CHƯƠNG 22: MỘT BUỔI LỄ TRAO QUYỀN ĐẦY SÓNG GIÓ
"Bớt âu lo và hy vọng", đó là đầu đề được
báo Saigon Post cho chạy tít lớn trên trang nhứt.
Trưa nay, Tổng Thống Trần văn Hương sẽ trao quyền cho tướng
Dương văn Minh.
Các chuyên viên thảo luận với nhau về thành phần của tân Chánh
Phủ . Họ đưa ra tiểu sử của ba hay bốn nhân vật nổi tiếng nhất để cùng nhau
phân tích rất là khoa học.
- Luật sư Nguyễn văn Huyền, vị Phó Tổng Thống vừa mới được bổ
nhiệm sẽ mang đến cho tướng Minh một sự kết hợp của khối giáo dân ở Miền Nam .
- Ông Vũ văn Mẫu, như ông đã từng nói với tôi gần ba tuần lễ
nay, hôm nay là Thủ Tướng. Ông ta sẽ đòi hỏi sự ra đi tức khắc của người Mỹ như
ông đã từng xác nhận với tôi chăng ?
- Lý quý Chung, thủ lãnh của nhóm "tranh đấu trẻ" sẽ
là Tổng trưởng Thông Tin.
Giao quyền cho tướng Minh, Tổng Thống mãn nhiệm Trần văn Hương
và các dân biểu, nghị sĩ trong lưỡng viện Quốc Hội hy vọng sẽ đạt được trước
nhất là một sự ngưng bắn. Sau khi tránh khỏi sự giao tranh rồi, thì sẽ tiến tới
những cuộc thương thảo để đi đến một thành phần Chánh Phủ "trung lập"
gồm có CPLTCHMN, lực lượng thứ ba và một vài thành phần của chế độ Sài Gòn
Sự phối hợp quá hấp dẫn nầy không cần phải xem xét gì nữa. Chế
độ VNCH đứng vững là nhờ vào quân đội và viện trợ Mỹ. Nhưng QLVNCH tự nó đã tan
rã rồi, và viện trợ Mỹ cũng không còn nũa.
- Cái gọi là "Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam" (C
PLTCHMN) thì đang ở trong một cái thế chánh trị quá mập mờ.
Họ khẳng định họ là một Chánh Phủ, tự cho mình là "đại diện
chính thức cho lực lượng cách mạng của người dân Miền Nam trong "Mặt Trận
Quốc Gia Giải Phóng" nhưng trên thực tế họ chỉ là một tấm "bình
phong" giúp Hà Nội che dấu những âm mưu bành trướng mà họ đang theo đuổi.
Được thành lập từ năm 1960, qua Nghị Quyết của Chánh Trị Bộ Hà
Nội , "Mặt Trậm Quốc Gia Giải Phóng" với những du kích quân mặc quần
áo đen và chiến đấu bằng những khẩu súng cũ kỹ, nhưng sau bộ mặt tã tơi thơ
mộng đó là cả một thực tế kinh hồn: sự hiện diện của một quân đội chánh quy
hùng mạnh với những sư đoàn thiện chiến, hoàn toàn cơ giới hóa và được trang bị
chiến cụ tấn công hết sức tối tân của Miền Bắc . Hà Nội không muốn thấy M TGPQG
(nguyên tác tiếng Pháp :FLN: Front Liberation National) sẽ trở thành một thực
thể chánh trị có thể có yêu sách được dự phần trong chiến thắng quân sự của
mình; hoặc có thể nhân danh cá biệt địa phương để chống đối một sự thống nhất
nước Việt Nam.
Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968, có thể đã vĩnh viễn loại
trừ nguy cơ nầy. Được xử dụng như những người dẫn đường và tiền sát viên trong
những cuộc tấn công vào các đô thị, các du kích quân và các cán bộ chánh trị
gốc Miền Nam đã bị diệt gần hết.
Cái gọi là CPLTCHMN (nguyên tác ở đây tác giả dùng danh xưng
tiếng Mỹ, GRP: Goverment of Repubic Popular. Tiếng Việt, họ tự xưng là Chánh
Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam ) được thành hình năm 1969, trùng hợp với những
vận động đầu tiên của Hoa Thạnh Đốn và Hà Nội để giải quyết vấn đề "cái
bàn vuông 4 cạnh" để thương thuyết. Bắc Việt dự kiến nhu cầu phải có 2
thành phần đại biểu để cân bằng với con số của Hoa Kỳ và VNCH.
CPLTCHMN , gồm có một số người gốc Miền Nam Việt Nam để quảng
cáo, không có lực lượng quân sự mà cũng không có cả phương tiện quân sự . Lực
lượng duy nhất thúc đẩy cái Chánh Phủ nầy tiến tới chính là quân đội chánh quy
Bắc Việt, dĩ nhiên dưới quyền điều động và chỉ thị của Quân Ủy Trung Ương của
Hà Nội.
- "Lực Lượng thứ Ba", mà Chánh Phủ Pháp tưởng rằng họ
sẽ phải có một nhiệm vụ quan trọng trong vấn đề hòa giải giữa hai Bên thù địch
nhau (bên cộng sản và bên chống cộng sản), thì nó không có một thực trạng chánh
trị nào cả.
Lực lượng thứ ba thực tế chưa bao giờ có một tinh thần tập thể
của số đông nhân vật, đến từ khắp nơi khác biệt nhau, chia rẽ nhau vì những sự
cạnh tranh sâu xa giữa họ . Những người chống đối ông Thiệu cũng như chống đối
cộng sản lại hoàn toàn không có khả năng thỏa thuận với nhau về một chương
trình hành động chung.
Trước hết phải ghi nhận là những người thuộc lực lượng thứ ba ở
Miền Nam Việt Nam khó có thể mang nhãn hiệu "trung lập" được. Trong
vài tuần lễ trở lại đây, hầu như họ không hề có một quan hệ nào với các nhóm
trung lập khác được thành lập ở Ba Lê. Một trong những nhóm kỳ cựu và đáng tin
cậy nhất là "Ủy Ban tranh đấu cho một Miền Nam Hòa Bình và Tiến Bộ"
mà Chủ Tịch là ông Trần văn Hữu, cựu Thủ Tướng Việt Nam từ 1950 đến 1953. Hai
nhóm khác nhỏ hơn, nhưng rất thân cận với những tổ chức đấu tranh do Tòa Đại sứ
Hà Nội và đại diện của CPCMLTMN dựng lên, đã tỏ ra rất tích cực từ năm 1973 :
Đó là "lực lượng tự do cho VN", do đại tá Trần đình Lan, cựu trưởng
Phòng Nhì thời Pháp thúc đẩy, và "lực lượng đấu tranh cho Dân Chủ và Hòa
Bình" của các ông cựu Tổng Trưởng Nguyễn hữu Châu và Hồ thông Minh. Sự hợp
tác giữa các nhóm nầy trên thực tế chỉ giới hạn trong việc ký tên vào một vài
bản "thông cáo chung" mỗi năm mà thôi.
Tại Sài Gòn , từ lâu rồi người ta có cảm tưởng là "Lực
lượng thứ ba" chạy theo nhóm tranh đấu của chùa Ấn Quang, một thành trì
đối lập cực đoan với ông Thiệu. Nhưng chùa Ấn Quang cũng thường chia ra nhiều
nhóm nhỏ. Cũng vì thế mà vào khoảng tháng 9 năm rồi, khi nghị sĩ Vũ văn Mẫu
thành lập "lực lượng hòa giải quốc gia" thì chỉ có một khuynh hướng
thiểu số của hòa thượng Thích Trí Quang, người cầm đầu nhóm Phật Tử chống Tổng
Thống Ngô đình Diệm năm 1963, là ủng hộ phong trào nầy.
Cũng phải nhận định rõ thêm là về phía bà Ngô bá Thành, Chủ tịch
"Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam đòi Quyền Sống", bà cũng chỉ có thể huy
động được một số quần chúng rất là hạn chế mà thôi.
Do vậy, không thể chối cải được là mặc dầu đã lập đi lập lại nhiều
lần vị trí của mình, "lực lượng thứ ba" cũng thiếu hẳn một sự kết
hợp. Vào thời kỳ 1963, Tổng Thống Thiệu đã có lần đã nói rất đúng :"Chỉ có
2 lực lượng , lực lượng của chúng ta và lực lượng của cộng sản" Hai năm
sau đó, chỉ vài ngày nay thôi, lực lượng thứ nhất của ông Thiệu tan dần tháng
nầy sang tháng khác và hầu như sắp sụp đổ. Lực lượng thứ hai là lực lượng của
cộng sản sắp sửa là lực lượng chiến thắng. Sài Gòn và chánh quyền đang ở trong
tầm tay của họ .
Những bản thông cáo hay những lời tuyên bố của một vài nhân sĩ
trí thức dù có thiện chí mà không có binh sĩ và vũ khí, thì cũng không thay đổi
được gì đối với diễn tiến của tình hình.
Người dân Sài Gòn trước một thực tế bi thảm, chẳng còn biết phải
làm gì hơn với những sự phân tách mà họ thấy là quá tầm phơ và quá trể. Họ chỉ
tự hỏi có một câu : Cộng sản sẽ tiến chiếm thủ đô bằng võ lực hay họ đợi thủ đô
tự đầu hàng cho đúng hình thức? Họ hy vọng mà vẫn không tin tưởng lắm là
"một sự ngưng bắn có thể xảy ra trong tuần".
Nhưng những cuộc chiến đấu khốc liệt vẫn còn đang xảy ra về
hướng Đông của Sài Gòn, và thành phố Sài Gòn không bao lâu nữa sẽ có nguy cơ
hứng chịu sự pháo kích của loại pháo nặng 130 ly Bắc Việt . Đã có một loạt đụng
độ rất nặng ở thị trấn Long Thành (chỉ cách Sài Gòn có hơn 32 cây số) ngay nơi
mà trường Kỵ Binh Thiết Giáp đang đóng ở đó.
Các chiến xa đang trực xạ với nhau với cự ly thật gần. Cách đó
20 cây số về hướng Bắc, trên con lộ Xuân Lộc, điểm chốt Trảng Bom đang sắp sửa
mất. Một trung đoàn Bắc Việt và các toán đặc công cộng sản được chiến xa T.54
yểm trợ đã đánh bọc vị trí phòng thủ để tiến vào Hố Nai, nơi mà các thanh niên
công giáo từ 13 đến 16 tuổi đã chống cự lại chỉ với vũ khí hư cũ và lựu đạn. Có
hai nhà báo Pháp bị kẹt vào bẫy giữa cuộc chiến đấu trên dường phố tại đó : đó
là anh Christian Hoche của tờ Figaro, và anh Michel Laurent của hảng thông tấn
Gamma, cả hai dều được xem là bị mất tích.
Anh Christian vừa mới đến Việt Nam vài ngày trước đây và tôi
cũng chưa bao giờ gặp mặt được . Nhưng tôi biết rõ anh Michel Laurent, một
chàng trai ốm yếu, mảnh khảnh , kín đáo ít nói, có một gương mặt thanh tao với
mớ tóc dài uốn quăn không đúng cách làm tăng thêm vẻ yểu điệu của một "con
mèo". Nhưng đừng tưởng thế mà lầm ! Trên trận địa dưới lằn lửa đạn, Michel
bất chấp nguy hiểm vẫn giữ một sự bình tỉnh lạ thường. Phóng sự đầu tiên của
anh ở Việt Nam rơi đúng vào mùa hè 1972. Tuy mới bước vào nghề, nhưng anh đã
được biết đến với giải thưởng Pullizer mà anh đã nhận được ở Bengla Desh. Nhưng
những anh già lão luyện cũng đang chờ hoạt động của anh rồi mới có ý kiến. Họ
không thất vọng lắm ! Ngày 23 tháng 7 vào lúc sáng sớm, một toán nhiếp ảnh
trong đó có Michel Laurent và Raymond Thomann đến với đơn vị Dù Việt Nam đang
chạm súng ở 5 cây số phía Nam thành phố Quảng Trị lúc họ đang tiến lên tái
chiếm thành phố nầy. Pháo binh Bắc Việt tập trung hỏa lực 130 ly trên quốc lộ
1, trong khi các đoàn dân tỵ nạn đang vừa tuôn chạy vừa la hét. Raymond Thomann
vẫn đứng ở nơi trống trải bình tĩnh quay cảnh nầy... Các quả đạn pháo đã rơi
đến gần. Các nhiếp ảnh viên khác phải phân tán tìm chổ núp phía sau những hòn
đá lớn. Một quả đạn pháo rơi thật gần, làm Raymond bị thương ngã xuống.. Mình
anh đầy máu, cườm tay bên trái bị cắt đứt gần nửa, đùi trái của anh bị nhiều
mảnh đạn. Hai nhiếp ảnh viên Mỹ và một Úc nằm sát xuống sau những mỏm đá, không
nhúc nhích. Đạn bắn quá rát. Cách đó gần 10 thước, Michel Laurent đứng bật dậy,
bước qua đường trống trải rất bình tĩnh, thu nhặt các máy ảnh và máy quay của
Raymond, rồi xốc nách Raymond mang đến chỗ núp.. Làm công việc cứu người nầy
xong, vẫn bình tĩnh và thoãi mái anh đến tìm 2 y tá Việt Nam đến săn sóc sơ
khởi cho Raymond để giúp cho anh nầy khỏi bị mất quá nhiều máu. Sau khi biết
chắc là bạn mình đã được băng bó cấp thời xong, Michel trở về phía sau, chận xe
của một nhà báo da đen thuộc thông tấn xã AP (Associates Press) vừa chạy đến,
nhưng xe anh nầy không chịu ngừng , anh lại chận được một xe Jeep của một trung
sĩ Dù, đặt Raymond lên băng sau với tất cả dụng cụ máy móc của anh ta và tin
chắc rằng anh sẽ được tản thương bằng trực thăng về Đà Nẵng, Sau đó anh mới lấy
lại dụng cụ thu hình của mình, bình thản đi trở lại mặt trận, để tiếp tục công
tác của anh.
