Những anh thân Cộng thường nhận định: Hồ là
một người quốc gia, mãi sau mới thành Cộng Sản. Những ông quốc gia ngây thơ
cũng phụ họa: Hồ khéo giấu cái đuôi Cộng Sản trong suốt thời gian kháng chiến,
sau này mới lộ ra. Nhưng theo chính lời bác thì cờ liềm búa, bản chất tay sai
đắc lực của Nga đã được bác trương lên ngay từ những ngày đầu. Trang 76 bác kể:“Trong thời kỳ đầu, phong trào lan rộng và ăn
sâu… Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ
cai trị của Pháp và phong kiến và lập chính quyền Xô Viết. Họ tuyên bố độc lập
và thi hành tự do dân chủ. Những ủy ban xã, ủy ban huyện được dựng nên”
Như thế, vừa chiếm được vài nơi, bác đã áp
dụng ngay cách cai trị, tổ chức kiểu Liên Xô, nghĩa là đúng sách vở của quan
thầy. Bao nhiêu bài bản học được từ Nga (trong những khoảng thời gian “biến
mất” , “mất tích” v.v…) được đem ra dùng cả.
Ấy thế nhưng khi bọn đế quốc kết tội những con
người chủ trương “lập chính quyền sô viết ở Nghệ Tĩnh ấy là Cộng Sản, là đàn em
Nga thì bác lại không chịu. Ngay ở trang sau (trang 77) bác hậm hực viết:
“Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách
mạng đó là tay sai của Đệ tam quốc tế, của Liên Xô… Đế quốc Anh cho rằng ông
Nguyễn là tay sai của Liên Xô.”
Hai chữ “bịa đặt” ở đây
bật lên cái ý phủ nhận một điều xấu xa người ta gán cho mình. Thế mới lạ. Mặc
dầu bác giẫy nẩy lên, chối cho bằng được cái mác Cộng Sản, cái tội làm đầy tớ
Nga, chính phủ Anh vẫn biết rõ hành tung và chủ trương của bác. Thế là “ông
Nguyễn” bị phú lít Anh tóm cổ nhốt ở Hương Cảng.
Chưa Bao Giờ Sướng Thế
Từ trang 77 đến trang 84, bác Hồ mô tả những
chuyện bị giam giữ, bị đưa ra tòa xử rồi được tha. Và, ngộ nghĩnh vô cùng, cả
đoạn văn ấy là một bài dài ca ngợi nền tư pháp của đế quốc Anh. Lúc bị giam ở
xà lim (được coi là thời kỳ tù đày ghê gớm nhất) bác bị ăn uống khổ sở như sau:
“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo
sấy và mắm thối. Mỗi tuần hai lần, chúng cho ông ăn thịt bò cơm trắng. Thật là
một bữa tiệc sang!” (trang 78)
Gạo sấy, mắm thối nhà tù bình thường nào cũng
có. Chỉ dưới chế độ Cộng Sản thì sinh viên các trường cải tạo mới có nhiều ngày
ngồi mơ ước được chút mắm thối, chút gạo sấy mà cũng… không có, phải nhai đỡ bo
bo. Thế nhưng xà lim bác ở cứ một tuần hai lần thực đơn lại có khoản “cơm trắng
với thịt bò”. Đem chuyện ấy ra kể khổ, bác không sợ nhân dân miền Bắc sinh ra
mơ ước được làm tù nhân ở Hương cảng sao?
Đấy là vụ ăn uống, giờ đến vụ hỏi cung.
