Gia Minh RFA -Trung Quốc vừa qua lại
đưa ra Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 để biện luận cho hành động của họ tại
khu vực Biển Đông. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã họp báo phản đối cho rằng
công hàm đó vô hiệu. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nói đến việc kiện Trung
Quốc về việc xâm chiếm biển đảo của Việt Nam.
Gia Minh đặt một số câu
hỏi liên quan với nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn hiện đang ở tại Pháp về các
vấn đề đó:
Tùy tư cách pháp nhân
Gia Minh: Ông không đồng ý với một số ý kiến cho
rằng Công Hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là vô hiệu, vậy những điểm chính ông muốn
nêu ra là gì?
Trương Nhân Tuấn: Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp
lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay về
tư cách pháp nhân của thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ từ 1954
đến 1975.
Theo như lập trường của
Việt Nam hôm nay, qua lời tuyên bố của các viên chức bộ ngoại giao phát biểu
trong hôm họp báo vừa rồi, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa
ngày trước là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền. Trên quan điểm này thì tôi
cho rằng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lý ràng buộc.
Vì sao? Tại vì nếu Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập có chủ quyền, thì công hàm của ông
Đồng là một tuyên bố đơn phương, nội dung nhìn nhận tuyên bố về chủ quyền và
hải phận của Trung Quốc.
Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi,
là do quan điểm của nhà cầm quyền VN hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể
VNDCCH trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
-Trương Nhân Tuấn
-Trương Nhân Tuấn
Để dễ hiểu, tôi lấy thì
dụ về cái tuyên bố đơn phương về vùng “nhận diện phòng không của” Trung Quốc
hôm 23 tháng 11 năm ngoái 2013. Tuyên bố này, một cách tổng quát, thì phù hợp
với luật pháp và tập quán quốc tế. Nếu không có nước nào lên tiếng phản đối, hay
bảo lưu một điều khoản nào, thì tự động tuyên bố “vùng nhận diện phòng không”
của Trung Quốc có hiệu lực. Ta thấy Nhật, Mỹ, Nam Hàn cùng nhiều nước khác đồng
loạt lên tiếng phản đối. Các nước này phản đối vì chồng lấn vùng nhận diện
phòng không của nước họ đã đặt ra từ trước, trong thời chiến tranh lạnh, mặt
khác, còn có chồng lấn do tranh chấp chủ quyền giữa Nhật và Trung Quốc tại quần
đảo Điếu Ngư. Các nước khác thì phản đối điều khoản mà trong đó Trung Quốc đe
dọa sẽ sử dụng vũ lực nếu vùng “nhận diện phòng không” của họ bị xâm phạm.
Những nước không lên tiếng, thì tôn trọng tuyên bố này. Mình thấy hôm nay, các
hãng hàng không dân sự, kể cả của Nhật hay của Mỹ, cũng hải tôn trọng vùng trời
của Trung Quốc.
Trở lại công hàm 1958
của ông Phạm Văn Đồng. Ta biết tuyên bố của Trung Quốc về lãnh thổ và hải phận
ngày 4-9-1958 là phù hợp với các công ước quốc tế vềBiển đã được một số nước ký
kết vào tháng 4 cùng năm, trong đó có Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan hiện
nay. Vì chính quyền Bắc Kinh không phải là đại diện nước Trung Hoa ở LHQ do đó
tuyên bố của Trung Quốc là cần thiết. Tương tự như tuyên bố về “vùng nhận diện
phòng không” vừa rồi, nếu không ai lên tiếng phản đối, thì tự động nó có hiệu
lực.
Tức là, thay vì phản
lên tiếng phản đối hay bảo lưu chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường
Sa, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại lên tiếng ủng hộ nó.
Hiện nay, các viên chức
cũng như học giả Việt Nam cố gắng bào chữa ràng công hàm 1958 của ông Đồng chỉ
công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, chứ không công nhận chủ quyền của
Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Những lý lẽ bào chữa này không hề thuyết
phục. Giả sử rằng công hàm này không có hiện hữu, tức là ông Đồng chưa bao giờ
ký công hàm này, thì thái độ im lặng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
trước tuyên bố đơn phương, công khai của Trung Quốc, được hiểu như là sự “im
lặng đồng tình”.
Còn nếu quan niệm rằng,
trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia theo hiệp định Genève 1954
thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên: Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời,
không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định
Genève xác nhận Việt Nam là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và
thống nhất. Điều này được tái xác nhận theo Hiệp định Paris năm 1973.
Điều này thể hiện lên
thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào
trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn
nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công
nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhất. Nước này
nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần một nước
Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp
ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên
(Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông
Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và
1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Quan điểm này phù hợp
với thực tế lịch sử, thực tế pháp lý của hai miền Nam Bắc Việt Nam trong thời
kỳ 1954-1975. Và cũng là một quan điểm có lợi, vì Việt Nam gỡ bỏ được những hứa
hẹn, những cam kết mà nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thể hiện với
nhà cầm quyền Trung Quốc trong quá khứ. Tôi vừa mới gởi một lá thư không niêm,
gởi lên TT Nguyễn Tân Dũng với nội dung tương tự. Hy vọng Việt Nam kịp thời
thay đổi lập trường của mình để có một tư thế mạnh hơn, nếu vấn đề tranh chấp
được đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử.
Kiện Trung Quốc như thế nào?
Gia Minh: Theo ông biện pháp kiện Trung Quốc từ
phía Việt Nam hiện nay cần tiến hành ra sao và kiện ra các tòa án nào?
