đã
đặt cả đồng dao, cả tích chèo về nó. Hồi ông tôi và thầy tôi còn sống, chẳng
mấy người là không biết chuyện này.
Cô tôi ngừng lại một vài giây, rồi cười:
- Đấy, các ông tính xem, những ông thượng thư
thời nay, đếm được bao nhiêu người như cụ Thượng Chính?
Đám người ngồi trong nhà ồn lên, Họ xuýt xoa,
bình phẩm. Người lên tiếng trước tiên, là ông phó chủ tịch:
- Ghê thật, các cụ nhà ta ghê thật.
Nhưng tiếng ông ta chìm đi giữa những tiếng
xôn xao:
- Quan như thế mới là quan chứ!
- Chuyện nghe như Đông Chu Liệt Quốc ấy. Dân
ta thiếu gì người quân tử đâu?
- Bà Tâm nhớ dai thật. Tôi cũng đã nghe chuyện
này mấy lần mà quên biến đi mất. Hồi ông cụ nhà tôi với cụ bên ấy đánh cờ, tôi
chuyên đứng chầu rìa, xem chơi. Năm ấy, hình như tôi chín, mười tuổi. Bà Tâmn
tuổi gì nhỉ? À, tuổi Hợi, vậy thì tôi hơn bà hai tuổi.
Cô Tâm rót nước uống, rồi nói tiếp:
- Thầy u đẻ ra tôi, chẳng được tích sự gì,
ngoài cái nét nhớ dai. Dạo ấy, thầy tôi còn kể nhiều chuyện nữa. Trong đó, tôi
nhớ nhất chuyện quan huyện Trần Bình.
- Hay quá, hay quá, kể đi dì Tâm.
- Hôm nay thế mà thú vị. Vừa được chén, vừa
được nghe chuyện.
- Trời phật ban lộc cho ta.
Ông khách già ngồi bên cô tôi lại cười khà
khà:
- Ấy, gượm đã, cho tôi làm mồi thuốc.
Bọn đàn bà ngồi trong góc tối nhao nhao phản
đối:
- Thôi thôi, bác Tâm kể đi. Kệ ông ấy.
- Rõ cái nhà ông này, về nhà mà bắt bà ấy chờ.
Lại có giọng đàn ông hòa giải:
- Thôi mà, sao các bà nóng tính thế! Chờ ông
ấy một tẹo đã sao?
Nói thế thôi, nhưng người ta vẫn an lòng chờ
cho ông khách nghiện rít hết điếu thuốc, và nhả khói một cách thư thả. Tới đó,
cô Tâm lại cất giọng kể:
- Thời cụ Thượng Chính về hưu, an nghỉ tại quê
nội là phủ Tiên Hưng. Phủ Tiên Hưng giáp huyện Duyên Hà. Dạo ấy tên quan huyện
Duyên Hà là Trần Bình đi đón bố về làng, cả đám lính hầu đi theo, trống rong,
cờ mở, tán lọng nghêng ngang. Bên đường có hai tên lính lệ khiêng một người nào
đó trong chiếc võng xoàng xĩnh, trên đòn nghiêng vắt chiếc chiếu che nắng.
Chiếu đã cũ ải. Tên lính dẹp đường của Trần Bình thấy vậy ngứa mắt chạy lên:
- Dẹp, dẹp mau.
Hai người lính khiêng cáng vẫn bước từ tốn.
Tên lính huyện thấy vậy lấy roi quất vào chiếc chiếu tre.
- Nghe lệnh chưa? Dẹp cho quan lớn đi, dẹp...
Những cọng cói rụng xuống. Bên trong, một cụ
già nằm yên, chiếc quạt lụa phủ lên mặt che nắng. Tên lý trưởng sở tại nghi
hoặc giật mình ghé vào tai Trần Bình nói nhỏ:
- Bẩm quan lớn, hình như cụ Thượng nằm trên
võng.
Trần Bình tái mặt, vội quát bọn lính dẹp hết
cờ quạt, võng lọng, còn chính hắn nhảy xuống đường, quỳ lạy. Nhưng chiếc võng
gai cũ kỹ vẫn lướt qua.