Xưa này, chuyện tra vấn, hỏi cung vẫn là
chuyện đáng sợ đối với tất cả tù nhân. Người ta truyền tụng những hình thức tra
tấn dã man của thực dân: đi tầu bay, tầu ngầm, quay điện, kìm kẹp v.v… thế mà
bác Hồ lại khoái được đi hỏi cung mới lạ. Bác là người gan dạ phi thường, mình
đồng da sắt, coi thường mọi trò tra tấn, khinh bỉ những cực hình chăng? Hãy
nghe bác giải thích:
“Những buổi bị đưa đi hỏi cung là những lúc
nghỉ ngơi khoái nhất ở trong tù. Một là được ra khỏi xà lim một lúc, cái xà lim
nghẹt thở, tối om và hôi hám. Hai là vì bọn trùm mật thám thường hỏi cung ông,
mời ông hút thuốc lá Anh”(trang 79)
Hóa ra nhà cách mạng vô sản không bị đánh đấm
gì, lại còn được phì phèo thuốc lá thơm, nên thích bị hỏi cung quá xá. Nhưng
“đi hỏi cung” cũng chưa sướng bằng đau ốm. Khi tù nhân Nguyễn Ái Quốc ể mình,
tụi cai tù đế quốc Ăng Lê thực dân thâm độc lập tức cho đi nằm bệnh viện. Và
ông Nguyễn lại khoe nhắng lên:
“Ông có được cái giường tốt và được ăn cơm
Tây. Ông nói: “Cả đời chưa bao giờ Nguyễn được ăn uống sung sướng như thế này” (trang 82)
Thú thật một lời khoe phản động đầy tính cách
tuyên truyền chống phá cách mạng vô sản, sỉ nhục nặng nề đàn anh Liên Xô. Cho
đến lúc này thì đời ông Nguyễn đã dài rồi, đã năm lần bảy lượt ông đến nước
quan thầy để chầu chực hoặc học tập. Liên Xô nuôi nấng, chiêu đãi ông dữ lắm.
Vậy mà, chưa có khi nào đồng chí “Nguyễn” được “ăn uống sung sướng” bằng lúc là
một tù nhân của Ăng Lê. Xã hội gương mẫu, thiên đường Liên Xô đãi khách không
tử tế hậu hĩnh bằng chế độ thực dân cư xử với… tù. Nếu chính bác chẳng khai ra
thì mấy ai biết được cái chỗ hay ho ấy .
Lòng tốt của thực dân Anh chưa ngừng ở đây. Họ
còn cử một luật sư tài ba là Loseby ra cãi cho bác. Và vì Ăng Lê không có cái
món tòa án nhân dân nên dù bác Hồ là một tên Cộng Sản chính hiệu, một tên tay
sai trung thành của Nga, bác vẫn được xử là… vô tội. Ông chánh án chỉ yêu cầu
phạm nhân phải rời khỏi Hương cảng. Luật sư Loseby vẫn không chịu, cãi cho bác
trắng án rồi ông ta còn muốn bác không bị đuổi khỏi Hương cảng. Ông chống án
lên tới tòa án của Hoàng đế Anh ở Luân đôn. Và cuối cùng ông ta thành công, bác
Hồ reo lên: “Thế là ông Nguyễn thắng lợi” (trang 84)
Bác đã có công trạng gì trong vụ “thắng lợi”
này? Cơm trắng thịt bò hai tuần một lần là công của nhà tù Anh. Bác được nằm
nhà thương, được ăn những bữa “sướng nhất đời” là nhờ ông luật sư người Anh,
nhờ chế độ đối xử với tù nhân của Anh. Bác được tha bổng là nhờ tòa án Ăng Lê
không giống tòa án nhân dân, nhờ ông luật sư người Anh lỗi lạc. Bác chỉ có công
may mắn được ở tù dưới chế độ thực dân Anh! Thế thôi. Hàng triệu tù nhân của
những nhà tù do chính bác dựng nên sau này không có anh nào may mắn, tốt phước
như thế. Nhiều kẻ chắc đã sống sót, sống dai hơn nếu gặp lũ cai tù tử tế bằng
một phần trăm, một phần ngàn cai tù Ăng Lê thực dân, đế quốc.