Hai tháng sau, khi ra khỏi bệnh viện, Raymond Thomann gặp lại
Michel Laurent trên quốc lộ dẫn đến An Lộc, lúc nào cũng thoải mái... ở giữa
những tiếng nổ của bách kích pháo và rốc kết...
Sáng hôm qua, ở Hố Nai, cũng như anh đã ở Quảng Trị, Michel đã
tự mình tiến qua vùng lửa đạn để tiếp cứu một người bạn khác đang bị thương...
và anh đã bị mất tích trong đám khói lửa mù của đạn pháo. Miễn là vận may
thường ngày ngạo mạn của anh đừng bỏ anh...
Những tin tức từ mặt trận đưa về không được vui lắm. Tân Uyên,
một quận lỵ nhỏ cách căn cứ Không Quân Biên Hòa khoảng chục cây số đã bị pháo
binh Bắc Việt biến thành một đống tro. (2000 quả pháo trong 3 tiếng đồng hồ).
Biên Hòa đã có lệnh giới nghiêm 24 trên 24 giờ. Ở 5 cây số về hướng Đông Bắc
của Sài Gòn, trực thăng đã tiêu diệt bằng rốc kết và liên thanh một đơn vị nhỏ
đặc công Bắc Việt trong lúc họ đang cố phá một chiếc cầu. Cách đó khoảng 4 cây
số về hướng Đông là trung tâm Thành Tuy Hạ, kho đạn dược chính của quân đội
Miền Nam , không xa Cát Lái bao nhiêu, một căn cứ hải vận trên bờ sông Sài Gòn
. Nếu cộng sản làm chủ được khu nầy thì tình hình sẽ không còn hy vọng gì cho
quân đội Miền Nam Việt Nam . Có nhiều tàu chiến của giang đoàn đã cho đổ bộ lên
đây 3 đại đội Thủy Quân Lục Chiến để họ bám trụ ở đây.
Vào lúc 9 giờ sáng, tôi đi theo xa lộ Biên Hòa. Một đoàn xe trên
một chục chiếc thiết giáp bắn tạc đạn 105 ly, có thiết vận xa M113 dẫn đầu chở
đầy bộ binh trên đó đang trên đường ra trận tuyến.. Cảnh sát dã chiến được bố
trí với súng liên thanh trong các hố dọc bên đường. Trước cầu sông Đồng Nai,
cách 25 cây số về phía Đông Bắc Sài Gòn , quân đội đã dựng lên một hàng rào
cản. Phía bên kia hàng rào cản nầy là an ninh không được bảo đảm. Các chiến xa
đến vị trí của họ. Một đại úy Việt Nam chận xe tôi lại :
- Ông đi đâu ?
- Tôi đi Long Thành.
Vừa nói tôi vừa đưa thẻ báo chí của tôi ra. Si quan nầy lắc đầu
và nói với tôi :
- "Ông có thể đi thử. Nhưng ông đến đó chắc không được đâu,
hoặc tuy nhiên nếu ông đi đến đó được thì ông cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn để
trở về. Các chiến xa đang đánh nhau trong vùng. Nhiều đơn vị của sư đoàn 18 đã
rút về Bà Rịa và đã đến tiếp tay với các sĩ quan tập sự của trường Thiết Giáp
vốn đang bị bao vây và đang bị T.54 bắn vào. Binh sĩ của chúng ta di chuyển quá
khó khăn vì các đoàn dân chúng đang tản cư.
Pháo binh cộng sản đã bắn hàng chục tràng rốc kết và đại bác 30
ly vào trại tiếp cư An Lợi, kế cận Long Thành, ở đó đang tập trung gần 100 ngàn
dân tản cư. Hơn 200 người chết. Tất cả dân tỵ nạn đều bỏ chạy về hướng biển.
Nhưng họ không đi xa hơn được vì con đường đi Vũng Tàu đã bị cắt đứt. Đoàn xe
của Hội Hồng Thập Tự Việt Nam rời Sài Gòn từ sáng hôm qua mang theo lương thực
cho những người dân khốn khổ trong tuyệt vọng nầy, đã có nhiều xe bị cháy khi
đi gần đến Long Thành nên họ phải thối lui trở về."
Có hai người Pháp tự nguyện trong tổ chức "Bác Sĩ Không
Biên Giới", một hiệp hội thiện nguyện từng gởi các thầy thuốc làm việc
không thù lao đi khắp nơi nào có đánh nhau trên thế giới, đến trình diện ngay
rào cản. Họ có giấy thông hành và muốn cố gắng đến bệnh viện mà họ đã làm việc
trong trại An Lợi mấy ngày trước . Binh sĩ xem giấy tờ và cho họ đi qua.
Viên sĩ quan trả thẻ báo chí lại cho tôi và nói thêm:
- "Trái với tin đồn đãi ở Sài Gòn ,căn cứ Biên Hòa vẫn còn.
Và các chiến xa của Chánh Phủ đã vào Hố Nai để tiếp tay cho các chiến sĩ trẻ ở
đó. Chào ông.
Đến lượt tôi bước qua rào cản.
Quốc lộ gần như vắng tanh. Dân chúng đã cân nhắc kỹ nên tránh xa
quốc lộ và băng đồng mà đi. Xa hơn một chút, tôi hiểu ngay tại sao.
Phía bên trái cách lề đường chừng 20 thước có 2 chiếc xe vận tải
bị vỡ tan vì đạn pháo, đang cháy và bốc lên một mùi khét rất khó chịu của dầu
lẩn thịt người . Phía bên phải, là một sườn xe nát vụn của chiếc xe ba bánh
Lambretta làm tôi nổi da gà: tử thi của một đứa trẻ khoảng 10 tuổi bị treo lủng
lẳn ở phía sau thùng xe, hai tay lòng thòng, đầu bị mảnh đạn cắt đi quá nửa đến
cặp mắt. Trong một góc của thùng xe phía sau còn có hai xác chết, một của người
đàn bà và một của bé gái ôm nhau nằm bất động, cả ngực và mặt đều bể nát máu me
vương vãi. Cách đo 2 thước gần một lỗ được đào hơi cạn dựa nền đường nhựa còn
một mảnh kim khí cong vẹo đánh dấu nơi viên đạn rốc kết đã nổ và gây ra một sự
tàn sát bẩn thỉu mù quáng nầy.
Một sự yên lặng kỳ lạ bao trùm chung quanh căn cứ Long Bình cũ
của người Mỹ. Các làng mạc đầy sức sống vừa mới mấy ngày trước đây đang ồn ào
náo nhiệt thì nay đã tản cư hết rồi.
Các lô cốt dọc theo quốc lộ được các sinh viên sĩ quan trường Võ
Bị Quốc Gia Dalat trấn giữ. Những sinh viên sĩ quan trẻ từ 18 đến 20 tuổi đầu,
sạch sẽ, gọn ghẽ và bóng láng như những chú lính trong tủ kính. Trên ba lô của
họ đặt dưới đất là mũ cát kết truyền thống vàng đỏ của sinh viên trường võ
bị....
Một anh sinh viên sĩ quan nói với tôi bằng một giọng gần như rất
trịnh trọng :
- "Chúng tôi sẽ đội mũ sinh viên lên khi thấy mình phải
chết!
Trong những năm 1965 -1972, Long Bình là một trong những căn cứ tiếp
vận lớn nhất của Hoa Kỳ ở Viễn Đông. Một doanh trại quân sự rộng mênh mông trải
dài trên gần hơn 7.000 mẫu tây đất, gồm hơn 100 trại lính, những sân trực
thăng, bệnh viện.... tất cả đều được nối liền nhau bằng một hệ thống đường sá
đẹp như xa lộ. Trên 30.000 lính Mỹ và Lữ Đoàn Không Kỵ số 1 với gần 3000 chiếc
trực thăng đã đóng quân tại đây. Một "trung tâm giải trí" gồm có một
sân khấu ngoài trời (dành cho các màn biễu diễn của các cô gái tóc hồng tóc hoe
của anh hề trứ danh Bop Hope), một hồ bơi lội thế vận, một nhà chơi bowl, nhiều
sân quần vợt, 3 sân bắn tên, những câu lạc bộ đánh bạc , các phòng đấm bóp và
một nhà hàng Tàu. Bây giờ Long Bình chỉ còn là một cảnh trí rộng lớn đầy cỏ dại
với một vài gian nhà rỉ sét, những ụ chiến đấu bằng bao cát và trăm bạn trẻ gan
dạ đang sẳn sàng chết với chiếc mũ sinh viên sĩ quan truyền thống trên đầu.
Xa xa là những tiếng pháo binh bắn đi từng quả một hòa lẫn với
tiếng quay đều đều của các cánh quạt trực thăng đang bay từng đoàn hai hay ba
chiếc trên không..
Đi về phía trước một đỗi nữa, tôi gặp một trung đội biệt động
quân với mũ nâu trên đầu, quần áo đầy vết mồ hôi loang lổ, với các khẩu trung
liên hay M.16 trên tay. Và tiếp theo đó là các đơn vị tiền sát của sư đoàn 18
từ Bà rịa đến. Đơn vị chính của họ đang chạm súng chung quanh Long Thành,.cố
phá vỡ vòng vây của cộng sản để tiến tới bố trí sát tường Biên Hòa. Nhưng vòng
vây sẽ khó mà phá nổi.
Hai cây số kế tiếp thì quốc lộ trở nên đen kịt : một làn sóng
người tỵ nạn vĩ đại đang đi theo binh sĩ từng bước một, ồ ạt đi sát nhau, người
thì chống tó, người thì chống gậy, các bà thì gánh gồng mang trên vai đủ mọi
loại vật dụng, các trẻ nhỏ 6,7 tuổi cõng em chúng trên lưng, mấy ông già mù
được các em bé gái nắm tay dắc....
Quân đội đang đánh nhau hai bên đường, cách đây khoản 3 cây số,
nơi có nhiều cột khói đen dày đặc bốc lên cao.
Khi đi vòng qua một con đường mòn dẫn tới một vị trí phòng thủ
hơi cao do 2 chiến xa, một đại đội thuộc sư đoàn 18 trấn đóng với vài khẩu pháo
105 ly , tôi mới khám phá ra tầm rộng lớn kinh khủng của đoàn người. Trải dài
khoảng ba hay bốn cây số trên đường chỉ là một giòng người nhấp nhô như một
giòng sông vĩ đại đang chảy về Long Bình và Biên Hòa. Cả trăm ngàn con người
cùng một tâm trạng hoảng hốt trong ngơ ngác , cùng có một nỗi lo sợ và một
quyết tâm phải chạy trốn ... đang im lặng tiến từng bước, không một tiếnng nói,
không một tiếng kêu la, trong một sự yên lặng hoàn toàn quá đổi kinh ngạc!
- "Tất cả đều chạy đi từ trại tiếp cư An Lợi, cộng thêm một
số lớn dân Long Thành"
Đó là nhận xét của một sĩ quan đang dùng ống dòm quan sát đoàn
người di chuyển. Hai vị bác sĩ mong đến An Lợi đã hiểu rằng họ không bao giờ
thấy được bệnh viện của họ nữa nên đã quay trở lại. Làm sao có đủ can đảm tìm
lại được chiếc xe và đi ngược lại về phía An Lợi, xuyên qua khối người khốn khổ
đi bộ nầy mà không thể giúp được gì để làm vơi nỗi khổ đau của họ ?