Nghe đâu, sau đó tên quan huyện hống hách đã
tới nhà cụ Thượng lễ tạ tội “Nghi thức lộng hành.” Cụ Thượng ra lệnh cho lính
rút vồ nọc nện hắn hai vồ. Tới vồ thứ 3, người con cả của cụ chạy ra quỳ lạy
cha, xin tha tội cho hắn. Người con cả của cụ Thượng Chính là ông cử Ái, một
người hiếu đễ, tốt bụng, học khá. Ông đã đỗ cử nhân, được nhà vua vời ra làm
quan, nhưng cụ Thượng Chính đã bác bỏ việc tiến cử con trai mình. Cụ bảo vợ:
- Thằng này tốt bụng nhưng gàn, để cho nó làm
quan là hại dân...
Cụ bà nghe ra, không dám than thở nửa lời. Ông
Cử Ái tuân lời cha, ở nhà dạy học, tham gia việc nông tang, không màng danh
lợi.
Lại nói về tên quan huyện Trần Bình. Thầy tôi
kể không biết bao nhiêu chuyện về hắn. Đại để, chuyện hắn xui dân lành kiện
tụng để có dịp moi tiền, khiến cả hai bên khuynh gia bại sản. Nào là chuyện hắn
ám hại kẻ khác. Nhưng lâu quá tôi không nhớ rõ. Riêng chuyện quan huyện vời hát
xẩm, là tôi nhớ như in.
Cô tôi dừng lại, rót nước uống. Cả đám cử tọa
im phăng phắc, chờ đợi. Mắt họ dán như dính vào gương mặt hao gầy, có vẻ đẹp úa
tàn. Cô tôi, không nhìn ai, rẽ ràng kể tiếp:
- Trần Bình có một ông bố mù và đứa con trai
duy nhất cũng mù. Hắn dán yết thị trước cửa công đường: “Ai chữa cho ông thân
sinh và công tử của quan huyện khỏi bệnh, sẽ có thưởng lớn.” Yết thị dán được
nửa năm, mới có một thầy lang dưới thành Nam lên xin chữa bệnh cho nhà quan
huyện. Ông lang này chưa phải danh y, nhưng là người tài cao học rộng biết đủ
nho, y, lý, số. Ông cho bố và con trai Trần Bình uống non hai chục thang thuốc,
bệnh đã đỡ hẳn. Từ chỗ mù hoàn toàn, cả hai người đã nhìn thấy mọi vật. Ông bố
tên quan huyện bảo hắn:
- Tao trông thấy hai thằng Bình.
Còn đứa con trai độc nhất của hắn, cũng thế.
Người ta bảo nó ngồi trong buồng tối, không cho ánh sánh bên ngoài lọt vào,
cũng không thắp đèn, để thằng bé không thể nhận biết vật gì. Rồi, chính Trần
Bình cầm cây nến, mở cửa vào phòng. Thằng bé reo lên:
- Con nhìn thấy hai bố Bình, hai cây nến...
Tên quan huyện tủm tỉm cười, không nói gì
thêm. Sáng hôm sau hắn đưa cho thầy lang một đồng bạc, để thầy tiếp tục đi lấy
thuốc ở thành Nam. Ông thầy thành thực, không nghi hoặc. Tới cửa hàng thuốc,
mới vỡ lẽ là đồng bạc giả. Thầy lang trở về, thưa với gia chủ:
- Bẩm quan lớn, con không lấy được thuốc cho
cụ với công tử. Dưới thành Nam, người ta chê đồng bạc ngày hôm qua là bạc giả.
Trần Bình cười nhạt:
- Thầy nói thế nào? Tôi là quan, người lo việc
nước là lại chứa bạc giả trong nhà hay sao?
Nói xong, hắn chắp tay sau lưng, lững thững
vào buồng. Ông Trần Bình thầy lang ngớ người, quay về nghĩ ngợi. Càng nghĩ càng
toát mồ hôi. Ông biết Trần Bình bày kế quỵt tiền công. Quyền lực trong tay, hắn
khép tội chứa bạc giả ông có chạy lên rừng cũng không thoát hình ngục. Ba giờ
sáng hôm sau, ông thày thu xếp áo quần, khăn gói. Chờ bọn gia nhân mở công sau
cho tá điền đi làm ông thày cũng lẻn đi luôn. Trước khi rời huyện, ông ta chạy
ra chợ. Ở chợ, có một gia đình xẩm sống dưới mài lều chúa. Người ta gọi như vậy
vì mái lều được cất lên làm phúc, cho những kẻ nhỡ độ đường trú thân. Một ông
xẩm già, hai vợ chồng xẩm với đứa con trai lên bảy. Tất cả đều mù. Tất cả đều
có giọng hát đủ kiếm miếng cơm độ nhật. Mới mờ sương, nhà xẩm đang lục đục trở
dậy luộc khoai ăn sáng. Ông thầy lang tới gọi:
- Này, quan huyện sai tôi tới gọi cả nhà cụ
tới công đường. Hôm nay, có ngày lễ lớn. Quan muốn nghe hát xẩm.
