Hứa Hoành -Người CS nào cũng có cuộc đời ly kỳ, do họ cố tình che dấu,
ngụy trang để hoạt động. Lê Duẩn (1907-1986) từng là Bí thư của đảng CSVN,
nhưng là 1 trong những nhân vật lãnh đạo có trình độ học thức kém nhất, chỉ ở bậc
Tiểu học. Do đó, ông ta tàn ác đối với đồng bào còn hơn kẻ thù ngoại nhân. Ông
là người có tính tình cục mịch như nông dân, tính cọc cằn.
Sau năm 1975, 1 cán bộ cao cấp hỏi ông về chính sách đối
đãi với những sĩ quan miền Nam thì Duẩn trả lời bằng cách ra dấu lấy tay quẹt
ngang cổ (có nghĩa là giết). Chủ trương tàn bạo, có tính thiếu nhân tính của
người lãnh đạo CS, làm cho hàng trăm ngàn sĩ quan cao cấp của QLVNCH phải chết
trong các trại cải tạo, phơi thây trong rừng thiêng nước độc, gieo tang tóc đau
thương cho gia đình họ. Cuộc đời của Lê Duẩn có nhiều bí ẩn ít ai biết rõ. Tài
liệu này được viết dựa. theo những lời kể của người trong cuộc cũng như dựa
theo 1 vài tài liệu khác, nhất là do sự giúp đỡ của Xuân Vũ và Dương Đình Lôi,
họ đã cho biết những chi tiết sống thực mà chính họ đã chứng kiến.
Lê Duẩn, còn được biết là Lê Văn Duẩn, Lê Văn Nhuận hay
anh Ba, người thôn Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, sinh ngày
7/4/1907 trong 1 gia đình sống bằng nghề đóng quan tài. Chỉ được theo học hết cấp
Tiểu học ở Triệu Phong. Năm 18 tuổi, Lê Duẩn xin vào làm cho Sở Hỏa xa Quảng Trị.
Theo nhiều người biết thì ban đầu Duẩn làm người “bẻ ghi”, cầm cờ hiệu cho xe lửa
mỗi khi vào sân ga. Năm 21 tuổi, Duẩn tham gia hoạt động chính trị bí mật chống
Pháp, gia nhập “Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội”, là tiền thân của đảng CSVN.
1 năm sau, khi đảng CSVN được thành lập ở Hong Kong,
3/2/1930, Duẩn được cử làm Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại
“Sô Viết Nghệ Tỉnh”, Duẩn bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò rồi đày lên nhà tù Sơn La
(1931-1936).
Năm 1936, Mặt Trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, nới lỏng
chế dộ cai trị thuộc địa. Tại Đông Dương, Pháp phóng thích 1 số chính trị phạm.
Lê Duẩn được tha trong dịp này. Về Trung Kỳ, Duẩn lại tiếp tục hoạt động. 1 năm
sau, Duẩn được cử làm Ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ (1937-1939). Sở dĩ Duẩn được tiếp
tục tiến cử vào chức vụ cao hơn là nhờ xuất thân từ giai cấp nghèo khổ, ít học,
trung kiên. Năm 1939, Duẩn được vào Ban chấp hành Trung ương đảng (Ủy Viên Thường
Vụ Lâm Thời Trung ương đảng, 1939-1940), và được phái vào Saigon hoạt động. Bấy
giờ đảng viên CS ở miền Nam chỉ có 1 nhúm người. Lúc đó ở Nam Kỳ có Nguyễn Văn
Cừ là Tổng bí thư, và Duẩn dưới quyền của Cừ.
Tháng 8/1939, Đảng CS Liên xô ký hiệp ước thân thiện với
kẻ thù Đức Quốc Xã, và coi Pháp không còn là đồng minh nữa. Phản ứng lại, ở
Đông Dương, Toàn quyền George de Catroux ra lịnh thanh trừng tất cả đảng viên
CS. Ngày 17/1/1940, mật thám bắt được tại trận Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư đảng
đương thời), Võ Đình Hiệu, Vũ Thiên Tân và Duẩn đang hội họp tại con hẻm số 19
đường Nguyễn Tấn Nghiệm, nay là Trần Đình Xu. 2 hôm sau, Lê Hồng Phong và Hà
Huy Tập (Uy viên Trung ương đảng) cũng bị tóm ở Phan Thiết. Tuy nhiên, trong dịp
này, số người hoạt động chính trị bị bắt, không chỉ CS mà thôi mà còn gồm đủ mọi
thành phần, đủ khuynh hướng chính trị và số lượng bị bắt ngày càng đông. Thống
đốc Nam Kỳ Veber có lập trại giam mới ở Tà Lài, nằm sâu trong rừng gần Định
Quán, khoảng cây số 123 để chứa thêm, sau khi các nhà tù khác đã “quá tải”. Đây
là chiến dịch “tổng ruồng, vét sạch” của thực dân, đề phòng cuộc khởi nghĩa của
người dân bản xứ.