Cũng trong đoạn hồi ký về những ngày lêu bêu ở
Tầu, ta hay gặp những câu văn mô tả thừa thãi, vô duyên. Một thí dụ nằm ở trang
84: “Ông Nguyễn trốn đi, đóng vai một nhà buôn to Trung Quốc. Từ Hương
Cảng đến nhà một người bạn thân của ông Lô-đơ-bai ở một thành phố khác. Ở đây
ông Nguyễn sống như một nhà giầu đi nghỉ. Ông đi dạo trong rừng, đi thăm các
chùa. Ông làm quen với các người văn nghệ. Ông viết bài cho những tờ báo địa
phương, bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc, ký tên khác nhau. Ông thường tập
thể dục để lấy lại sức.”
Câu cuối vừa lạc lõng vừa dài dòng. Vẽ ra hình
ảnh một ông Nguyễn cải trang, hành tung bí mật, mô tả ông đi dạo, thăm chùa,
làm quen với văn nghệ sĩ, viết báo… là đủ rồi, chuyện tập thể thao thì cũng như
vụ ăn uống, tắm giặt, đi cầu. Độc giả đâu cần những chi tiết ấy. Chuyện kể vô
duyên mà lời kể thì thừa. Mục đích của tập thể dục đâu có bí hiểm gì mà phải
giải thích. Nói ông thường tập thể dục là đủ, cần gì phải “để cho nó khoẻ” hay
“để lấy lại sức”. Cứ cái đà lèm bèm ấy, tinh thần mô tả ấy, bác phải viết thêm:
hàng tuần ông tắm vài lần cho nó sạch, mỗi sáng ông đi cầu để tránh bệnh táo bón,
khi đi tè ông vẩy rất kỹ để khỏi ướt quần v.v… Đã thế, cái việc bỗng dưng kể là
bác thường tập thể dục vào thời kỳ đặc biệt này khiến người đọc đâm ngờ: chắc
trước đó bác lười, chả tập tành gì, giờ mới thể thao chút đỉnh, phải vội khoe.
Từ trang 87, bác mô tả tình hình Việt Nam,
những hoạt động của đảng Cộng Sản sau khi đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ.
Bác nhận trọng trách sang Tầu cầu viện. Vì:
“Đến lúc cần tranh thủ thêm sự giúp đỡ của
Đồng Minh. Đồng Minh gần nhất và có quan hệ nhất đến việc chống Nhật ở Việt Nam
là Trung Quốc. Vì vậy, phải tìm đến Trung Quốc. Trong những người cách mạng
Việt Nam, ông Nguyễn là người hiểu biết Trung Quốc và người Trung Quốc hơn hết.
Vì vậy mọi người đồng thanh cử ông Nguyễn đi Trung Quốc. Đi bộ đến Trùng Khánh
không phải là một việc dễ dàng. Nhưng ông Nguyễn nhận lời ra đi” (trang 90)
Chà! Khúc này ly kỳ rùng rợn đây. Không cần bị
bác hối thúc, độc giả vẫn bắt đầu cảm thấy hồi hộp. Bác là tay “bí mật” có
hạng. Hồi còn vị thành niên, chỉ mới sửa soạn đi làm bồi tầu, bác đã bí mật.
Khi lên tầu sang Nga, cả ông thuyền trưởng lẫn thủy thủ đoàn đều biết, bác vẫn
cương quyết “bí mật”. Phen này, nhận công tác xuất ngoại cầu viện, cứu nước,
bác bí mật phải biết.
Quả nhiên, trước khi lên đường, bác ra chiêu,
trổ tài gián điệp, qua mặt phe địch vù vù: “Để đánh lạc hướng bọn mật
thám ông Nguyễn lấy tên là Hồ Chí Minh.” (trang 90)
Độc giả chưng hửng. Có vậy thôi sao? Từ chuyện
gián điệp nghiêm chỉnh trong binh thư Đông Tây đến những cuốn tiểu thuyết James
Bond, người ta ít gặp một phương pháp “đánh lạc hướng” nào giản dị như vậy: đổi
tên. Kẻ chưa từng bị nghi ngờ, theo dõi có thể làm trò ấy được. Bác thì ngụy
trang, thay hình đổi dạng, vẻ mặt bôi râu… chưa chắc đã lừa được bọn mật thám.