Viên sĩ quan mang ống dòm quay lại tôi và nói :
- " Ông có biết tại sao họ phải đi như vậy không ? Họ phải
đi chung từng nhóm cả gia đình với nhau vì cha mẹ lẫn con cái đều biết rằng chỉ
một chút lơ đỉnh thôi là họ có thể bị xa rời nhau vĩnh viễn, không còn nhìn
thấy nhau nữa và không bao giờ còn gặp lại nhau được nữa. Nhờ thế họ mới có một
động lực kết chặt với nhau một cách thật xúc động như vậy.
Để trở lại Biên Hòa, phải vạch lấy đường đi và chạy thật chậm,
cảng xe luôn dính sát với người đi bộ, mà phải luôn tỉnh táo để khỏi phải cán
lên họ. Đoàn người giạt ra từ từ. Không có một hành động hay cử chỉ nào tỏ ra
chống đối, tuyệt nhiên không có một lời trách móc .Tôi chỉ có một sự nóng lòng
không biết làm cách nào để "bay" ra khỏi đoàn người dày đặc nầy ... !
Đến đoạn giữa Biên Hòa và Sài Gòn giòng người tản cư tự cắt ra
thành nhiều đoàn để đi vào hàng chục trại tiếp cư được cấp tốc dựng lên từ
nhiều ngày trước . Những người có trách nhiệm của Hội Hồng Thập Tự ở Miền Nam
Việt Nam đang cố gắng bảo đảm một sự tiếp tế cũng như sự tạm trú của cả một
đoàn người khổng lồ đang chạy loạn nầy. Nhưng họ quá đông, và những trại dựng
lên trong hối hả không đủ chổ chứa hết được . Và những người nghèo khó nầy phải
chịu cảnh nằm vật xuống đất và không còn muốn đi đâu nữa. Một vài vị bác sĩ,
các hướng đạo sinh Phật Giáo và Công Giáo phân phát cho họ đường, sữa hộp và
những túi cơm nhỏ. Đủ cho họ sống trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Một vị linh mục
đến nói với họ là họ sẽ được đưa về tạm cư ở miền Đồng Bằng sông Cửu Long bằng
xe vận tải hay xe buýt.
Trên đường cũ đi Biên Hòa, thường vắng xe từ khi có xa lộ, nên
dân chạy loạn cố giữ bên phải nhường đường cho xe quân sự chở đầy đạn dược .Họ cũng
không ít đâu, hàng chục ngàn thường đi từng hàng dài với đủ mọi loại phương
tiện. Xe bò của nông dân (có bò kéo), xe ba bánh đầy ấp đến độ sàn xe muốn đụng
mặt đường, xe đạp thồ chở nặng còn hơn lừa, và đi bộ. Họ mang theo tài sản duy
nhất của họ: một con gà trống nhốt trong giỏ tre, một chú heo con trong một
thùng mủ nhỏ, có cơm. Ba cô tu sĩ được đèo chung trên một chiếc mô tô đang qua
mặt mọi người . Và không một ai chú ý đến một thân người rách nát cả lưng đang
lê lết dựa bên đường.
Khi đám đông tràn ra đường dành cho quân xa đang đi ra tiền
tuyến thì binh sĩ bắn chỉ thiên để cho họ tránh ra hai bên đường.
Trong nghĩa trang quân đội Biên Hòa , một nghĩa trang lớn nhất ở
Miền Nam , hàng chục hố vừa mới được đào chung quanh một ngôi mộ còn dang dỡ.
Trên hai chục chiếc quan tài có phủ cờ, được sấp dài gần văn phòng của nghĩa
trang, mỗi chiếc đều có mang tên tuổi, ngày tháng và địa điểm hy sinh. Hầu hết
các binh sĩ nầy đều bị tử thương mấy ngày cuối cùng gần đây ở chung quanh thành
phố. Người ta đang chôn một thiếu tá Dù. Trong số vài người dân sự đang đứng
chung quanh đội kèn quân sự và một tiểu đội linh mũ đỏ, có một bà vợ trẻ, rất
đứng đắn và rất đẹp mặc áo tang trắng, đang khóc trong lặng lẽ . Một em bé gái
khoảng 10 tuổi đang ôm sát mẹ như một con chim đang sợ sệt...
Thành phố Biên Hòa vẫn còn sống động cách đây 2 ngày mặc dầu phi
trường bị pháo kích, giiờ đây là một thành phố chết.. Phần lớn dân chúng đều đã
đi khỏi đây, các cánh cửa sắt của tiệm buôn được đóng lại và khóa cẩn thận . Ở
bệnh viện dân sự trên 50 người bị thương vì rốc kết được mang đến sáng nay, nằm
chật hết các hành lang. Chỉ có một bác sĩ giải phẩu và một bác sĩ gây mê còn
làm việc. Bác sĩ trưởng đã biến mất từ lúc nào rồi....
Ở căn cứ không quân, còn hàng chục chiếc phi cơ đang nằm trên
sân bay. Các phi công đang ráp thêm những bình săng phụ. Chắc là để cho đủ săng
để chạy đến Thái Lan hay bay ra Hạm Đội VII trước khi quân cộng sản đến.
Mãi đến 3 giờ chiều thì tôi mới về đến Sài Gòn .
Và đến 4 giờ rưỡi thì tôi quyết định đi một vòng quanh chợ Sài
Gòn . Dọc theo các hành lang trong chợ những con buôn nhỏ và những chủ sạp nói
chyện như bắp rang sau khay hàng hay ngay trước sạp hàng của họ. Có nhiều bà
ngồi xổm dưới đất bày hàng ra cả trên đường đi, mời mọc đủ mọi thứ, từ những
chiếc đèn bấm, các đồng hồ reo, kem cạo râu, rượu tây , thuốc lá và cả cơ phận
thay thế của xe hơi...Trong các gian hàng bán vải, cũng còn một vài bà mặc áo
dài màu đang chọn hàng tơ lụa và đang trả giá với mấy ông Ấn độ... Các quán
rượu nhỏ và nhà hàng thì vẫn đông nghẹt khách ngồi bàn, ăn uống trước những cốc
bia lạnh hay những tô phở nóng đang bốc hơi nghi nghút......
Tất cả đều chờ đợi..., họ chờ 5 giờ chiều và xì xào nho nhỏ với
nhau : Lúc đó là Tổng Thống Trần văn Hương từ chức, chuyển giao quyền hành cho
tướng Dương văn Minh và buổi lễ sẽ được trực tiếp truyền thanh và bình luận qua
đài phát thanh Sài Gòn.
Tôi ngồi trong một cái phòng sơn màu xanh lá cây ở tiệm cà phê
Thanh Bạch, gần rạp hát. Đứng sau quầy tính tiền, người chủ tiệm đang điều
chỉnh tần số và chiếc máy thâu băng Akai.
Đúng 17 giờ, quốc thiều VNCH được trổi lên. Khách khứa đều giữ
im lặng để nghe bình luận gia giải thích:
- "Trong gian phòng tiếp tân rộng lớn của Dinh Độc Lập,
trước bức hình của các vua Hùng, Tổng Thống Trần văn Hương bước chậm chậm đến
bàn vuông hình chữ nhật có khắc phù hiệu của ông : hai con rồng vàng nằm trong
một vòng tròn đỏ. Ông bước lên bục và hướng về cử tọa , trên hai trăm người đại
diện cho lưỡng viện Quốc Hội , một vài tướng lãnh, và một số đông nhà báo Việt
Nam cũng như ngoại quốc."
Với một giọng nói khàn khàn mà ông cố gắng tự chế, vị Tổng Thống
già nua cất lời :
- " Một trang sử đã được lật qua.
Một trang mới sẽ được đại tướng Dương văn Minh viết tiếp.
Chúng tôi không nghĩ rằng phải đổ thêm máu và phải đánh nhau đến
viên đạn cuối cùng và đến người lính cuối cùng, thưa Đại tướng, Đây là một
trọng trách rất lớn được giao phó cho ông. Chẳng những ông cần phải có thiện
chí, mà cần phải có can đảm nữa ! Khi từ bỏ giải pháp quân sự, chúng tôi đã
chọn con đường của hòa giải, của sự hòa hợp, và cuối cùng của hòa bình"
Cựu Tổng Thống Hương bước xuống bục. Một vị trưởng tòa bước đến
gỡ phù hiệu của ông và gắn lên đó phù hiệu của đại tướng Dương văn Minh:
"một bông mai", một loại bông biểu tượng cho ngày Tết, (ngày đầu năm)
dấu hiệu của một sự đổi mới.
Tướng Minh, vị tân Tổng Thống của nền Cộng Hòa, đến ngồi ngay
sau bàn vuông hình chữ nhật, quay sang vị Tổng Thống tiền nhiệm, cung kính cuối
đầu chào và nói "Thưa Thầy !" (ông Hương đã từng là giáo sư của ông
Minh ở trung học):
- " Nhận điều khiển Đất Nước trong những hoàn cảnh hiện
tại, không có gì vui hết. Chánh Phủ mà tôi đã được ủy thác phải thành lập sẽ là
một Chánh Phủ Hòa Giải Quốc Gia, và tôi tin chắc rằng Chánh Phủ đó sẽ có thể
thương nghị trở lại với Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam.
Chánh Phủ bảo đảm sẽ tôn trọng những Tự Do Dân Chủ và sẽ thả hết
những người bị giữ vì lý do chánh trị dưới chế độ cũ.
Thưa đồng bào thân mến, những ngày sắp tới đây sẽ rất là khó
khăn. Chúng ta sẽ phải can đảm cùng nhau đương đầu..."
Tôi nhận thấy thoáng qua là giọng nói không được bình tĩnh, sự
diễn đạt không chắc chắn. Ông Minh đảo lộn chữ nầy qua chữ khác và phải đọc
lai. Ông ta chưa bao giờ là một diễn giã tốt. Quay sang binh sĩ, ông tìm lại
được phần nào giọng nói của một vị chỉ huy:
- "Các anh phải giữ chặt phần đất còn lại, bảo vê hòa bình,
và giữ một tinh thần cao. Khi mà lệnh ngừng bắn được thi hành, các anh phải
triệt để tôn trọng. Trong những vùng kiểm soát của mình, các anh phải bảo vệ an
ninh và tài sản của dân chúng, không được đào ngũ, không được bỏ súng và bất cứ
trong mọi trường hợp, phải nghiêm chỉnh tuân hành lệnh ban ra, mọi hành động vô
kỷ luật sẽ bị trừng trị ngay tức khắc."
Ngỏ lời kêu gọi phía CPLTCHMN, tướng Minh tuyên bố:
- " Các anh em ở phía bên kia, tôi thật sự muốn có một sự
hòa giải, và các anh em cũng biết điều đó. Tôi muốn rằng mọi tầng lớp dân chúng
phải tôn trọng quyền sống của nhau. Đó cũng là tinh thần của Hiệp Định Ba Lê.
Các anh đã từng kêu gọi tôn trọng Hiệp Định nầy và chúng tôi cũng kêu gọi như
vậy.. Do đó chúng ta phải ngồi lại với nhau chung một bàn để tìm giải pháp có
ích lợi nhất cho đất nước và cho dân tộc. Để chấm dứt nhanh chóng sự nghèo nàn
của dân chúng và của binh sĩ chúng ta , tôi hy vọng là các anh chấp thuận đề
nghị nầy và những cuộc thương thuyết sẽ có thể bắt đầu ngay sau khi Chánh Phủ
được thành lập."
Buổi truyền thanh chấm dứt. Một chương trình khác được tiếp nối
sau bài phát biểu của Tổng Thống.
Sau lưng tôi, một ông cụ nhỏ có râu rìa tuông ra một câu đầy mỉa
mai chua chát:
-"Ông Tổng Thống của chúng ta có vẻ tốt đấy, với bông mai
của ông, trong khi các chiến xa của tướng Giáp chỉ còn cách Dinh của ông có 20
cây số!".
Ông khách già có một cái nhìn quá sắc bén, không thiếu chút hài
hước hay sáng suốt nào . Tổng Thống Hương không nắm quyền được quá 8 ngày, và
lúc các chiến xa cộng sản tương đối còn ở xa...
Tôi trả tiền xong bước ra khỏi tiệm Thanh Bạch, Trời đang có quá
nhiều đám mây đen...
°
°
Trong hai tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ rời khỏi Sài Gòn trên chuyến
bay chót của hảng "Hàng Không Trung Quốc". Điện báo quốc tế của Bưu
Điện đầy nghẹt các liên lạc điện báo chánh thức cũng như tư nhân, nên các công
điện tôi gởi về nhà báo của mình quá trễ.Tôi sẽ ghé lại Bangkok 48 tiếng để
dùng điện thoại trao thẳng vài bài và tôi sẽ trở lại...
Thình lình một tiếng nổ vang trời làm rung rinh cả thành phố.