Ông xẩm già mừng quá, run lập cập:
- Thật phúc đức quá, có thật không thầy?
Ông lang bảo:
Tôi là gia nhân của quan huyện. Quan sai tới
gọi nhà cụ sớm để lo sắp đặt ăn uống, rồi ôn luyện bài vở cho chu đáo. Hôm nay,
có các quan khách tỉnh bên sang chơi.
Cả ông xẩm già, cả vợ chồng nhà xẩm cúi rạp
đậu cảm tạ:
- Nhà con xin đội ơn thầy. Cuối giờ mão, chúng
con sẽ có mặt tại cổng công đường, không dám sai.
Thày lang chào cả gia đình nhà xẩm rồi ra bến
xe, chuồn thẳng.
Lại nói tới nhà xẩm. Nào ông nội, nào cháu
đích tôn, vào vợ chồng xẩm ra công mà ôn luyện bài vở. Nấu khoai ăn xong, tất
ta tất tưởi, dắt nhau tới ôcng đường. Đám lính gác cản lại, gia đình xẩm kêu la
ầm ĩ.
Trong dinh, Trần Bình thức giấc, nghe ồn ào,
sai người ra hỏi. Người nhà bẩm có đám hát xẩm chờ trước cửa công đường, bảo là
gia nhân của quan huyện ra chợ gọi họ từ sớm. Hôm nay quan huyện có lễ, rước
khách các tỉnh sang chơi, muốn nghe hát xẩm. Trần Bình hỏi thầy lang, ông ta đã
không cánh mà bay. Hắn biết ông lang chơi xỏ, sai lính phóng khắp nơi tìm.
Nhưng thầy lang có phép tàng hình đã biến mất. Chỉ khổ cho ông cháu, cha con
nhà xẩm, bị Bình sai tụi lính giã cho một trận đòn, rồi tống ra cửa.
Ông thày lang thành Nam đi mất, nhưng lời
nguyền của ông ta với Trần Bình đã thành sự thực. Bạ cắt thuốc, chẳng bao lâu
bố hắn, con trai hắn mù trở lại. Bảy năm sau, hắn cũng mù nốt. Đi đâu cũng phải
có người dắt. Riêng đánh tổ tôm, chả cần ai nhắc, hắn vẫn đọc vanh vách tên các
quân bài. Nhưng cảnh ông mù, cha mù, con mù... tam đại mù đã trở thành câu
chuyện truyền khẩu cho nhân gian. Thầy tôi bảo Trần Bình không có ham thú nào
hơn thú kiếm tiền. Các đời quan trị nhậm địa phương, có người tốt, có người
xấu, nhưng ngay cả những người xấu nhất cũng không ai đạt tới mức độ tàn bạo và
vô liêm sỉ như hắn. Sau, người ta đem hắn đối với một ông quan thanh liêm đời
trước, tên là Phạm Thụ. Câu đối như thế này...
Phạm Thụ hữu tồn, dân hữu khố
Trần Bình bất khứ, hộ vô mao...
Đám cử tọa nhếnh mắt lên, vừa nghe vừa nhìn
miệng cô tôi. Khi cô đọc xong vế đối, đám đàn ông ồ lên. Người cười, người vỗ đùi
bồm bộp. Đám dàn bà, có người cười rúc rích, có người ngơ ngác nhìn quanh. Rồi
một thiếu phụ vẻ bạo dạn, cất tiếng:
- Mọi người cười gì thế?
Người ta vẫn ồn ào tán chuyện không ai trả lời
chị. Chị nhắc lại lần thứ 2, cao giọng hơn:
- Câu đối ấy nghĩa thế nào? Các ông phải giảng
giải cho bọn đàn bà chúng tôi chứ?