Vả lại chúng nó chỉ theo dõi bác thôi chứ có chận bác lại để hỏi tên đâu mà
hòng đem tên mới ra “đánh lạc hướng”. Vì khả năng “bí mật” chỉ là những trò vớ
vẩn như thế nên: “Đi liền mười đêm và năm ngày, cụ Hồ đến một thị trấn
Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì ngày hôm đó cụ bị bắt.” (trang 90)
Chắc tụi tình báo Tầu, khả năng tình báo kém,
chưa biết ông Nguyễn đã có tên mới, nên không bị “lạc hướng” cứ vồ đại. Và cụ
Hồ bị tóm cổ hơi sớm.
Ôi! Đức Phật Tổ!
Lúc mới bị cùm, bác cũng quậy dữ lắm: “Quốc
Dân Đảng giam cụ vào nhà lao C.H.S. hơn hai tuần, ngày mang gông, đêm cùm chân.
Cụ quen huyện trưởng, trước kia đã gặp nhau ở Q.L. nhưng huyện trưởng từ chối không
gặp cụ . Cụ gửi điện cho những nhà cầm quyền cao cấp, không thấy trả lời”(trang
90)
Hóa ra cái anh Đồng Minh mà bác đang hí hửng
tính cầu viện lại chơi bác một vố nặng. Còn chế độ tù đầy của Trung Quốc thì
khỏi nói, vồ được cụ Hồ là nó cho cụ “ngày mang gông, đêm cùm chân” liền một
khi, đâu có như tụi thực dân Anh, cử cả một luật sư lỗi lạc ra cãi cho cụ, lúc
cụ ốm lại cho đi nằm nhà thương ăn những bữa ngon nhớ đời v.v…
Bác rên rỉ về những chuyện cực khổ trong tù
như sau: “Cái làm cho cụ khổ nhất là ghẻ và rận. Cụ bị ghẻ khắp người,
đầy cả cánh tay và bàn tay. Không phải là một thứ mà là hai thứ ghẻ: ghẻ ruồi
ngứa và lở, còn rận thì vô số. Không có cách gì trừ tiệt được rận. Ở đâu cũng
có: trong quần áo, trong chăn chiếu, trong ván nằm. Rận và rệp tranh nhau hành
hạ những người tù. Đêm đến họ bị một kẻ thù đáng sợ nữa là muỗi.” (trang
92)
Tưởng gì. Ở tù mà chỉ có vụ ghẻ lở, muỗi, rệp,
nằm gần cầu tiêu… thì thường thôi. Bác rên siết quá có thể làm cho những ông tù
cải tạo cười vỡ bụng. Học viên cải tạo của bác đâu có sung sướng thế. Họ còn bị
bắt buộc lao động cật lực trong khi bụng đói kinh niên. Nhà tù của bác có nhiều
món ăn chơi độc địa hơn nhiều.
Khi bị giải đến Liễu Châu, bác được đối xử tử
tế hơn: “Từ Quế Lâm người ta giải cụ đi Liễu Châu, giam vào nhà giam
quân sự. Ở đây cụ được hưởng “chế độ chính trị”. Có đủ cơm ăn, mười lăm phút
buổi sáng để đi ỉa, có người gác. Không bị gông, không bị xích. Thỉnh thoảng Cụ
có thể đọc một tờ báo hoặc một quyển sách. Một hôm Cục trưởng Cục Chính Trị đến
bắt cóc ở trong phòng người khác. Ông này hạ lệnh người gác cho phép cụ đi dạo
nửa giờ trong sân nhỏ, cắt tóc cho cụ và cho cụ tắm nước nóng.” (trang
93)
Đến đây, bác cảm khái quá, sướng quá, bác đột
ngột reo lên: “Đức Phật tổ đại từ đại bi, tốt biết bao! Mấy hôm sau ghẻ
lặn gần một nửa!” (trang 93)
Được tắm nước nóng một phát, bác sướng thấy…
Đức Phật tổ, nên lại quên béng mất chú Trần Dân Tiên. Mặt nạ Trần Dân Tiên rớt
mất tiêu hồi nào bác không hay. Độc giả đãng trí nhất, ít chịu suy nghĩ nhất,
đến lúc này cũng thấy ngay Trần Dân Tiên chính là bác. Văn nô nào kể chuyện bác
mà lại dám tự tiện hô hoán một câu lạng quạng như thế! Được anh cai tù cho tắm
nước nóng một phát kêu rầm “đại từ bi, tốt biết bao”. Nhét vào miệng bác một
lời rên sướng tỉ như thế để chọc quê, để làm giảm uy tín của bác à?