Trong một vài giây, đám đông chung quanh tôi sững sờ kinh ngạc. Xe đang chạy
đột nhiên người ta thắng gấp, ngừng lại tại chỗ. Và sau đó nhiều tiếng nổ khác
mạnh hơn và ngay sau đó súng liên thanh và đại bác phòng không lên tiếng. Đám
đông hoảng hốt giải tán chạy tứ tán thành nhiều nhóm nhỏ , chạy qua chạy lại
khắp tứ hướng, đụng đầu nhau . Các xe bắt đầu mở máy chạy lại, và chạy nhanh.
Có nhiều xe mô tô bị hất tung lên, rồi ngã xuống....
Nhiều phát súng liên thanh được nghe khắp nơi. Cảnh sát và binh
lính thi nhau bắn chỉ thiên. Các bà la hét, chạy đến gõ cửa bất cứ nhà nào để
xin vào trong. Một số trẻ em bị lạc giữa rừng người đang chạy, đứng khóc la run
rẩy. Đây là một sự hoảng loạn hoàn toàn hay đúng hơn là một sự cuồng loạn. Các
tài xế bỏ xe giữa đám đông. Một tài xế xe vận tải bị một loạt súng làm vỡ kính
xe, quýnh quáng nhảy vội khỏi xe và xe không người lái cứ thế tiếp tục lăn
bánh, leo lên lề, phá tan cửa của một tiệm bán đồng hồ và tuông vào phá sập
luôn cửa tiệm.
Các tàu chiến đậu dưới sông Sài Gòn bắn đại bác 30 ly lên trời,
vào những mục tiêu vô hình. Ngay trên kinh đào, một chiếc C130 chở dân tỵ nạn bị
nhiều đạn lửa bắn lên làm cho phi công phải hạ thấp cao độ để tránh đạn, bay
sát kho cảng Sài Gòn suýt đụng gẫy cột buồm của mấy chiếc tàu hàng, lấy cao độ
lại và bay thẳng về hướng Nam.
Các tiệm café trên đường Tư Do lật đật đóng cửa còn khách thì
nằm bẹp xuống gầm bàn.
Phía trước Quốc Hội , rất bình tĩnh, một anh bạn to con, chĩa
máy đứng quay cảnh dân chúng chạy tán loạn tìm nơi trú ẩn. Hai anh lính bắn
nhiều loạt M.16 lên khắp bốn phía, ngang tầm người, làm cho một bà trúng ngay
ngực ngã ngồi xuống, lưng đầy máu.
Phía trên đó một đỗi, trong hẻm cạnh rạp chiếu bóng Eden, có
người xác nhận là có mấy tên đặc công Việt Cộng đã lợi dụng chuyện bom nổ để
tấn công vào Dinh Độc Lập và Bộ Quốc Phòng. Người khác thì lại nói khác : họ
nói là nhóm của tướng Nguyễn cao Kỳ đảo chánh. Chung quanh nhà thờ Đức Bà, các
pháo đội phòng không vốn có nhiệm vụ phòng thủ Dinh Độc Lập gần đó, đã xã đại
bác bắn hết lên trời. Đại lộ có quá nhiều xe xích lô máy nằm chổng gộng ngang
ngửa. Tài xế đã bỏ xe chạy hết vào nằm ở vườn cây lớn bên đường. Nhiều quân xa
trên có trí súng liên thanh 50 và đại bác 20 ly cặp đôi, đến bố trí trên đường
Thống Nhất và cũng bắt đầu tác xạ. Tiếng nổ inh ỏi khắp nơi nghe rợn cả người !
Hơi khét của thuốc súng ngửi đến tận cổ, và các vỏ đạn đồng nóng bỏng rơi đầy
đường.
Độ chừng 15 phút sau thì tự nhiên các vũ khí nặng ngưng bắn
hẳn.. Chỉ còn các tiếng súng cá nhân, nhưng cũng thưa dần. Trước câu lạc bộ thể
thao cũ, một ông cảnh sát già rất bình thản cho tôi biết với một giọng đều đều
: "Các phi cơ cộng sản đã dội bom Tân sơn Nhất, và nghe như đã có thiệt
hại"
Tôi chạy về đường Pasteur nhặt hết giấy tờ và hành lý du lịch
của mình, xong gọi một chiếc xe tắc xi đang chạy rong, và với giá 10 ngàn đồng
(coi như đắt gắp 10 lần ), anh ta chấp nhận đưa tôi lên phi trường Tân sơn
Nhứt. Cơn bão bây giờ mới bắt đầu: Mưa như trút và rất nặng hột. Chúng tôi chạy
trong cơn mưa dày đặt và đường sá gần như vắng tanh. Đến hơn 7 giờ chúng tôi
mới tới trạm kiểm soát vào phi trường. Quân cảnh và cảnh sát dã chiến xem giấy
tờ rất kỹ, súng vẫn cầm tay. Mười phút sau tôi mới được cho vào phi trường.
Cơn mưa dứt hột thình lình. Vẫn có nhiều cột khói đen bay lên từ
sân bay đang còn có nhiều tiếng nỗ nhỏ. Tiếng còi của đội chữa lửa thuộc Không
Quân vẫn còn hụ lên inh ỏi. Tất cả các phóng pháo cơ đều bay lên hết. Các quân
xa chở đầy binh sĩ từ khắp nơi đang đổ vào phi trường. Tất cả cửa sổ ở phi cảng
đều bị thổi tung, trên mặt đất còn vương vãi các mảnh kiến vụn.
Một sĩ quan an ninh cho tôi vài tin tức chính xác: 3 chiếc phản
lực A.37 bị cộng sản lấy được ở miền Trung đã dội khoảng 20 quả bom 500 cân anh
xuống căn cứ Không quân và đã bay rất thấp. Toán trực bị hoàn toàn bất ngờ vì
mấy chiếc A.37 nầy vẫn còn mang cờ V NCH và hình như đã đến đây từ căn cứ Biên
Hòa. Thiệt hại cũng khá nặng : Một kho đạn lớn, 11 chiếc phi cơ (trong đó có 3
chiếc F.5), và 4 trực thăng bị phá hủy. Có trên 60 tử thương và mấy trăm bị
thương. Tất cả các phi vụ đều được hủy bỏ. Chánh Phủ của tướng Minh vừa cho
lệnh thiết quân luật 24/24 cho đến khi có lệnh mới.
Thế mà một chiếc phi cơ thuộc Hàng Không Việt Nam lại cất cánh
được với hơn 100 hành khách. Dù sao tôi cũng không thể trở xuống thành phố. Tôi
đi đến một hầm trú ẩn làm bằng bao cát . Trên đường đi tôi gặp nhiều toán
khiêng cáng đang làm công tác tản thương.
Tôi qua đêm trong hầm trú ẩn nầy. Đạn rốc kết vẫn rơi vào phi
trường không dứt. Cũng vẫn có những tiếng rít xé gió và những tiếng nổ đến điếc
cả tai, và sau đó là các quả đạn pháo nặng 130 ly. Cứ mỗi lần đạn pháo rơi
trúng một chiếc phi cơ nào đó thì lại có một vừng ánh sáng lóe lên xé tan màn
đêm mưa gió và một cột khói đen bay lên cao.
Vào lúc 23 giờ thì một tiếng nổ lớn làm rung cả hầm trú ẩn của
tôi. Cách đó chừng 50 thước, một chiếc trực thăng vận tải "Chinook"
đầy binh sĩ bị cháy và đang rơi xuống đất. Có rất nhiều mảnh kim khí đỏ như lửa
bắn tung tóe khắp phi đạo, và thây người cũng vừa bị cháy vừa bị bắn tung cùng
khắp, trong một vùng khét lẹt mùi xăng dầu và thịt người bị cháy.
Từ xa, về hướng Đông, pháo binh vẫn nã vào Biên Hòa không dứt và
đã biến vùng bị pháo kích thành một biển lửa.
Tôi biết rằng những ngọn lửa to trong đêm tối đó đã "thiêu
hủy" cả một thị trấn; tôi biết là những nhà cửa bị đạn pháo của cộng sản
làm sụp đổ đã nghiền nát nhiều gia đình mà tôi quen.
Tôi nghĩ tới các bạn thân của tôi, nghĩ tới Trinh, người thợ máy
với hai bàn tay to lớn sù sì lúc nào cũng đầy dầu mỡ đang cặm cụi hí hoáy làm
việc trong nhà xe lợp tôn của anh.
Tôi nghĩ đến cha Alain, một người Pháp già đã 83 tuổi rồi mà
không bao giờ muốn đóng cửa nhà hàng của ông.
Tôi nghĩ tới anh Giang một nhà điêu khắc lúc nào cũng loay quay
với các tượng Phật trong xưởng mà anh chỉ dựng lên bằng giấy bồi và vài tấm
tôn.
Tôi nghĩ tới những người lính tự vệ công giáo trẻ của Hố Nai,
những em 15, 16 tuổi chỉ với một khăn choàng cổ và hai quả lựu đạn mà vẫn hăng
hái đương đầu với các chiến xa T.54 của cộng sản Bắc Việt! Trong lúc dưới ánh
sáng ở thánh đường cha mẹ chúng đang quỳ gối cầu nguyện xin Chúa ban cho chúng
đầy đủ can đảm không chùn bước trước cái chết....
Ngày mai nầy, các bạn tôi và những em bé kia chắc sẽ chỉ còn là
những xác chết không mồ mã, tha hồ làm mồi cho chuột bọ, cho chó mèo... giữa sự
điêu tàn của một thị trấn yên lặng và tang tóc...
Trời rựng sáng thì tiếng súng chấm dứt, tôi trở lại phi cảng. Có
ba xác phi cơ vận tải cong queo và bị cháy đen nằm giữa bãi đậu. Hai trung đội
Dù đang đi qua phi đạo, Đầu vẫn đội mũ nồi đỏ (không có nón sắt) quần áo thẳng
thớm, súng ống sạch sẽ, họ đi chậm chậm , nhẹ nhàng rất thong thả, lạnh nhạt
dửng dưng nhìn khắp chung quanh mà đi tới.
Lúc 9 giờ sáng, tôi gặp được một người bạn, đại tá Lập. Anh chỉ
huy một Không đoàn phi cơ săn giặc và vừa đáp xuống sau một phi vụ. Anh có vẻ
mệt mỏi và bộ đồ bay của anh có vết máu. Anh mệt nhọc nói:
-" Tất cả rồi sẽ sụp đổ, từng giờ thôi. Căn cứ Không quân
Biên Hòa bị 600 quả pháo 130 ly đã hoàn toàn hư hại và đang bị cô lập. Sư đoàn
18 của thiếu tướng Đảo vẫn còn đánh nhau với bọn chúng và đang bám trận địa.
Nhưng sư đoàn bị thiệt hại quá nặng và gần 2000 binh sĩ coi như phải thức trắng
đêm suốt 5 ngày nay. Sư đoàn 5 thì bể rồi và coi như tan hàng. Thủy Quân Lục
Chiến thì đang đụng nặng trên đường phố ở Vũng Tàu, nhưng thiếu đạn và không có
pháo binh yểm trợ. Bốn (4) sư đoàn cộng sản Bắc Việt có chiến xa T.54 mở đường,
được hàng trăm khẩu pháo yểm trợ đã tiến đến gần Sài Gòn lắm rồi. Đơn vị tiền
sát của họ gồm toàn đặc công đang lùa cả chục ngàn dân tỵ nạn đi trước coi như
làm khiêng đỡ đạn cho bọn chúng. Họ đã đến Tân Cảng rồi, không đầy 3 cây số
cách trung tâm thành phố. Các toán nhỏ Dù đã phản công và có nơi đang cận
chiến, đánh xáp lá cà với cộng sản ."
Để trả lời cho câu hỏi của tôi về các phi cơ cộng sản đã từ đâu
bay đến bỏ bom ở đây ? Anh lắc đầu chán nản nói :
- " Họ đã cất cánh từ phi trường Phan Rang, và tôi gần như
chắc chắn rằng họ toàn là những người bạn cũ, bực tức nhất thời vì sự tan vỡ
của chúng ta nên đã theo bọn cộng sản . Họ biết rất rõ các hành lang bay của
chúng ta và đã tỏ ra là chủ thật sự của phi cơ mình, chớ không phải phi công
Bắc Việt đâu. Tôi tự hỏi cái ông Minh đó, ông ta đang tìm cái gì đây ? Chiều
hôm qua, ngay sau khi cuộc bỏ bom ở đây chấm dứt, ông ta đòi Hoa Kỳ phải đóng
cửa ngay tòa Đại sứ Mỹ , và tất cả tùy viên quân sự Mỹ ở đây phải ra đi tức
khắc không được chậm trễ. Gì chớ chuyện đó thì Hoa Thạnh Đốn mừng quá: họ chỉ
chờ có bấy nhiêu thôi, họ sẽ nhận gấp. Và tôi nghĩ là cuộc di tản những người
Mỹ cuối cùng sẽ tiến hành trong những giờ sấp tới đây thôi. Cũng vì thế mà từ
sáng sớm pháo binh Bắc Việt không bắn vào đây nữa để cho cuộc hành quân di tản
nầy được tiến hành dễ dàng và nhanh chóng. Tất cả những hành động của bọn cộng
sản chỉ nhằm tạo ra một tình trạng hoảng loạn để có một sự kết thúc nhanh
chóng. Ông Minh đã cúi đầu tự mình chui vào tròng, và sự ra đi của tất cả người
Mỹ chắc chắn sẽ tạo ra một tình trạng hốt hoảng khủng khiếp."