Ông khách nghiện thuốc lào đang ngửa mặt lên
trời há miệng phô hai hàm rắng đen xì khói thuốc mà cười. Thấy thế, ông đáp
lời:
- Này nhé, nghe cho rõ: Phạm Thụ hữu
tồn, dân hữu khố. Nghĩa là quan Phạm Thụ còn trị nhậm, dân còn khố mà mặc. Trần
Bình bất khứ, hộ vô mao. Nghĩa là: quan Trần Bình chưa đi, thì... đến
cái con ba ba nhà các chị cũng chẳng còn râu...
- Úi giời ơi.
Đám đàn bà con gái rú lên, người nọ đám người
kia thùm thụp. Họ cười, cười ngặt nghẽo, cười giàn giụa nước mắt, cười ré từng
hồi, nức từng cơn:
- Ối cha mẹ ơi, phải gió cái nhà ông này.
- Có nhà bà phải gió ấy. Không biết, người ta
giảng cho. Đã chẳng cảm ơn lại còn nói láo.
Đám đàn ông gật gù, liếc nhìn nhau:
- Giỏi thật, giỏi thật... Thật là tuyệt.
- Mấy ông đồ nho thâm thúy. Chịu các ông.
Trong khóe mắt, trong nụ cười của họ, dù ồn ào
hay thầm kín, đều hàm chứa những ẩn ý. Tôi lại đưa mắt về phía bóng tối đồi
diện với mình. Người đàn bà có vết bớt trên má vẫn ngồi lọ thỏm trong đám phụ
nữ. Nhưng đôi mắt sâu của bà ánh lên như hai hòm than. Nóng và dữ dằn. Tôi
không quên được đôi mắt ấy. Giữa đám người ồn ào cười nói, tôi thấy ông phó chủ
tịch Đường cũng cười. Chiếc miệng thổi lửa hơi lệch của ông ta nhếch lên, phô
những chiếc răng nhỏ. Hai gò má ông ta sạm đi, không còn giữ được màu đỏ ban
đầu.
Rồi như không chịu được không khí ấy, ông giơ
đồng hồ đeo tay lên xem, cao giọng:
- Nào bà chủ còn gì cho ăn uống nữa không?
Cô Tâm vẫn cười tươi:
- Ông phó chủ tịch muốn ăn uống gì, tôi vẫn
còn đủ sức phục vụ ạ.
Ông Đường cười:
- Đùa thôi. Có cỗ yến bây giờ cũng lèn vào đâu
được. Thôi, tôi về bà chủ nhé.
Cô Tâm nói:
- Lúc nãy ông có bảo rằng...
Ông ta gật đầu:
- Tôi nhớ... tôi nhớ rồi.
Rồi đưa mắt liếc quanh, ông hạ giọng:
- Thôi để khi khác.
Cô tôi cười, giọng gạn gùng:
- Có gì khúc mắc đâu mà phải để khi khác. Ông
cứ nói luôn cho xong.
Ông phó chủ tịch hơi cúi đầu, vẻ như ngại
ngần, rồi ông ta nói:
- Tôi vừa cho cháu lớn ra ở riêng. Nghe bà chủ
có nghề, lại vẫn giữ được bộ máy ép miến, muốn phiền bà cho cháu học.
Cô Tâm vẫn cười:
- Không khó gì chuyện ấy. Chẳng cứ con ông phó
chủ tịch, con ai tôi cũng giúp được. Chỉ ngại nỗi là việc làm miến trông tưởng
nhàn nhưng còn mất sức hơm làm ruộng. Cô bên nhà xưa nay có lấm chân lấm tay
đâu. Hồi còn ăn công điểm, cô ấy làm trong đội tuyên truyền văn nghệ. Sau lên
tỉnh học. Từ thời khoán việc đến nay, ông bà vẫn phải nuôi không.
Hai gò má ông phó chủ tịch lại đỏ rực lên. Ông
ta gật đầu:
- Phải, phải, nhưng kỳ này tôi nhất quyết tống
cổ nó ra ở riêng. Tay làm hàm nhai, đó no kệ xác.
Những tiếng cuối cùng, ông ta vội vã đến nuốt
cả lời. Rồi giơ đồng hồ lên xem lần thứ 2, ông bảo:
- Gay quá, thế mà đã gần 10 giờ rồi. Tôi còn
phải họp một lát. Thôi chào cả nhà nhé.
Lác đác, có tiếng chào lại:
- Vâng, chào ông.