Cái anh đã cho bác tắm nước nóng một phát để
đời này mới là quân độc địa. Cùm kẹp, tù đầy khiến bác bị ghẻ lở, đói rét chỉ
tăng uy tín bác. Làm cho bác, hàng chục năm sau, còn phải thảng thốt la lên
trong sách “đại từ bi, tốt biết bao” mới thật là hại đời tư của bác. Nó tố cáo
rằng nhà cách mạng vô sản, con người được nhiều kẻ tôn xưng là vĩ nhân ấy cũng
khốn đốn vì cái xác phàm.
Bác có một bộ thần kinh bằng thép, một ý chí
sắt đá, luôn luôn bình thản coi thường cái đau của thể xác, nhưng là nỗi đau
thể xác của… những đứa khác thôi. Con dân bác bị tù đầy, đấu tố; đàn bà, trẻ
nít tan xương nát thịt vì không thích Cộng Sản, bác tỉnh bơ. Hết thế hệ này đến
thế hệ kia cháy ngùn ngụt trong lò chiến tranh, bác tỉnh bơ. Nhưng khi thân xác
bác thèm thuốc, bác ngồi thắc thỏm cầu nguyện được “bị thẩm vấn” đều đều (để
được hút thuốc thơm Ăng Lê), không lý gì tới mối nguy sơ sẩy tiết lộ những điều
có hại cho các đồng chí. Khi thân xác bác thèm tắm mà bỗng được cho tắm, thì dù
kẻ cho chính là cai tù, bác vẫn kêu tới cả “Đức Phật tổ” để ca ngợi sự tốt bụng
của nó! Thân xác vừa được vuốt ve là ý chí lạng quạng, phát ngôn bừa bãi, mê
sảng ngay, chẳng còn ra cái thể thống gì.
Từ trang 110, bác Hồ kể chuyện thời làm chủ
tịch. Sau một thời gian dài chiến đấu gian khổ, bác rời hang Pắc Bó về Hà Nội
hưởng thành quả chiến thắng, trổ tài cai trị dân. Đến đây thì cái máy “tự ca
tụng” của bác đã chạy đều, dù là “người vô cùng khiêm tốn” bác cũng cứ đành
phải nhũn nhặn công nhận rằng mình đúng là vị thánh, không còn gì phải nghi ngờ
nữa. Nhưng trong lúc bịa ra vài mẩu chuyện để tự nâng bi, nhà sáng tạo Hồ Chí
Minh lại sản xuất được những lời phét lác rất tiếu lâm.
Bác Hồ Cho Áo
Nguyên văn lời bác kể:
“Ngày 2-9-1945. Ngày chính phủ Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân. Hồ chủ
tịch sửa soạn đi dự lễ. Cụ Hồ chợt thấy mình không có quần áo. Về việc quần áo
có hai chuyện đáng kể:
Vừa mới ở rừng về đến Hà Nội, một võ quan
ngoại quốc đến chào Hồ chủ tịch, võ quan này bận quần ka-ki và áo bằng vải dù.