Đại tá Lập ngưng một chút rồi đặt tay anh lên vai tôi và nói với
tôi với một giọng chối tai nhưng đầy tình bạn :
- " Một chiếc phi cơ của công ty Dài Loan, đậu ở đây 2 ngày
nay, sẽ cất cánh trong vòng 30 phút nữa mang theo trên 100 hành khách đến
Bangkok. Tôi biết anh bạn phi công nầy, anh ta sẽ cho anh đi, Pierre, anh đi
đi, đi ngay khỏi nơi đây. di ngay đi, trước khi bọn "chó chết" kia
(nguyên tác: s......) vào thành phố...
Tánh tò mò nghề nghiệp của tôi không mạnh bằng nổi buồn đang
siết chặt tim tôi.
Sài Gòn là thành phố của tôi.
Tôi đã được sanh ra ở đây. Tôi không muốn và cũng không thể nào
chứng kiến cảnh "bộ đội" từ Miền Bắc vào đây, vào cái thành phố mà
tôi biết rõ từng hóc hiểm. Tôi không muốn thấy những người có hạnh phúc cùng
thời thơ ấu với tôi sẽ biến mất dưới bộ mặt nạ bằng chì mà họ phải chịu mang
suốt đời. Tôi cảm thấy không đủ sức....
Sáng thứ ba hôm đó lúc 11 giờ, lẫn lộn trong hàng trăm người Á
Đông âu lo và vội vàng ra đi trong khẩn cấp, tôi rời khỏi Tân sơn Nhứt, phi
cảng của Sài Gòn .Chiếc phi cơ Đài Loan đi Bangkok, cất cánh rất bạo và trực
chỉ phóng thẳng ra biển, đi về hướng Tây Nam. Phía dưới chúng tôi là thành phố
rộng mênh mông với nét đẹp lộng lẫy, có con sông uốn khúc bao quanh... một
thành phố đã bị những tràng tiếng nỗ và khói bao vây ở chung quanh rồi.
Một người Tàu ngồi bên tôi, kỹ sư điện toán, nói với tôi là chỉ
trong vòng vài giờ nữa thôi là trung tâm hệ thống viễn thông đầy mìn, sẽ
"được điều khiển" cho nổ tung. Tất cả các sự thông tin với bên ngoài
sẽ bị cắt đứt hết, và Sài Gòn , bị cô lập với thế giới bên ngoài , sẽ rơi vào
tình trạng câm lặng .
Tôi thấy cổ họng tôi bị se thắt lại. tôi hết sức tuyệt vọng. Bây
giờ tôi mới biết rằng tôi sẽ không bao giờ còn trở lại đất nước nầy nữa, một
đất nước mà tôi rất yêu thương...
Một dân tộc khốn khổ, bị dày vò, bị chặt hết tay chân, bị sạt
nghiệp chỉ vì bị sa vào bẫy của một vở kịch chánh trị ngu xuẩn và bi thảm quá
kinh khủng mà chính họ cũng không hề biết không hề hiểu gì cả... Xin vĩnh biệt
tất cả, vĩnh biệt tất cả những anh em đã từng chia xẻ với tôi hạnh phúc cũng
như đau khổ trong những năm dài.... Các sư đoàn sắt máu từ Miền Bắc vào đây sẽ
tha hồ mà xài xể các anh. Người Mỹ bị xua đuổi sẽ đáp xuống những chiếc hàng
không mẫu hạm của Hạm Đội VII, một hạm đội dù bất lực và vô ích vẫn đang tuần
tra ngoài khơi bờ biển Việt Nam mấy tuần lễ nay rồi.
Còn về người dân Việt Nam : có thể họ sẽ biết được là đã hết rồi
, cơn ác mộng vô nghĩa và thật khủng khiếp của họ đã qua rồi. Người ta đã dành
cho họ một sự chọn lựa thật dản dị nhưng quá khắc nghiệt : đầu hàng và được
sống, hay là chống cự và chết. Trong vài giờ nữa họ sẽ gánh chịu một luật lệ khắt
khe của kẻ chiến thắng.
Chú Sam (Hoa Kỳ) đã biến mất, mang theo khẩu hiệu lỗi thời của
chú : thuyết "đô mi nô" !
Con cháu của Bác Hồ sẽ đến, như những kẻ chiến thắng, mang theo
biểu ngữ khác bắt buộc phải đọc thuộc lòng: Phải thay đổi lối sống, thay đổi cờ,
phải tự phê bình, phải hoan nghinh trật tự mới., phải biết vâng lời cán bộ, các
ủy viên gầy gò và bí mật, thường mặc quân phục màu xanh lục, được huấn luyện ở
sự nghèo khổ của bưng biền.. v.v.
Thật khổ cho những người bại trận!
CHƯƠNG 23: SỰ RẪY CHẾT CỦA MỘT THÀNH PHỐ
Thứ Hai, ngày 28 tháng Tư, 1975
Sàigòn thật sự đã ở trong tình trạng hấp hối
ngay trong buổi chiều ngày thứ hai 28 tháng 4 với cái trò bắn súng lăng nhăng
tiếp theo sau bài diễn văn của vị Tân Nguyên thủ Quốc Gia..
Khi những trái bom đầu tiên rơi xuống Tân sơn
Nhứt và khi mà các loại súng bắn lên khắp nơi trong môt thành phố đang sấp cò
một cơn giông bão đổ ập xuống, thì dân chúng vì chưa có được một lời giải thích
nào nên hốt hoảng nằm sấp xuống các rãnh bên lề đường hoặc chạy vào nấp bên các
cửa phố. Nhưng dân chúng cũng biết là chiến cuộc thường tránh xa thủ đô từ 30
năm giặc giã, thì nay "nó"đã đến đây rồi... và sớm muộn gì trong vài
ngày nữa đây, hay trong vài giờ nữa thôi, bàn tay sắt máu của cộng sản sẽ ập
xuống nghiền nát Sài Gòn để bắt thành phố nầy phải tùng phục họ.
Hai giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn cũng
vẫn chưa đưa ra được một lời giải thích nào rõ ràng cho dân chúng đang hấp tấp
trở về nhà mình sau khi có lệnh thiết quân luật 24/24.Do đó, trong cơn giông
bão của một buổi hoàng hôn đầy sấm sét, người dân Sài Gòn bắt đài
"MTGP". Nhưng đài cộng sản không hề nói đến chuyện "hòa
bình"! Toàn là những điều kiện đòi hỏi và những lời hăm dọa, nhắc đi nhai
lại cứng rắn như một cối xay lúa những luận điệu cũ mèm mà họ đã dùng mãi để
lên án cựu Tổng Thống Thiệu :
" chánh quyền Sài Gòn dù mang một nhãn
hiệu nào cũng phải cáo lui.... Bộ máy chiến tranh Mỹ Ngụy phải được chấm dứt...
Chiến cuộc chỉ chấm dứt khi nào tất cả quân đội Miền Nam bỏ súng xuống hết và
tất cả các chiến hạm Hoa Kỳ đã rời hết khỏi lãnh hải Miền Nam Việt Nam . Các
binh sĩ nào còn nghe lệnh chỉ huy của Mỹ Ngụy sẽ bị trừng trị đích đáng để làm
gương..."
Cũng vào giờ nầy, ngay tại Paris (tính theo
giờ địa phương), sau những lời tuyên bố của tướng Dương văn Minh, các
"trung tâm quyền lực" Pháp vẫn còn nói rõ là "viên đạn hiện đang
ở trong doanh trại của CPLTCHMN",
Vài giờ sau đó, hồi 4 giờ sáng (giờ địa
phương) thì dân chúng Sài Gòn mới nghe được câu trả lời của cái gọi là
CPLTCHMN, để đáp lại phần bình luận vô cùng lạc quan đến không thể tin được về
tài ngoại giao của người Pháp: đó là một trận mưa rốc kết xuống thủ đô của Miền
Nam Việt Nam ! Và phi trường Tân sơn Nhất tiếp theo đó bị tấn công bằng đủ các
loại pháo lớn.
Thứ Ba, ngày 29 tháng Tư, 1975
Đài phát thanh Mạc tư Khoa đã mỉa mai ghi nhận
là :"tướng Dương văn Minh trên thực tế không còn gì nữa để mà trị vì"
Vài giờ sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đã truyền đi những lời phát biểu của Tân
Thủ tướng Vũ văn Mẫu như sau :
- "Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa hoan
nghênh việc thi hành Hiệp Định Ba Lê, đặc biệt là các điều khoản 1, 4 và 9 đã
qui định là Hoa Kỳ phải tôn trọng những quyền tự do căn bản của dân tộc Việt
Nam về vấn đề "quyền tự quyết" của mình trong việc quyết định và chấm
dứt mọi giao tranh quân sự , cũng như mọi sự can thiệp vào nội bộ của Miền Nam
Việt Nam "
Lời tuyên bố công khai nầy dù sao cũng đã được
nói lên tiếp theo sau một thông cáo đòi
"Đại Sứ Hoa Kỳ , ông Martin, phải đóng
cửa tòa đại sứ trong vòng 24 tiếng đồng hồ và đồng thời phải làm mọi cách để
tất cả những người Mỹ còn lại ở Miền Nam Việt Nam cũng phải rời khỏi lãnh thổ
Miền Nam Việt Nam trong thời hạn đó".
Và ngay sau đó ông M.Martin đã tức khắc cho
biết là ông sẽ làm đúng theo lời đòi hỏi đó.
Cuộc hành quân di tản những người Mỹ cuối cùng
và những người Việt Nam "có liên hệ" với Hoa Kỳ , theo kế hoạch đã
được Ngũ Giác Đài thiết lập, lẽ ra sẽ được tiến hành cho đến ngày thứ tư tuần
tới, 7 tháng 5 / 1975. Nhưng tình hình diễn tiến quá nhanh.
Từ thứ hai 29/4, Tổng Thống Ford đã có một
buổi họp khẩn cấp với Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Cầu Không Vận đã được thiết
lập để di tản người Mỹ và người Việt Nam từ phi trường Tân sơn Nhứt đã bị ngưng
trệ : nhiều loạt rốc kết và đạn pháo nặng 130 ly, kể cả bom, đã được nã vào căn
cứ Không quân lớn nhất nầy. Ngoài 11 chiếc phi cơ của Miền Nam bị phá hủy do bị
dội bom vừa qua, còn có 1 chiếc phi cơ vận tải C.130 của Hoa Kỳ bị cháy dưới
đất. Một chiếc trực thăng của Miền Nam chở 40 binh sĩ Dù trên đường bay đi Tây
Ninh đã bị trúng một hỏa tiển, bị nổ tung và cháy trên không thật khủng khiếp.
Có nhiều đạn rốc kết đã rơi vào Chợ Lớn, một
thành phố mà cư dân hầu hết là người Hoa kiều, nằm sát Sài Gòn. Một phóng pháo
oanh tạc cơ Skyraider có nhiệm vụ đánh bom vào các vị trí của các đơn vị cộng
sản Bắc Việt ở 7 cây số về hướng Tây Bắc Sài Gòn đã bị trúng một hỏa tiển tầm
nhiệt S.A.7. của cộng sản.. Và có nhiều cuộc chạm súng thật dữ dội đang diễn ra
trong vùng ngoại ô thành phố.
Hoa Thạnh Đốn không còn thời gian chờ đợi nữa.
Và Tổng Thống Ford đã ra lệnh cho Hạm Đội VII tiến hành ngay cuộc hành quân di
tản.
Vào lúc 11 giờ trưa ngày thứ ba nầy, thủ đô
Sài Gòn thật là hỗn độn không tả được .
Người Pháp cư ngụ ở các khu nằm ở chung quanh
thủ đô cũng đã bị "sơi" đạn pháo binh cộng sản nên họ phải đổ dồn về
trung tâm Thủ đô tìm ở với bạn bè đồng hương, vì không thể vào tạm trú ở trường
trung học Saint Exupéry theo đúng chỉ thị trước đây của tòa Đại sứ Pháp được .
Vị hiệu trưởng trường nầy đúng ra phải chịu trách nhiệm đón tiếp những người
Pháp nầy nhưng ông lại không nhận họ, viện cớ là "không có đủ dự trữ nước
uống và lương thực để bảo đảm sự sống cho họ".