Lúc ấy, Nguyễn Thị Minh Khai (tức Nguyễn Thị Vịnh) cũng bị
sa lưới mật thám Pháp (30/7/1940) tại Hóc Môn. Lúc này, Thường vụ Trung ương đảng
đang đóng ở miền Nam với Phan Đăng Lưu, Tạ Uyên,…chưa bị bắt. 30/9/1940, họ đồng
thanh quyết nghị khởi nghĩa chứ không chịu ngồi yên chờ chết. Kế hoạch nổi dậy
nhiều tỉnh cùng 1 lúc gọi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa vào cuối năm 1940 (22/11/1940).
Phan Đăng Lưu được cử ra Bắc xin chỉ thị, tuy nhiên cuộc họp lần thứ 7 của
Trung ương đảng ở Bắc Ninh (có Hoàng văn Thụ, Trần Đăng Ninh, Hạ Bá Cang tức
Hoàng Quốc Việt…) đã không tán thành.
Theo lịch sử công khai của Đảng thì như thế. Tuy nhiên,
có người trong cuộc, biết cái bí ẩn của Nam Kỳ Khởi Nghĩa (22/11/1940). Không
phải bỗng nhiên nhóm Thường vụ Trung ương đảng lẫn trốn ở Hóc Môn, Bà Điểm mà
Pháp biết được và bắt trọn ổ. Đó chính là miền Bắc “chỉ điểm cho Pháp”, vì muốn
“đảo chính” Trung ương đảng miền Nam để đem Trung ương đảng ra Bắc Kỳ cho người
Bắc lãnh đạo. Họ mượn tay người Pháp để diệt nguội Nam Kỳ. Chính vì lẽ đó, Phan
Đăng Lưu bị bắt. Lần lượt, các nhân vật lãnh đạo ở Nam Kỳ bị đưa ra tòa kêu án
tử hình. Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt trước, cũng bị hành quyết chung
(28/8/1941) với Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư năm 1938), Võ Văn Tần (người Đức
Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ), Hà Huy Tập (Ủy viên Trung ương đảng).
Từ đó, ở Bắc, vào đầu tháng 11/1940, tại Hội nghị thứ 7
Ban chấp hành Trung ương đảng CS Đông Dương, Trường Chinh lên làm “Tổng Bí thư
Lâm Thời” (thay cho Nguyễn Văn Cừ đã bị bắt cùng Lê Duẩn, Võ Đình Hiệu và Vũ
Thiên Tân ngày 17/1/1940 tại Saigon), và đầu não CS dĩ nhiên nằm tại Bắc Kỳ.
Các đảng viên Bắc và Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các chức vụ then chốt trong
kháng chiến cũng như sau khi hòa bình. Đó là chủ trương thầm kín của Hồ Chí
Minh. Sau khi Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức Nam Bộ như Trần Văn
Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn Tiểng, Ngô Tấn
Nhơn, Phạm Ngọc Thạch,…mặc tình thao túng. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh Kháng
Chiến Nam Bộ, có đầu óc địa phương, manh nha muốn tách ra khỏi sự khống chế của
nhóm đảng viên Trung và Bắc Kỳ để thành lập 1 quốc gia CS Nam Kỳ. Không ngờ HCM
biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh (tham gia Cách Mạng Thanh Niên Hội từ năm
1926), Hoàng Quốc Việt vào Nam bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai đem về
giam lỏng ở Hà Nội.
Trong khi đó, vào tháng 9/1945, sau khi Nhật đầu hàng,
thì Duẩn rời khỏi Côn Đảo (bị giam từ 1940-1945). Kế đó ít tháng, Duẩn được HCM
gọi ra Hà Nội nhận chỉ thị. Khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp lan rộng ở Nam Kỳ,
Hồ cử Lê Duẩn với chức vụ Bí Thư Xứ Bộ Nam Kỳ (1946) đi vào Nam. Đi theo Duẩn
có Lê Đức Thọ. Hồ muốn Duẩn vào Nam để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Những người
Trung và Bắc từ trước đến nay sống ở miền Nam như Trần Văn Trà, Võ Quang Anh,
Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Kim Cương…được Hồ cất nhắc lên cấp chỉ huy. 5 năm sau,
1951, khi Trung Ương Cục Miền Nam (bao gồm Nam Bộ và Cao Miên) được thành lập,
Duẩn được cân nhắc lên làm Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam. Từ đó, Duẩn vào Nam
ra Bắc như con thoi : nào là “rèn quân, chỉnh cán”, nào kiểm thảo,…
Đồng chí Lê Duẩn và những người thân trong gia đình
(1965) tại số 6 Hoàng Diệu HN.