Võ quan thú thật là không có áo nào khác. Lập tức chủ tịch cởi áo khoác ngoài
và biếu người võ quan ấy. Thấy người này cảm động và băn khoăn không muốn nhận
chiếc áo. Chủ tịch cười nói: “Chúng ta quen biết nhau không nên khách khí. Anh
nhận đi. Tôi còn một cái áo nữa”, và người võ quan ra đi với bộ quần áo đầy đủ,
còn chủ tịch thì suốt ngày mặc áo sơ-mi .
Trong rừng, Hồ chủ tịch cũng như các chiến sĩ
du kích, ai cũng quen bận quần đùi và ở trần. Về đến Hà Nội, Hồ chủ tịch cũng
giữ nguyên bộ quần áo khi ở trong rừng.” (trang 111)
Bộ quần áo của bác khi ở trong rừng là bộ nào,
gồm những món gì, không thấy nói. Độc giả chỉ có một cách hiểu là bác “như
các chiến sĩ du kích”cũng: “bận quần đùi và ở trần”.
Về Hà Nội, Hồ chủ tịch “giữ nguyên bộ
quần áo khi ở trong rừng” nghĩa là chủ tịch vẫn chơi một quả quần đùi
và ở trần. Thế nhưng ông Chủ Tịch chỉ có mỗi cái quần đùi trên người lại biểu
diễn được một màn từ thiện, nhường cơm xẻ áo rất ảo thuật. Thấy ông võ quan
ngoại quốc nghèo khổ rách rưới quá, chỉ có cái áo bằng vải dù, Chủ tịch thương
lắm. Và ông chủ tịch giầu lòng nhân, dù đang cởi trần vần cứ… cởi áo khoác
ngoài ra biếu ông võ quan như thường! Đang ở trần trùng trục mà lại cởi được áo
khoác ngoài đã siêu. Nhưng bác Hồ còn siêu hơn, cho áo khoác ngoài đi rồi, bác
không trở lại tình cảnh ở trần mà lại “suốt ngày mặc áo sơ-mi”.
Thương thay! Câu chuyện cho áo của bác mới
chào đời ở cuối trang 110 thì vừa đến giữa trang 111 đã bị tác giả giết chết
thẳng cẳng, hưởng dương được đúng 21 dòng.
Chuyện cho áo có thể thật vì mấy anh Cộng Sản
rất ưa nặng phần trình diễn những trò như thế. Nhưng khi được kể lại nó hóa ra
chuyện tiếu lâm, chỉ vì bác tham quá. Bác muốn được tiếng có lòng nhân đồng
thời lại muốn mọi người tin là bác đã chịu đựng gian khổ, nghèo đói như mấy anh
du kích: Ở rừng chuyên trị quần đùi mà về tới Hà Nội rồi vẫn không khác lúc ở
rừng. Tham thì thâm! Vì mải mê vồ tất cả những cái tốt đẹp về mình, bác tự du
mình vào hoàn cảnh ngặt nghèo: Đang ở trần mà vẫn cứ phải cởi áo khoác
ngoài cho bằng được!
Nhà Báo Nâng Bi
Về ngày ra mắt đồng bào, bác Hồ tự nâng bi như
sau:
“Một vị Chủ tịch đã trăm lần thay đổi tên, làm
mười hai nghề khác nhau, bị tù nhiều lần, một lần bị kết án tử hình, một lần có
tin là chết – nhân dân chờ đợi được thấy, không những là vị Chủ tịch đầu tiên
của nước Cộng Hòa mới, mà còn là vị Chủ tịch khác thường.” (trang 111)
Bác đã là vị chủ tịch đầu tiên thì lấy đâu ra
các chủ tịch khác để so sánh xem bác là loại thường hay khác thường. Hay bác
tính tự ca mình là Chủ tịch “phi thường” nhưng chọn lộn chữ? Những thành tích
của Chủ tịch như “bị kết án tử hình, bị tù nhiều lần” đáng khoe ra. Nhưng cái
màn đổi tên, làm nhiều nghề thì có gì ghê gớm, phi thường đâu. Bọn trộm cướp,
tà gian đổi tên như máy, đổi nhiều hơn bác. Bác lưu lạc năm bảy nước mà làm có
12 nghề là yếu. Kiều Phong bôn ba có mỗi nước Mỹ mà đã quất đủ 14 nghề rồi, so
với đồng bào tị nạn thì con số 14 cũng xoàng. Việc đổi tên đổi nghề xoành xoạch
đâu có phải là những thành tích phi thường, làm cho ngài chủ tịch thêm vĩ đại.