Tất cả những người Pháp cư ngụ ở thủ đô gồm
các giáo chức, các nhà trồng tỉa đã rút về đây, các nhà buôn, chủ tiệm ăn hay
giám đốc xí nghiệp, đều đã treo cờ Pháp trước nhà ở, văn phòng, tiệm tùng v.v..
Có nhiều người Việt Nam bắt chước họ. Tất cả đều tin rằng lá cờ tam tài của
Pháp có thể cứu được sanh mạng và tài sản của họ nếu có xảy ra những cuộc đánh
nhau trên các đường phố. Và bất thình lình cờ xanh trắng đỏ được treo rợp trời
vào những giờ bi thảm của một sự sụp đổ nầy đã làm cho một vài khu vực của
thành phố có một bộ mặt lạ lùng khác thường của một ngày lễ 14 tháng 7 của
Pháp. Nhưng hỡi ôi ! đây chỉ là một ảo ảnh! một ảo ảnh quá đau lòng che đậy
những dấu hiệu lo âu sợ sệt đang tràn ngập cả thủ đô Miền Nam vốn đang rơi vào
tình trạng vô trật tự và vô Chánh Phủ .
Trên xa lộ Biên Hòa trước khi đến cầu Sài Gòn
mà gần đó là những căn cứ tối tân nhất của bến Tân Cảng, có 50 binh sĩ Dù dưới
sự điều động và chỉ huy của một đại úy, đang đánh nhau từ chiều thứ hai với một
toán đặc công để cố ngăn cản không cho họ đến được dạ cầu. Đặc công cộng sản đã
5 lần chiếm được cầu và cả 5 lần binh sĩ Dù đã chiếm lại cầu. Trên 50 xác cộng
sản Bắc Việt nằm đầy trên đường, mình mẩy đầy vết đạn, gần như họ đã chết rồi
mà vẫn còn bị tiếp tục ăn đạn của binh sĩ Miền Nam quá hăng say và quá cẩn thận
!
Bất chấp chiến trận đang diễn ra, một đám đông
dân chúng, đông như một đàn kiến đếm không xuể, đã tràn vào chiếm các kho hàng
của Tân Cảng để cướp bóc hôi của. Đó là đám dân đen khốn khổ ở các đồng lầy,
đói khát, và háu ăn. Họ chia ra làm 2 đoàn rõ rệt, những người mới tới, tay
không, và những người trở về mang đầy chiến lợi phẩm. Năm trăm người ? một
triệu người ? Không một ai có thể đếm được một cách chính xác, phần lớn là đàn
bà và trẻ nít, có rất ít đàn ông... họ càn quét đủ mọi thứ các kho đầy ấp hàng
viện trợ Mỹ.
Đám đông xô đẩy nhau để chạy đến nơi cướp bóc,
giẫm bừa lên các xác chết của bọn đặc công cộng sản làm bật lên tiếng kêu răn
rắc của xương gãy như cành cây khô ! Để trở về, đám đông dân chúng nầy phải
vượt qua sông, lội lõm bõm trong bùn. Một em bé khoảng 10 tuổi đầu toàn thân
đầy bùn đen và thối, nhưng tay vẫn đưa cao một bó cao su xốp rửa chén ! Hai bé
gái khá hơn quần áo cũng đầy bùn sình, mang một số nấm, pa tê và trái cây đóng
hộp. Một người đàn bà thu nhặt được hai bịch thuốc lá thơm và một máy xây sinh
tố. Một anh bạn khác thì khệ nệ bê một cách khó khăn một thùng sốt cà chua.
Một "chợ chồm hổm" được tổ chức ngay
bên đường: người ta mua bán, trao đổi trong cơn sốt tiền bạc ngay trong một
ngày có quá nhiều khủng khoảng quân sự lẫn chánh trị .
Binh sĩ trên các quân xa phải bắn chỉ thiên
mới vạch được lối đi cho đoàn xe.
Tấn thảm kịch sấp buông màn, chấm dứt. Còn
chưa phải là một sự hoãng loạn nhưng là một cuộc tháo chạy toàn bộ...
Từ sáng nay, không một nhà báo nào còn được
một tin tức gì từ giới chức có "thẩm quyền quân sự" về tình hình, vì
một lẽ rất đơn giãn là các giới chức nầy không còn ở đó nữa hoặc họ đã bị
"mất chức" không biết lúc nào.Tướng Minh đã cách chức tướng Bình,
Tổng giám đốc Cảnh Sát và An ninh quân đội . Kết quả là sáu chục ngàn (60.000)
cảnh sát và mười ngàn cảnh sát đặc biệt (10.000, hầu hết là các binh sĩ có tuổi
từ các binh đoàn thiện chiến) , đang kiểm soát thủ đô, đã không còn ai để chỉ
huy và ra lệnh cho họ. Vị Tổng Tham mưu trưởng quân đội Miền Nam được thay đổi
3 lần trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngày hôm kia là tướng Cao văn Viên, nhưng ông
đã ra đi cùng vị Tham mưu phó lẽ ra phải thay thế ông mới đúng. Ngày hôm qua là
tương Nguyễn văn Minh, nhưng ông chỉ ngồi đó có mấy giờ trước khi xách va li
chuồn mất. Chiều hôm qua là tướng Thiết giáp Vĩnh Lộc, một cây rượu mạnh, anh
em họ hàng với cựu hoàng đế Bảo Đại. Ông ta đã cổ võ binh sĩ trên đài phát
thanh và yêu cầu họ đừng "chạy như chuột giống như Tổng Thống Thiệu".
Nằm gần sân bay Tân sơn Nhứt, là Bộ Tổng Tham Mưu nhưng giờ nầy rất là vắng vẻ,
chỉ thấy còn lưa thưa ra vào một vài sĩ quan cấp tá. Các viên chức thì còn ở
nhiệm sở nhưng không một ông tướng nào còn trả lời khi điện thoại reo cả ở
trong văn phòng hoặc ở nhà . Trên trận địa, các đơn vị trưởng nào còn tiếp tục
chiến đấu thì từ đây phải tự lo liệu lấy cho mình thôi.
Ở trung tâm Sài Gòn, đột nhiên sự căng thẳng
lên cao độ, vì mọi người bây giờ đều biết là người Mỹ sẽ bỏ đi hết. Cuộc hành
quân di tản của Hoa Kỳ bắt đầu từ 11 giờ. Người Mỹ và những người
"bạn" Việt Nam nào đã được giới chức ngoại giao Hoa Kỳ báo trước đều
nhận được lệnh phải đến tập trung ở 13 điểm hẹn đã được dự trù từ trước : các
sân thượng hoặc các vườn chơi công cộng.
Và cuộc di tản bằng trực thăng bắt đầu. Các
chiếc trực thăng vận tải loại lớn của Thủy Quân Lục Chiến từ Hạm Đội VII , các
trực thăng riêng của Trung Ương tình báo, và trực thăng màu trắng bạc của hãng
Hàng Không Hoa Kỳ (Air America) bay là là trên các nóc nhà trong thành phố, có
trực thăng võ trang (trang bị rốc kết và đại bác tự động) bay theo yễm trợ.
Trên không phận lại có các chiến đấu phản lực cơ "Phantoms" lúc nào
cũng sẵn sàng can thiệp, nếu cần.
Ở Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ người ta hấp tấp đốt các
hồ sơ lưu trữ cuối cùng. Ngay trên nóc tòa Đại Sứ các trực thăng Huey đáp xuống
bay lên trong khỏang thời gian cách nhau rất đều.
Tò mò đứng từ các nhà chung quanh để quan sát,
thì đây là một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Phía trước những chiếc xe du lịch
đến đậu sát hàng rào sắt của tòa đại sứ, các chú tài xế mặc áo gi lê chống đạn
nhưng đầu vẫn không quên đội mũ cát kết trắng, vì các viên chức Việt Nam vẫn
nhất định phải tôn trọng lễ nghi cho đến cùng . Không biết các anh tài xế nầy
sẽ nghĩ gì sau khi các ông chủ của họ đã lên trực thăng và họ phải quay về các
khu vực bình dân giữa những tiếng nổ của đạn rốc kết?
Người Mỹ rời khỏi Sài Gòn bỏ lại xe của họ đầy
đường. Tức khắc, có những toán tháo gở từ vùng ngoại ô đến "làm thịt"
ngay tại chỗ. Thời gian cứ thế trôi qua và lần lần đám người tụ tập trước cửa
rào của tòa đại sứ cáng ngày càng đông, họ bu quanh sát tường và có người còn
có ý định trèo qua tường để vào bên trong tòa đại sứ. Trong số người cố bám vào
tường như những chùm nho với niềm hy vọng cuối cùng có thể "chạy"
khỏi đây để tìm tự do..., người ta thấy có đủ mọi hạng người, sinh viên, công
chức, lính cứu hỏa với mủ đồng còn trên đầu, các cô gái ăn sương, các bà mẹ trẻ
bồng con đưa lên thật cao, coi như họ trình lên một mẫu giấy thông hành sống là
các chú bé con lai mà cha của chúng là một anh lính Mỹ da trắng hay da đen tóc
nâu hay tóc đỏ nào đó... Các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến canh gác vẫn bình thản
và lạnh lùng dùng báng súng đẩy đẩy họ ra.
Một cảnh tượng thiểu não khác đã xảy ra bên lề
đường. Tướng Đặng văn Quang, mà mọi người đều tố cáo là kẻ cầm đầu đường dây
buôn lậu ở Miền Nam , lại không được có tên trong danh sách di tản do Hoa Kỳ
thiết lập. Khi ông ta đến trình diện trước cổng tòa đại sứ, binh sĩ canh gát
đuổi ông ra. Ông mới chạy lại gặp nghị sĩ Nguyễn văn Ngãi để van nài giúp đở
ông ta được trực thăng bốc đi. Có ai ngờ được, một ông cựu cố vấn quân sự của
Tổng Thống, một người đầy ngạo mạn và kiêu căng chểm chệ tác oai tác phúc hằng
mấy năm liền ở Dinh Độc Lập, giờ đây chỉ còn là một đống mỡ run rẩy vì sợ sệt.
Ông ta hết lạy van , cầu khẩn rồi lại viện dẫn đến mạng sống của vợ con và của
chính bản thân ông sẽ bị cộng sản giết v.v... xuống nước, kính cẩn, khúm núm
van xin.. Động lòng thương hại, nghị sĩ Ngãi đưa ông ta cùng đi với mình, cẩn
thận không nói rõ tên họ ông ta là ai, nghị sĩ Ngãi mới đưa ông ta lên được
trực thăng.
Nhìn từ bên ngoài, với đám đông người khốn khổ
đang khóc lóc, kêu la, cầu xin một lối đi để ra khỏi hỏa ngục nầy, cuộc hành
quân di tản nầy coi như rất ồn ào náo nhiệt và vô trật tự. Nhưng đối với những
người đã được vào khuôn viên tòa đại sứ rồi , thì sẽ thấy bô máy di tản hoạt
động hết sức chính xác. Các hành khách được đưa lên lầu thượng, từng toán 3
người một, đưa lên trực thăng (chở được 12 người một chuyến). Từ đó bay thẳng
qua phi trường Tân sơn Nhứt . Ở đây họ được đưa vào các dãy nhà thuộc Phòng Tùy
Viên Quân Lực Hoa Kỳ, trên nóc vẫn phất phơ lá quốc kỳ Mỹ. Các dãy nhà nầy lẽ
ra là mục tiêu rất tốt của cộng sản , nhưng vẫn còn nguyên xi, không hề hấn gì.
Mặc dầu lửa đạn gần suốt đêm qua trong khu vực phi trường, nhưng hình như các
dẫy nhà nầy được cộng sản cố ý chừa ra. Có nhiều trực thăng vận tải "Chinook"
đến từng toán 4 chiếc một, mỗi toán đỗ xuống một đại đội Thủy Quân Lục Chiến
trang bị đại bác không giật và hỏa tiễn chống chiến xa với đầu đạn
"Tows" có hồng ngoại tuyến. Thủy Quân Lục Chiến có trách nhiệm giữ an
ninh cho khắp cả vùng di tản. Mỗi chiếc "chinook" sau khi đổ Thủy
Quân Lục Chiến và quân dụng xuống rồi thì bốc luôn 45 hành khách Việt Nam ,
xong mới bay đi.. Thời gian bay khoản 1 giờ đến các chiến hạm của Hạm Đội VII
và trên 20 chiếc tàu vận tải đang đậu chờ rước họ ở 30 cây số ngoài khơi bờ
biển Việt Nam ngoài tầm tác xạ của pháo binh cộng sản Bắc Việt
Hành trình không gặp một trở ngại nào. Không
có một viên đạn, một hỏa tiễn , một trái đạn pháo binh nào được bắn đi từ dưới
đất lên các trực thăng to lớn đang nối duôi nhau rất đều đặn bay ra biển để đáp
xuống một trong hai hàng không mẫu hạm , chiếc Hancock hoặc chiếc Okinawa, từ
đó họ đã cất cánh bay vào Sài Gòn. Sau khi đặt chân xuống các chiến hạm rồi thì
người Việt Nam ai cũng bị các binh sĩ Mỹ rất đứng đắn nhưng cũng rất lạnh lùng
khám xét trong người thật kỹ, để được bảo đảm là họ không có mang theo vũ khí,
ma túy hay các loại y dược nguy hiểm. Sau đó họ mới được chuyển xuống các
thuyền cao su hay thuyền máy để đưa họ sang các tàu vận tải . Các thuyền máy
nầy chạy qua chạy lại như con thoi giữa các các chiến hạm. và các tàu vận tải.