- Chào ông.
Tấm thân đậm, thấp của ông ta lách rất nhanh
qua đám người. Ánh đèn pin quét lóe ngoài sân, rồi tiến ra ngõ. Cô Tâm tôi nói
với ra:
- Ngoài ấy có ai mở cổng cho ông phó chủ tịch
không?
- Tôi đây.
Giọng bà Đũa đáp lại. Ngoài cổng, có tiếng chó
sủa. Rồi mỗi lúc, tiếng chó sủa mỗi xa hơn. Trong nhà, tiếng cười đùa ồn ĩ:
- Hôm nay có đứa bị trát gio vào mặt nhé. Thật
ác giả ác báo.
- Này, nói thế mà nghe được. Làng này mới chỉ
có ác giả, đã làm gì có ác báo?
- Rõ ông thật hàm hồ. Còn thế nào nữa hở ông?
- Bà mới thật hàm hồ, bà tưởng nghe vài câu
chuyện thế là mọi việc sẽ đâu vào đâu vào đấy sao? Loại người đã xoay thừ bữa
chén xoay đi thì làm gì còn liêm sỉ. Lại quyền hành, dấu má nắm trong tay. Rồi
mà xem, nhà chị Hài đố có thoát!...
- Chị ấy đang kiện trên huyện. Chẳng nhẽ giữa
thời buổi này, lại thanh thiên bạch nhật.
- Tôi với bà cược nhé!
- Ờ thì cược. Cái gì nào?
- Ít thôi. Một cổ lòng ngon với ba lít rượu.
Đích thứ ruơu gạo nhà ông cả Từu đấy nhé.
- Thôi. Cám ơn bà chủ, được bưas no ruột no cả
lòng. Các ông cá bà, về đi thôi. Cho khổ chủ còn dọn dẹp.
Mọi người lần lượt ra về. Cô Tâm tôi bê chồng
thúng không của các bà đầu bếp lên phản, chuẩn bị cho mỗi người một phần cỗ.
Một đĩa xôi gấc, một khoánh giò nạc, một mảnh chả ống, chừng ba lạng thịt luộc,
dăm quả chuối tiêu. Mỗi phần được bọc gói cẩn thận bằng lá chuối tươi hơ lửa,
đặt vào thúng. Các bà bưng thúng quà, trông như đi lễ chùa về. Người đàn bà có
bết bớt trên mặt nói:
- Đội ơn chị Tâm. Đáng lẽ tôi còn phải đem lễ
tạ chị.
Cô tôi bảo:
- Có gì đâu. Lòng vả cũng như lòng sung. Chị
Hài bị bức hại, ít nhất cũng nửa dân làng đau ruột. Thôi, chị đem phần cỗ về
cho các cháu.
Cô tôi tiễn các bà đầu bếp ra ngõ. Đám người
giúp việc đã dọn dẹp gọn gàng. Người nào nhận phần xôi thịt của người nấy, lũ
lượt kéo về luôn. Cô Tâm chào người này, trò chuyện hỏi han người kia, dịu dàng
và kiên nhẫn. Dáng người bé nhỏ, lưng mỏng, vai mỏng, lại mặc quần áo thẫm màu,
trông xa cô như đứa bé gái. Lúc cô tiễn khách cuối cùng, đóng cổng rồi quay
vào, đã quá nửa đêm. Trời mát lạnh. Sương xuống, thấm ướt hàng hiên. Cô thở dài
khoan khoái, kéo tôi ngồi xuống bậc tam cấp:
- Thế nào, có mệt không con?
Tôi nói:
- Cô mệt hơn nhiều. Cháu có đụng tay vào việc
gì đâu?
Cô cười:
- Con chẳng phải mó tay vào việc gì hết. Còn
cô, cô đã quen.
Nói xong, cô bóp chặt tay tôi. Tôi không muốn
nói gì thêm, để nguyên bàn tay mình trong bàn tay nhỏ bé xơ xác của cô. Từ lớp
da thịt ấm nóng và thô nháp ấy, truyền sang tôi niềm yêu thương dịu nhẹ. Chúng
tôi ngồi như thế, giờ lâu. Trăng hạ tuần nhô khỏi vườn cam, đính một mảnh ngọc
xanh xao, trên bóng tối dày đặc của vòm lá.
HẾT
No comments:
Post a Comment