Trương Nhân Tuấn: Trước hết là mình phải biết phía Trung
Quốc họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở
các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
Theo tôi biết, năm 2006
Trung Quốc có bảo lưu ở LHQ, là họ không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào, qui định
theo mục 2, Phần XV của Công ước, đối với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở
các khoản a), b) và c) của điều 298 của Công ước.
Tức là Trung Quốc không
nhìn nhận thẩm quyền của Tòa liên quan các vụ tranh chấp chủ quyền, cũng không
nhìn nhận trọng tài để phân định ranh giới trên biển.
Tức là, trong vụ giàn
khoan 981, Việt Nam không thể kiện Trung Quốc ra Tòa về tranh chấp chủ quyền
các đảo, cũng không thể kiện để nhờ phân định ranh giới biển, thí dụ giữa đảo
Hải Nam và bờ biển Việt Nam. Điều duy nhất mà Việt Nam có thể kiện là về hiệu
lực các đảo Hoàng Sa. Nhưng mà nếu Việt Nam đệ đơn kiện về điều này thì Việt
Nam mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi!
Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc họ bảo lưu ở LHQ các
điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở các điều gì, sau đó là kiện
ra tòa án nào.
-Trương Nhân Tuấn
-Trương Nhân Tuấn
Gia Minh: Vụ kiện nếu Việt Nam tiến hành sẽ khác
vụ kiện mà Philippines đang kiện Trung Quốc về tranh chấp lãnh hải ở khu vực
Biển Đông ra sao?
Trương Nhân Tuấn: Thì nếu kiện, Việt Nam sẽ kiện tương tự
như Philippines mà thôi. Có điều Việt Nam sẽ không có được tư thế thoải mái như
là Philippines.
Philippines kiện Trung
Quốc gồm 10 điều, nội dung đại khái: kiện về yêu sách đường 9 đoạn của Trung
Quốc, về quyền chiếm hữu các cấu trúc địa lý lúc chìm lúc nổi ở trong hải phận
của Philippines, về việc chiếm đóng và xây dựng trên các bãi lúc chìm lúc nổi,
về hiệu lực của các bãi đá, về quyền tự do hàng hải…
Còn Việt Nam kiện, xem
lại danh sách bảo lưu của Trung Quốc, nếu không lầm thì Việt Nam sẽ chỉ có thể
kiện Trung Quốc về hiệu lực các đảo thuộc Hoàng Sa mà thôi. Ở đây là hiệu lực
đảo Tri Tôn. Mà khi làm điều này, như đã nói, gián tiếp Việt Nam lại công nhận
chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa là
của mình, thì mắc mớ gì mình đi kiện?
Mặt khác, khi kiện như
vậy, Việt Nam cũng làm một cuộc phiêu lưu khác không kém phần nguy hiểm. Là vì
Việt Nam cũng chủ trương các đảo Hoàng Sa có hiệu lực tối đa, theo như các bản
đồ thấy trên báo chí thế giới hiện nay, hay theo một tuyên bố về hải phận của
Việt Nam từ thập niên 80.
Thói thường thì mình
đâu thể cấm người khác có chủ trương giống như mình? VN đã từng chủ trương các
đảo có hiệu lực tối đa, thì bây giờ đâu thể nào kiện Trung Quốc khi Trung Quốc
cũng chủ trương y như vậy được?
Vì thế tình hình Việt
Nam hôm nay thật là tiến thoái lưỡng nan.
Vì thế để thoát ra khỏi
tình thế này, nhà nước Việt Nam nên thực hành ý kiến của tôi vừa nói ở trên.
Tức là tuyên bố Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian
1954-1973, vì có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vì
đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp
lý ràng buộc.
Sau đó, Tôi nghĩ rằng
Việt Nam vẫn còn phương pháp để mà thoát ra khỏi cảnh khó khăn hôm nay.
Gia Minh: Ý kiến người dân trong nước và những cộng
đồng người Việt ở nước ngoài sẽ có giá trị ra sao khi được đưa vào vụ kiện?
Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, ý kiến của cộng đồng người
Việt nước ngoài cũng như dư luận quốc tế sẽ ảnh hưởng đến thái độ của Trung
Quốc. Cho dầu thế nào thì Trung Quốc cũng không thể bất chấp dư luận quốc tế,
trong khi khu vực biển Đông là nơi vận chuyển hàng hóa khoảng 50% số lượng thế
giới. Nếu khu vực bất ổn, kinh tế cả thế giới bị ảnh hưởng, chắc chắn các nước
sẽ làm áp lực. Mình cũng thấy Mỹ và Nhật họ cũng ủng hộ Việt Nam, mặc dầu còn
trong chừng mực, nhưng là điều tốt.
Theo tôi, việc đi kiện
là thiên nan vạn nan, nhưng việc chuẩn bị đi kiện, khua chuông gióng trống lên
cho mọi người biết mình đi kiện, sẽ tạo cho Việt Nam một tư thế chính đáng.
Quan trọng là việc hóa giải công hàm 1958. Việc này tạo cho Việt Nam một tư thế
thoải mái hơn về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Việt Nam có thể có những
hành động mạnh bạo hơn trong việc đáp trả những hành vi côn đồ của Trung Quốc,
như đâm chìm tàu của Việt Nam. Và đó sẽ là hành động tự vệ chính đáng, được LHQ
nhìn nhận.
Gia Minh: Cám ơn ông Trương Nhân Tuấn.
No comments:
Post a Comment