Và các tàu vận tải nầy sẽ đưa họ về các trại định cư ở đảo Guam . Có nhiều
chiếc tàu vận tải nầy được Hạm Đội gọi trở lại cả ban đêm để "vớt"
những người tỵ nạn Việt Nam khác đang lênh đênh ngoài biển cả cách bờ biển Việt
Nam hàng trăm cây số, trên các tàu đánh cá, các thuyền buồm thô sơ, có đèn đốt
sáng rực, người trên thuyền dùng đuốc và đèn bấm, đèn lồng .. vừa vẫy gọi, vừa
chạy lại các tàu chiến của Mỹ . Tất cả các làng đánh cá dọc theo bờ biển từ
Phan Thiết đến Bình Tuy đều ra khơi và kêu cứu. Có hơn 20.000 dân tỵ nạn được
đưa lên tàu và được cứu khỏi nanh vuốt của cộng sản .
°
°
Tại Sài Gòn lưu lượng trực thăng của Mỹ vẫn
tiếp tục đều đặn, không ngừng.. ồ ạt bay suốt buổi chiều. Trước cổng tòa đại sứ
Mỹ có` đến trên 20.000 người đang chen chúc nhau đứng chờ với va ly cầm ở tay,
và nước mắt ràn rụa. Có một số người vào được cổng sắt và được bốc đi. Có nhiều
người dí hằng xấp đô la vào mũi các anh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhung họ vẫn
lạnh lùng không lay chuyển. Có hằng trăm xe chở đầy người mở còi nhấn kèn inh
ỏi chạy vào phi trường Tân sơn Nhất, nhưng không có một chiếc phi cơ nào cất
cánh. Và trước cổng phi trường quân cảnh đã có thiết lập một hàng rào cản có bố
trí súng liên thanh.
Lại có hằng ngàn người chạy xuống bến cảng để
cố gắng nhảy theo các tàu chiến, tàu buôn hay xà lan hoặc bất cứ một chiếc
thuyền nào đó để chạy khỏi thành phố nầy bằng đường sông.
Có khoản 200 người vừa sĩ quan vừa công chức
hay con buôn xuống được một chiếc tàu hàng còn tốt đang nhổ neo lúc 3 giờ chiều
để chạy ra biển. Họ không đi xa hơn được Vì vừa mới qua khỏi Nhà Bè thì chiếc
tàu bị trúng đạn pháo, nổ tung và chìm. Những người may mằn còn sống sót lội
vào bờ lại bị cắt cổ hoặc bị súng liên thanh bắn chết hết. Dĩ nhiên đô la và vàng
họ mang theo đều bị vét sạch.
Vào cuối buổi chiều thì tướng Trần văn Đôn và
con trai ông ta, một bác sĩ, được một chiếc trực thăng bốc đi. Trước đó vài
giờ, rất lịch sự như ông đã nổi danh, ông đã đến từ giã vị Đại sứ` Pháp... và
luôn tiện cũng để nhận thông hành Pháp của ông. Ông M. M. Mérillon cũng đã có
một vài lần nhờ vã đến tướng Đôn.. Từ nhiều tháng qua, và nhất là trong cơn
khủng hoảng của Chánh Phủ vừa qua, tướng Đôn được coi như là một phụ tá rất đắc
lực cho hoạt động trung gian chánh trị của người Pháp . Ông đã trực tiếp thúc
đẩy tướng Dương văn Minh đi tới, và trước Quốc Hội lưỡng Viện ông đã có một
buỗi thuyết trình quá thảm hại về tình hình quân sự. Có một lúc nào đó, ông M.
Mérillon đã mong muốn đẩy ông Đôn vào ghế Thủ Tướng của ông Minh. Hôm chiều thứ
hai, chấn động vì sự chống đối nhau giữa các trung tâm chánh trị của Miền Nam ,
tướng Đôn đã có ý định tự tử. Nhưng sau đó được giới thân cận lên giây cót an
ủi...nên cuối cùng đã quyết định nhờ Mỹ đưa đi., Trước khi lên trực thăng,
tướng Đôn đã nói với toán binh sĩ cận vệ của ông , những người đã không rời
khỏi ông nửa bước, rằng :
"Tôi bắt buộc phải ra đi thôi, vì nếu bọn
cộng sản mà tóm được tôi thì tôi sẽ bị bọn chúng hành quyết ngay. Còn các anh,
các anh chỉ là cấp nhỏ, các anh chẳng có gì nguy hiểm hết... và các anh có thể
lẫn lộn được trong dân chúng."
Mấy anh binh sĩ nầy với gương mặt rắn rõi, nắm
chặt tay lại buồn bã nhìn chiếc trực thăng cất cánh mang theo ông cựu tổng
trưởng Quốc Phòng của mình lòng nặng triệu không biết vì tức giận hay vì khinh
bỉ...
Không phải chỉ có một tướng Trần văn Đôn là sĩ
quan cao cấp đã rời khỏi Miền Nam Việt Nam . Đã có gần 60 vị tướng lãnh khác ra
đi như vậy. Như trung tướng Vĩnh Lộc, mới vừa sáng hôm qua đây đã từng kêu gọi
binh sĩ "đừng có trốn chạy như chuột" ; như tướng Bùi thế Lân, một vị
chỉ huy của Thủy Quân Lục Chiến , một người hùng đã rút quân bằng đường bộ từ
Đà Nẵng về Sài Gòn vừa lui binh vừa đánh du kích ; như trung tướng Trưởng, Tư
Lệnh Vùng I Chiến Thuật; tướng Thắng, thuộc binh chủng Pháo binh, một cử nhân
toán học và vô địch cờ, như tướng Toàn, tư lệnh Vùng III Chiến Thuật, người đã
giữ vững trong 4 tuần lễ mặt trận Miền Đông của Sài Gòn; như tất cả các giám
đốc An ninh và Tình Báo Quân sự , như vị Tư lệnh Không quân; như tướng Lưỡng
thuộc sư đoàn Nhảy Dù, người luôn luôn được binh sĩ của mình ái mộ.... và tướng
"thần phong" râu kẽm Nguyễn cao Kỳ, người đã từng thề sống chết với
khẩu súng trên tay, và người đã chê Tổng ThốngThiệu là quá nhát gan....
Tuy nhiên, cũng có một số người đã thẳng thừng
từ chối không rời khỏi vị trí chỉ huy và binh sĩ của mình khi được các tùy viên
quân sự của tòa đại sứ Mỹ trực tiếp liên lạc hay kêu gọi qua điện đài. Đó là
tướng Nguyễn khoa Nam, người cò trách nhiệm phòng giữ Đồng bằng sông Cửu Long,
tướng Lê minh Đảo, Tu lệnh sư đoàn 18 bộ binh , người đã giữ vững Xuân Lộc và
là người đã trả lời :"Các binh sĩ của tôi đã hăng say chiến đấu, làm sao
tôi nỡ bỏ họ được để đi trong lúc họ rất cần sự có mặt của tôi bên cạnh họ
?" tướng Lý tòng Bá, người chống giữ mặt trận phía Bắc, một tướng Kỵ binh
Thiết Giáp, tướng Lê nguyên Vỹ, người đã chiến đấu với phần còn lại của sư đoàn
5 bộ binh ở Trãng Bom, tướng Phú đang bị phạt giam , người đã tuyên bố với vị
Cố vấn Hoa Kỳ khi ông nầy đến tìm rước ông đi :
- "Tổng ThốngThiệu đã chà đạp danh dự tôi
khi ông công khai đổ lỗi cho tôi về chuyện mất Cao Nguyên Trung Phần..... và
ông ta đã ra đi như một người du lịch với những chiếc va ly mà ông đã soạn
sẳn.... Nhưng phần tôi, tôi sẽ ở lại, tôi sẽ tự tử và máu của tôi sẽ rơi trở
lại vào lưng ông ta. Tôi chỉ còn có một cách đó để đính chánh lời cáo buộc của
ông ta mà thôi"
°
°
Thủ đô Sài Gòn đã về đêm . Ở vài cây số về hạ
lưu sông Sài Gòn , để tránh những kẻ tò mò, có mấy chiếc tàu sà lan đang bốc
hằng ngàn người toàn là đàn bà và trẻ con thuộc gia đình của anh em Hải Quân.
Các sà lan nầy được các tàu lớn kéo đi, có thuyền máy võ trang hay các tàu
phóng ngư lôi hộ tống ra biển, ở đó có trên 30 chiếc tàu đang chờ họ. Tất cả
các tàu chiến thuộc các đơn vị lớn của Hải Quân Miền Nam Việt Nam đều rút hết
về đảo Guam . Trong bầu trời tối đen như mực của thủ đô, những chiếc trực thăng
Hoa Kỳ với đầy đủ đèn hiệu sáng rực của mình đã dùng đèn pha chiếu thẳng thành
những vệt dài sáng rực cắt đứt hẳn màn đêm. Ở dưới đất thì những cọc tiêu và
những đèn rọi đánh dấu các nóc nhà mà trực thăng sẽ đáp xuống bốc người đi.
Trên các sân thượng khác lại có những kẻ đau khổ lo âu đang đốt những cuộn giấy
hay giẽ có tẩm dầu. họ hy vọng lửa sẽ dẫn dụ được những con chim sắt khổng lồ
đến bốc họ ra khỏi nỗi lo sợ của họ và đưa họ ra khơi... cốt chạy khỏi bọn cộng
sản .... nhưng vô hiệu.
Đại sứ Graham Martin, người đánh giá cuộc hành
quân di tản như là một việc "không ra gì" thì muốn ở lại Sài Gòn và
chết ở đó. Ông ta chỉ phải rời khỏi thành phố nầy lúc 4 giờ sáng theo lệnh bắt
buộc của Kissinger. Với một tâm trạng đảo điên, quá mệt mỏi (ông thức suốt 72
giờ liền), ông đáp xuống hàng không mẫu hạm "Blue Ridge" đang nằm chờ
ông xa tít ngoài biển cả... sau đó ông vào phòng đóng cửa lại ngay để không cho
ai thấy được nỗi thất vọng của mình.
Những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng ra
đi vào lúc rạng đông sau khi đã phá hủy hết các dụng cụ điện tử ở tòa đại sứ và
không quên mang theo lá quốc kỳ.
Mười tám ngày sau khi di tản khỏi Phnom Penh,
Hoa Kỳ lại rời khỏi Việt Nam bỏ lại một thành phố Sài Gòn mặc cho nỗi lo sợ và
những tai họa sẽ dồn dập đến với nó. Hoa Kỳ chỉ có để lại nhà trống, vài nhà
báo (vì họ muốn ở lại) và khoảng 50 người có quốc tịch bị bỏ quên.Tức khắc các
nhà đó đều bị cướp phá.
Trong khi còn những ánh lửa đỏ rực bay trên
nền trời thủ đô và các vùng chung quanh thành phố, đã có hàng trăm hàng ngàn
người, vừa đàn ông đàn bà và trẻ nít đua nhau "làm thịt" tất cả các
vật dụng chết của tất cả các nhà vô chủ thuộc người Mỹ trong dĩ vảng.... Từ
những chiếc nệm giường, tủ lạnh, máy đánh chữ, máy giặt máy sấy, máy rửa chén,
máy thâu thanh, truyền hình, máy ảnh, máy quây phim, quạt trần, quạt máy, điện
thoại, cho đến từng cuộn giấy vệ sinh... thượng vàng hạ cám không bỏ sót một
vật gì, vì món nào cũng là tốt... xài được hết. Từ trước đến giờ lúc nào Chánh
Phủ cũng nghiêm cấm mọi hành động cướp bóc, và tuyên bố là sẽ xử bắn tại chỗ
những kẻ hôi của cướp bóc. Nhưng bây giờ thì những người lẽ ra có bổn phận phải
xử bắn kẻ cướp lại đi về hùa với kẻ cướp để kiếm chút chiến lợi phẩm cho mình.