Tuy nhiên, tự nâng bi đến khúc này, bác có vẻ
hả hê. Lần đầu tiên, bác cho phép một văn nô xiá vào nâng bi tiếp. Thật là một
biến cố trọng đại, một vinh dự lớn cho anh văn nô. Con người có may mắn kỳ
diệu, được chia xẻ công tác nâng bi với bác là ai? Độc giả không được biết. Bác
đâu có thèm nêu tên hắn ra. Bác chỉ viết:
“Đây là một nhà báo kể lại cảm tưởng của mình
sau buổi mít tinh.” (trang 111)
“Nhà báo” này được bác chọn là phải vì “cảm
tưởng” của anh ta quanh quẩn hơi nhiều ở những lời tâng bốc bác lên tới mây
xanh. Nhưng đặc biệt, anh nhà báo này có một lối nâng bi khá giống bác. Căn cứ
trên những sự kiện vớ vẩn, anh ta hô lên những lời “hót” rất bất ngờ:
“Từ xa tôi thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch
đội mũ vải đã ngả mầu vàng vì mưa gió, đi một đôi dép cao su, mặc một bộ quần
áo ka-ki. Khi chủ tịch bắt đầu đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, giọng sang sảng của
Chủ tịch còn nhắc lại rừng núi xa xăm, chiến tranh du kích. Đọc một đoạn và
giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt. Chủ tịch nói:
“Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?”
Câu hỏi giản đơn này làm tiêu tan tất cả những
cái gì còn xa cách giữa Chủ tịch và nhân dân, và làm thành một mối tình thắm
thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng. Với câu hỏi lạ lùng này không một ai ngờ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trừ bỏ tất cả lễ tiết tất cả hình thức. Chủ tịch trở
thành “Cha Hồ” của dân tộc Việt Nam .
“Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?”, tất cả
quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của một người Cha, của chủ tịch Hồ
Chí Minh đối với quần chúng, với nhân dân.” (trang 113-114)
Trước hết hãy bàn về câu hỏi: “Tôi nói
đồng bào nghe rõ không?”.
Anh “nhà báo” kêu rằng “câu hỏi lạ lùng, không
một ai ngờ”. Lạ lùng, không ai ngờ được thật, vì một diễn giả thường chỉ đặt
câu hỏi như thế khi thấy mặt khán giả nghệt ra, không hiểu, không nghe rõ mình
nói gì. Còn bác Hồ thì hỏi câu ấy “giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt
liệt”. Bác đọc xong một đoạn, khán giả phải hiểu, phải chịu lắm mới vỗ tay,
hoan hô. Được mọi người hoan hô mà lại gân cổ hỏi: “Nghe tôi có rõ không” thì
ngu quá. Hỏi thế có khác gì chửi khán giả hoan hô, vỗ tay một cách mù quáng,
không nghe không hiểu mẹ gì cũng cứ vỗ tay bừa. Bác đặt câu hỏi đã vô duyên,
không đúng chỗ mà anh nhà báo diễn lời bác để tâng bốc còn lãng nhách, vô duyên
hơn.