Trong hình bà vợ cả Cao Thị Khê (thứ 3) và bà vợ
hai Đỗ Thị Thúy Nga (thứ 5 bên phải sang).
Năm 1954, sau khi Hà Nội và Pháp ký Hiệp định Geneva, thì
Duẩn được cài ở lại miền Nam, nằm vùng tại 1 căn nhà đường Phan Đình Phùng thuộc
khu Bàn Cờ. Duẩn có cấp tốc ra Bắc để nhận chỉ thị lo việc tập kết, ém người và
cán bộ ở lại miền Nam, để phát động cuộc chiến tranh mới. Duẩn sử dụng thông
hành của 1 thương gia Tàu, do người vợ tên là LKD giới thiệu. Bà này là vợ hờ,
theo kiểu già nhân ngải non vợ chồng. Duẩn lợi dụng bà này vì bà là vợ 1 thương
gia giàu có, vừa làm cán bộ kinh tài cho CS, mà lại được cảnh “cơm no bò cỡi”.
Với thông hành hợp pháp, Duẩn đi đường bộ qua Phnom Penh, rồi đáp máy bay của
Hàng không Pháp đi Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tới đây, Duẩn đổi
máy bay về Hà Nộị Lãnh chỉ thị xong, Duẩn lại đội lốt 1 sĩ quan liên lạc của Bắc
Việt, tháp tùng máy bay của Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, trở về Saigon. Sau đó,
Duẩn lén về Phụng Hiệp, rồi bí mật trốn ra mật khu ở Cà Mau. Tại nhà thờ Huyện
Sử, Duẩn chủ trì 1 phiên họp cán bộ cao cấp của Trung Ương Cục Miền Nam và ra lịnh
: – Phân tán, chôn vũ khí, máy móc.
- Moi móc những súng đạn phế thải của các công binh xưởng
phát ra cho các cán binh CS tập kết cầm theo “làm cảnh”, để chứng tỏ cho mọi
người và Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến rằng họ nghiêm chỉnh thi hành Hiệp
định Geneva.
Chuyến tàu cuối cùng chậm chạp rời cửa sông Ông Đốc. 2
bên bờ, dân chúng tụ tập để tiễn chân thân nhân tập kết. Mọi người nhìn thấy rõ
ràng Bí Thư Lê Duẩn đứng trên bong tàu Bilixki, đưa tay vẫy đồng bào… Khuya hôm
đó, khi tàu Bilixki vừa ra khơi, Lê Duẩn xuống 1 chiếc ca nô trở lại bờ. Người
tổ chức bí mật việc này là Võ Văn Kiệt, lúc đó làm Bí Thư Tỉnh Ủy Bạc Liêu. Duẩn
được cài vào 1 gia đình ở Cà Mau để chờ đợi. Mấy tháng sau, Duẩn lại lén lút về
Saigon ăn ở với người vợ hờ vừa kể trên. Đây là 1 người đàn bà lẳng lơ, vóc cao
lớn, thân hình hấp dẫn, là đàn em của Mã Thị Chu (dược sĩ, có nhà thuốc Tây ở Cần
Thơ), là 1 đại gian thương Chợ Lớn. Bà này có với Lê Duẩn 1 đứa con. Khi Lê Duẩn
có lịnh ra Bắc (đầu năm 1957, sau khi Trường Chinh bị thất sủng, và chính phủ
VNCH từ chối tổng tuyển cử), chính bà này lái xe đưa Duẩn qua Phnom Penh, để
đáp phi cơ ra Hà Nội. Nhưng thực ra, từ đây Duẩn đi thẳng qua Hong Kong, Quảng
Châu, rồi đổi máy bay khác về Hà Nội.
Nói thêm về tuyến đường này. Kể từ năm 1960, cán bộ cao cấp
CS từ Nam VN muốn ra Bắc, họ sử dụng đường bay Phnom Penh – Quảng Châu do hãng
Hàng không Air Azur của Pháp khai thác. Trước khi ra mắt Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời ở miền Nam, đại diện CS là Trần Bửu Kiếm cũng qua Phnom Penh rồi đáp
máy bay đi Algeria, Cuba, báo tin trước. Khi VC vừa công bố làm lễ ra mắt Chính
Phủ trên thì trên đài phát thanh của Algeria, Cuba, người ta nghe tiếng 2 chính
phủ này “nhìn nhận” tân chính phủ ấy tức thì. Chuyến về, Trần Bửu Kiếm về thẳng
Quảng Châu, qua Hà Nội để đánh lạc hướng tình báo Mỹ. Lần đó, Kiếm về Cục R
(Trung Ương Cục Miền Nam) báo cáo diễn tiến Hoà đàm Paris. Khi cuộc chiến miền
Nam trở nên ác liệt, Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết (Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc,
Dân Chủ và Hoà Bình) từ Cục R được đưa ra Bắc lánh nạn, cũng sử dụng đường bay
nói trên. Sau đó họ được đưa về Đồ Sơn “nghỉ dưỡng”.
Trở lại năm 1948. Duẩn và Thọ tới chủ trì 1 phiên họp của
đại biểu Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, họp tại mật khu ở Cà Mau. Duẩn gặp 1 cô gái
xinh đẹp, có học thức, đang giữ chức Chủ tịch Ban chấp hành Phụ nữ tỉnh Cần
Thơ, thì Duẩn mê ngay. Cần nhắc lại, lúc đó Duẩn đã 42 tuổi và có mấy đời vợ ở
ngoài Bắc. Người vợ thứ nhứt được Duẩn cưới hồi 20 tuổi, ở quê nhà Quảng Trị,
tên Cao Thị Khê. Vì bà vợ này mà Duẩn cất nhắc em ruột bà ta là Cao Xuân Diệm
(bí danh Dương Thông), làm Cục trưởng Cục An ninh Nội chính, lúc đó mới cấp Đại
tá, sau này lên Trung tướng. 1 người vợ khác của Lê Duẩn là Võ Thị Sảnh, con
ông Võ Văn Kính, người Quảng Nam. Ông Kính là công nhân hỏa xa, đồng nghiệp với
Duẩn ở Quang Trị. Bà Sảnh gia nhập đảng CS năm 1948, xâm nhập vào hàng ngũ Việt
Nam Quốc Dân Đảng để báo cáo cho Trần Văn Trà, lúc đó làm Tư lịnh Quân khu 4.
Khi vào Nam, Duẩn tuyên bố là minh chưa vợ vì còn “mãi lo
làm cách mạng”. Thương hại đồng chí Duẩn, tới tuổi này (42) mà chưa vợ, nhiều
cán bộ muốn kiếm vợ cho Lê Duẩn để ông ta an tâm lo việc nước. Cô Đỗ Thị Thúy
Nga là con 1 đại điền chủ quê ở Thác Lác, cháu gọi Đỗ Hữu Vị bằng chú ruột, và
gọi Đỗ Hữu Phương, người giàu nhất Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20, bằng ông nội. Số
là năm 1900, Toàn quyền Doumer có dịp vào Saigon, không biết Phương nịnh hót thế
nào mà Doumer đã cấp cho Phương cả ngàn mẫu ruộng ở Thác Lác.
Đến năm 1945, số đất ấy chỉ còn vài trăm mẫu, do 1 người
con của Phương quản lý. Như vậy cô Nga xuất thân từ giai cấp địa chủ, kẻ thù
không đội trời chung với CS.
Nhắc lại, lúc đó Nguyễn Văn Trấn (tác giả “Viết cho Mẹ và
Quốc hội”) vừ đổi xuống miền Tây, mới hơn 30 tuổi. Trấn sanh vào ngày 21/3/1914
tại Chợ Đệm (làng Tân Kiên), huyện Bình Chánh, tỉnh Long An, đang giữ 2 chức vụ
quan trọng : Bí Thư Khu Ủy, Chính Ủy Kiêm Tư Lịnh Khu 9, uy quyền tột bực. Trấn
lại có học (Trường Tiểu học Phú Lâm, Trung học Petrus Ký, tốt nghiệp Trung học,
làm báo), khá điển trai, là đối tượng của các cô gái đẹp ở Saigon mới vô khu
kháng chiến. Trấn bắt tình với cô Đỗ Thị Thúy Nga, 1 mối tình qua đường vì Trấn
đã có vợ con hẳn hoi. Mối tình vụng trộm này không kéo dài được vì bà vợ của Trấn
ghen.