Chỉ hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” mà
“làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng”… trở thành
“cha Hồ” của dân tộc Việt Nam… làm cho “tất cả quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng
thương yêu …”. Mẹ kiếp! Thế thì những cán bộ hạng bét, những ca sĩ mầm non,
những anh bán thuốc ế giữa chợ, và hàng triệu diễn giả tầm thường trên đời đều
có thể trở thành “cha già dân tộc, thương yêu quần chúng sâu sắc” nếu họ lên
diễn đàn với một cái micro tồi. Máy khuếch âm rè rè, tiếng nói lúc có lúc không…
cam đoan anh diễn giả sẽ lớn tiếng hỏi một câu giống hệt như bác, dù chẳng hề
“thương dân sâu sắc”. Bác chỉ xì ra một câu hỏi tầm thường mà anh nhà báo đã
suýt xoa, ca tụng bằng đủ lời dị hợm, lố lăng. Xem cách nâng bi của anh này sao
mà giống bác quá. Hay là anh nhà báo kia chẳng phải xa lạ mà chính là chú …
Trần Dân Tiên?
Sáu Vấn Đề Cấp Bách
Ngày 3 tháng 9, Hồ Chí Minh họp hội đồng chính
phủ lần đầu tiên. Tường thuật về buổi họp, Trần Dân Tiên cho thấy chỉ có một
mình bác nói, đưa ra kế hoạch, hội đồng có thảo luận hăng say cũng chỉ là để
hoàn toàn đồng ý với Chủ tịch. Các bộ trưởng tán thành vội vàng quá nên ý kiến
của bác được giữ nguyên con, tha hồ lộn xộn, lảm nhảm. Bác nêu ra các vấn đề
“cấp bách” đánh số cẩn thận từ 1 tới 6.
Vấn đề thứ sáu (Tuyên bố tín ngưỡng tự do và
lương giáo đoàn kết) đáng lẽ phải nằm trong vấn đề thứ ba (Thực hiện dân chủ)
thì bác tách ra làm hai. Vấn đề thứ tư, thứ năm thì hoàn toàn lộn xộn, bát
nháo. Nguyên văn:
“Vấn đề thứ tư: Chế độ thực dân đã đầu độc dân
ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng
ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác.
Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta
phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm yêu nước, yêu lao
động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến
dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm liêm,
chính.
Vấn đề thứ năm: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò
là một lối bóc lột vô nhân đạo. Tôi đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế ấy. Cuối cùng
tôi đề nghị tuyệt đối cấm hút thuốc phiện” (trang 116).
Chuyện cấm hút thuốc phiện phải nằm trong “vấn
đề thứ tư”, ngay sau khi bác tố thực dân đầu độc dân ta bằng rượu và thuốc
phiện. Vấn đề thứ năm đang nói chuyện thuế, tự nhiên lại phang ngay ra cái
khoản cấm thuốc phiện, lộn xộn quá. Lúc đó bác chưa dùng những chữ “tàn tích do
thực dân để lại” nhưng tinh thần đỗ thừa đã cao. Bác bảo thực dân hủ hóa làm
cho dân ta “gian giảo”. Nhưng trong số những người Việt gian giảo, bác và cán
bộ Vẹm của bác tài nghệ ở mức thượng thừa, gian khiếp lắm. Cũng bị thực dân hủ
hóa chăng?
Bác muốn mở chiến dịch giáo dục lại tinh thần
nhân dân, nhưng đòi dạy dân phải cần, kiệm, liêm, chính. Dân đang đói nhăn
răng, chả cần ai dạy cũng cần kiệm. Bác muốn dạy dân hai đức tính ấy, thôi thì
cũng được đi. Những cái khoản liêm chính thì phải dân cho các quan lớn, quan bé
cán bộ của bác chứ. Dân chúng có quyền hành chức tước gì mà sợ họ không liêm
không chính.
Cái khoản “vấn đề thứ năm” mới khiếp: Bác ban
lệnh miễn thuế. Thực dân bày ra không biết bao nhiêu thứ thuế độc ác, bác lại
chỉ bỏ có ba: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò. Có nhân dân nào chết vì thuế chợ
thuế đò đâu. Bác thực tình không biết đến những “lối bóc lột vô nhân đạo” khác
của thực dân? Hay bác biết, nhưng kín đáo giữ lại, chỉ tha cho nhân dân vài món
thuế vớ vẩn, có số thâu yếu kém nhất để làm cảnh.
Kiều Phong
No comments:
Post a Comment