Để cứu vãn danh dự và để lấy lòng anh Ba Duẩn, Trấn liền
giới thiệu cô Nga cho Duẩn. Thấy Nga, Duẩn rất thích. Nhưng, Duẩn vóc dáng cục
mịch, ăn nói cộc lốc như “dùi đục chấm mắm nêm”, lại già hơn, gấp đôi tuổi cô
Nga, nên Nga từ chối thẳng thừng. Duẩn kêu vài cán bộ thân tín giữ những chức vụ
quan trọng tới họp mật. Bà Lê Đoàn, Chủ tịch Ban chấp hành Hộ Phụ Nữ Cứu Quốc
Nam Bộ, được lịnh anh Ba tới “động viên” cô Nga ưng anh Ba. Anh Ba tuy lớn tuổi
nhưng chưa vợ con vì mãi lo việc cách mạng. Rồi Hà Huy Tập (Ủy viên Trung ương
đảng), cũng được Duẩn giao nhiệm vụ vận động Thúy Nga. Chưa hết, giáo sư Đặng
Minh Trứ, Chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Cần Thơ, nhận lịnh Duẩn đến
thẳng tư gia của cô Nga để “vận động” song thân của cô. Tất cả đều là công dã
tràng, vì cô Nga từng là nữ sinh tường đầm, nói tiếng Pháp như gió, không chịu
làm vợ 1 anh nhà quê thất học. 1 người từng ở trong hàng ngũ kháng chiến kể lại
rằng, khi mọi cuộc “vận động” bế tắc, Duẩn liền dùng bạo lực. Duẩn cho lịnh mời
cô Nga với tư cách đại biểu Cứu Quốc Cần Thơ, đến họp tại 1 ngôi nhà giữa rừng,
bên bờ sông Trẹm, chỗ giáp ranh U Minh Thượng và U Minh Hạ. Đêm ấy trời mưa,
chuyện gì xảy ra không rõ, sáng chỉ thấy cô Nga mặt mày sưng húp vì khóc suốt
đêm qua. Ván đã đóng thuyền, cô Nga miễn cưỡng làm vợ bé của Lê Duẩn.
Từ đó, đảng ra lịnh cấm bất cứ ai bàn tán về việc “đồng
chí Ba Duẩn cưới vợ”. Năm 1955, cô Nga theo đoàn quân tập kết ra Bắc. Duẩn cho
dấu cô Nga với 2 con trong 1 biệt thự trên đường Hùng Vương. Không hiểu do ai
báo cáo, bà vợ cả Đỗ Thị Khê tìm tới đánh ghen. Cô Nga chỉ biết ôm mặt khóc. Duẩn
dàn xếp dấu Nga ở Hải Phòng, cũng bị vợ lớn tìm tới chửi bới, khiến Nga đòi tự
tử. Duẩn báo cáo việc lem nhem với Hồ. Hồ gợi ý đưa Nga qua Trung Quốc tỵ nạn vợ
lớn, với danh nghĩa theo học chính trị tại Thiên Tân. Mỗi năm, Hồ cho Duẩn mượn
chiếc máy bay riêng, ẩn số BH 195 (có nghĩa là Bác Hồ 19/5) qua Thiên Tân thăm
vợ. Mỗi lần đi, Duẩn có đem theo đứa con gái lớn con bà vợ cả là Lê Thị Hồng, để
cô này thăm tình nhân là 1 Thiếu úy đẹp trai, quê ở Cái Tàu, Bạc Liêu. Viên Thiếu
úy này đang học trường quân sự Cáp Nhĩ Tân. Về sau, nghe đâu cô này học bên
Liên Xô và lấy chồng người Liên Xô.
Xưa nay, lấy vợ lấy chồng là chuyện bình thường, nhưng có
vợ rồi mà còn muốn có vợ bé…lại còn làm việc bất chính để chiếm đoạt. Hồ Chí
Minh luôn luôn răn đe đảng viên phải có “đạo đức cách mạng, đời công, đời tư phải
trong sáng…” Thật ra, lời giáo dục ấy chỉ là tuyên truyền, áp dụng cho đảng
viên cắc ké. Các Ủy viên Trung ương đảng, Bộ chính trị, ai cũng lấy vợ hai, vợ
ba, dựa vào quyền lực để ép duyên, hoặc dùng thủ đoạn để lấy gái tơ cỡ tuổi con
mình, như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham mưu trưởng Khu 9), Trần Văn Trà, Hà
Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Hoan,…
Hứa Hoành
No comments:
Post a Comment