Từ bên lề cuộc hành quân di tản ồ ạt của người
Mỹ, từ những người quá thất vọng cứ điên cuồng chạy rong cùng khắp, từ những
tiếng gằm thét của pháo nặng 130 ly Bắc Việt đang nã vào xóm làng công giáo ở
Hố Nai và những vùng lân cận, trong những giờ phút cuối cùng của ngày thứ ba
cuối tháng 4/75 nầy, Sài Gòn đã sống trong một hậu trường chánh trị quá sôi
động, không đo lường nổi một lối thoát khó tránh được của biến cố, nhưng nhờ
vậy người ta mới có thể thấy và hiểu thêm được không khí lố bịch trong địa hạt
chánh quyền mấy giờ trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
Một nhóm người bất mãn qui tụ các vị lãnh đạo
giáo phái, một số đại tá trẻ có liên lạc với các đơn vị còn đang chiến đấu và
Phó Đô Đốc Chung tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân... không tin tưởng khả năng và cơ
may của tướng Dương văn Minh có thể đi tới cuộc thương thuyết được với bọn cộng
sản . Họ sẳn sàng đứng lên lật đổ tướng Minh để phòng thủ Sài Gòn và vùng Đồng
Bằng sông Cữu Long và tổ chức kháng chiến với bất cứ giá nào . Họ cũng đã có dự
trù sẵn một người để thay thế tướng Minh nếu cần.
Vào hồi 12 giờ 5 phúr trưa rgày thứ ba 29
tháng 4 nầy, một đoàn xe 3 chiếc Jeep với 12 binh sĩ đã hộ tống Phó Đô đốc
Chung tấn Cang có ủy quyền của các đơn vị còn đang chiến đấu và một đại diện có
thẩm quyền của Phật Giáo Hòa Hảo thay mặt cho các giáo phái ở Miền Nam, đã đến gặp
tướng Minh tại nhà riêng của ông ta.
Phó Đô đốc và vị lãnh đạo giáo phái hùng mạnh
Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây đã vào tới phòng khách lớn của tướng Minh. Ông ta
đang chờ hai vị nầy ở đó, có vẻ rất mệt mỏi, với cặp mắt đầy âu nhấp nháy của
một người hoàn toàn vừa bối rối vừa mất ngủ từ hai ngày nay. Ông ta quá xúc
động và bất ngờ về chuyện cộng sản ném bom vào phi trường chiều ngày hôm qua.
Ông thú thật với hai người khách:
-" Tôi rất nản lòng. Tôi đã nhận được
những bảo đảm từ phía "bên kia", đại sứ Pháp đã xác nhận với tôi là
Chánh Phủ Pháp đã có một kế hoạch "hòa bình", và tôi sẽ có một thời
gian là 6 tháng để thương thuyết. Ông ta đã thúc đẩy tôi phải từ chối không
nhận chức vụ Thủ Tướng và phải cố đòi cho được ghế nguyên thủ quốc gia . Tôi đã
theo đúng những lời khuyên bảo của ông ta. Tôi lại còn thỏa thuận để soạn thảo
với ông ta một bản tuyên bố nói rằng "nước Pháp phải giữ một vai trò quan
trọng trong tiến trình tái lập hòa bình" ở đây . Và sau đó thì có cuộc dội
bom. Chỉ một vài phút sau khi tôi nhận nhiệm vụ. Thật là một điều lăng nhục
không thể chịu được . "
Tướng Minh lắc đầu hai ba lần và chua chát ông
nói tiếp:
- " Ông Mérillon không còn lý gì đến tôi
nữa! Ông ta đã đến đây gặp tôi sáng nay. Và đây là tất cả những gì mà ông có
thể nói được và nhắc lại với tôi : " rằng ông ta không còn một giải pháp
chánh trị nào nữa hết...., không còn kế hoạch nào nữa hết.. và rằng các đơn vị
cộng sản Bắc Việt đã tiến đến rất gần thủ đô rồi và rằng chỉ còn cách tốt nhất
là nên đơn phương ra lệnh cho bên mình ngưng bắn mà thôi." Đó là tất cả
những gì đại sứ Pháp đã nói với tôi sau khi đã bảo đảm với tôi trong bao nhiêu
ngày liên tiếp rằng kế hoạch của nước Pháp đã được "phía bên kia"
chấp thuận rồi ! "
- Và ông đã trả lời cho ông ta ra sao ? Phó Đô
Đốc hỏi
Tướng Minh nhỏm dậy một lúc, cặp mắt đờ đẫn;
- " Tôi đã nói là: tôi không thể ra lệnh
cho binh sĩ đầu hàng vô điều kiện như vậy được . Trái hẳn với danh dự... Dù sao
thì tôi cũng từng là sĩ quan của quân đội Pháp"
Vị lãnh đạo Phật Giáo Hòa Hảo xẳng giọng chen
vào:
- " người Pháp là người Pháp. Còn ông là
người Việt Nam, là nguyên thủ quốc gia và có trách nhiệm với tương lai của đất
nước. Ông đã nói với Tổng Thống Hương, và mới đây ông cũng đã nói với chúng tôi
là ông đã có nhận được bảo đảm của "phía bên kia". Vậy ông đã có liên
lạc gì với cộng sản , và họ đã bảo đảm với ông những gì?
Tướng Minh dụ dự một lúc hình như ông muốn nói
ra, nhưng sau đó ông cứng rắn trả lời
- "Tôi không thể cho ông biết những chi
tiết ngay bây giờ được".
Vị đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo đưa một ngón
tay chỉ ngay ông Minh và nói gần như tố cáo
- "Không phải chỉ có một mình ông thất
vọng và bọn cộng sản nuốt lời đâu. Còn có sự ngầm phá hoại đê tiện của người
bạn của ông, là tướng Trần văn Đôn, đối với tinh thần của quân đội và của Quốc
Hội. Trước hết ông ta đã bịp Lưỡng Viện Quốc Hội để họ ra một quyết định trao
quyền cho ông và cho ông có toàn quyền hành động. Ông ta đã vận động can thiệp
trước khi Quốc Hội bỏ phiếu bằng cách trình bày cho Quốc Hội một bản thuyết
trình gian dối về tình hình quân sự, thổi phồng lực lượng cộng sản Bắc Việt mà
theo ông ta thì họ đã bao vây Sài Gòn rồi. Không duới 14 sư đoàn Bắc Việt - con
số nầy ông đã lập đi lập lại nhiều lần sau đó qua điện thoại cho từng người
trong lúc Quốc Hội đang thảo luận để quyết định cho lá phiếu của mình.. Nhưng
các con số đó không đúng. Chỉ có vỏn vẹn 4 sư đoàn cộng sản đang trực tiếp đe
dọa chúng ta từ mặt trận phía Đông. Các sư đoàn khác thì còn cách đây ba bốn
ngày đường và trên đường tiến quân của họ, họ còn phải gặp 2 sư đoàn nguyên vẹn
của ta còn đang chiếm giữ trận địa . Các vị trí ở hướng Bắc thủ đô được tăng
cường rất mạnh. Đồng bằng sông Cữu Long vẫn chưa có hề hấn gì và chúng ta còn
đến 6 sư đoàn không kể gần trăm ngàn thuộc lực lượng địa phương quân. Tướng Đôn
còn từ khước không chịu cấp phát võ khí cho lực lượng Hòa Hảo, Cao Đài và công
giáo khi họ muốn chiến đấu. Chúng tôi có thể cung cấp thêm hàng trăm ngàn người
để chống giữ đất nước. Hãy mở cửa kho vũ khí cho chúng tôi. Hảy hiệu triệu quốc
dân đồng bào. Cần phải xác nhận quyết tâm của chúng ta để phòng thủ Sài Gòn .
Nếu ông muốn cuộc thương thuyết có được chút cơ may thắng lợi, thì chớ nên ra
lệnh vứt súng xuống hay nói rằng chúng tôi đã ngừng bắn rồi ! Nếu ông không
muốn kháng cự nữa thì hãy nhường chỗ lại cho một nội các cứu quốc, hoặc là quân
nhân và các giáo phái chúng tôi sẽ tiến hành một cuộc đảo chánh."
Tướng Minh ra vẽ suy nghĩ. Hiển nhiên là ông
đã đi sau tình hình rồi. Ông nhìn Phó Đô đốc Cang như hỏi ý .
Phó Đô đốc Cang khẳng định:
- "Quân đội không muốn đầu hàng!
- Tôi cũng không muốn như vậy. Tôi là một quân
nhân, và tôi không sợ chết. Và tôi rất chán cái màn hài bịch nầy lắm rồi. Bây
giờ thì tôi thấy là tôi đã bị lừa, và người ta đã lợi dụng tôi! Tôi sẳn sàng
rút lui, với điều kiện là phải tìm được một cái đầu thật sự biết làm chánh trị.
Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo đưa ngay lá bài
ra:
- "Đây, cái đầu đó có đây rồi :đó là ông
thủ tướng Trần văn Hữu. Các giáo phái sẽ ủng hộ ông ta vì ông ta luôn luôn có
một đường lối chánh trị khoan dung đối với họ. Các sĩ quan sẽ theo ông vì chính
ông đã thành lập quân đội quốc gia năm 1951, khi ông ta là Thủ tướng của nước
Việt Nam . Bộ chánh trị của Hà Nội biết ông ta và đánh giá cao ông ta. Ông ta
là một nhân vật của Quốc Gia có kinh nghiệm và là một người Miền Nam chính cống.
Hãy kêu gọi ông ta!
Ông Minh có vẻ nghe theo đề nghị nầy. Và ông
nói với một giọng thành thật:
- "Tôi biết ông ta nhiều .Tôi đã từng là
sĩ quan tùy viên của ông. Tôi kính trọng ông. Và tôi biết là các công chức vẫn
giữ nhiều kỷ niệm tốt về ông: vào thời kỳ ông làm Thủ tướng, mọi người đều được
trả lương hậu hỹ và đồng bạc Việt Nam rất có giá.
Phó Đô đốc Cang tiếp lời;
- "Vậy thì hãy gởi cho ông một công điện
đi.
Tướng Minh gật đầu và nói;
- "Rất đồng ý. Tôi sẽ tuyên bố trên đài
phát thanh và đài truyền hình trong một giờ nữa. Chúng ta hãy cùng nhau thảo
bản tuyên bố nầy đi."
Bản tuyên bố viết : "Tôi yêu cầu ông Thủ
Tướng Trần văn Hữu, một người yêu nước chân thành và đáng kính, hãy chấp nhận
lãnh đạo đất nước và đưa đất nước đến con đường hòa bình chân chính và trong
danh dự."
Lúc nầy đã 13 giờ hơn. Hai người khách của ông
Minh đứng dậy. Ông Minh tiễn họ ra ngoài cổng, thân mật bắt tay và còn nói :
- "Tôi sẽ tuyên bố công khai, Tôi hứa với
các ông như thế"
Phó Đô Đốc Cang trả lời:
- "Phần tôi, tôi sẽ lo các chuyên viên
truyền hình và truyền thanh để phối hợp loan báo lời tuyên bố của ông".
Phó Đô Đốc Cang và vị đại diện Phật Giáo Hòa
Hảo sau đó đi ngay đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân . Phó Đô Đốc gọi ngay được các
chuyên viên cần thiết cho công tác truyền thanh và truyền hình. Vào lúc 14 giờ
trưa thì tất cả sự bố trí về mặt kỹ thuật và chuyên viên đều đã sẳn sàng.
Nhưng, tướng Minh không đến.
Thật ra, sau khi ông bắt tay từ giả 2 người
khách, thì ông bước ngay sang phòng bên cạnh với những người cộng sự chánh yếu
của ông là Thủ tướng Vũ văn Mẫu và Tổng trưởng Thông Tin Lý quý Chung, những
người nầy đã ngăn không cho ông trao quyền lại cho ai hết. Nhất là ông Vũ văn
Mẫu, đặc biệt đã tỏ ra rất là cay đắng khi ông xác nhận:
- "Tất cả các điều kiện của họ chúng ta
đã thực hiện, để có thể mở ra một cuộc nói chuyện với "phía bên kia".
Người Mỹ đã đi khỏi nước Việt Nam hết rồi. Tôi đã loan báo là tất cả bộ máy
hành chánh từ trung ương đến địa phương sẽ nhanh chóng được cải tổ để cho hợp
với một chế độ tự do thật sự. Ông Trần văn Hữu ở tận Ba Lê, mà không có một phi
cơ nào có thể hạ cánh lúc nầy được .Chúng ta có chánh quyền và chúng ta phải
giữ nó. Phía những người cách mạng sẽ chấp thuận thương lượng cho một thỏa ước.
Tôi tin chắc như vậy."
Trong cuộc thương thuyết mà ông dự trù với
"phía bên kia", ông Vũ văn Mẫu định xử dụng lá bài chủ : "sự ra đi
của tất cả người Mỹ", điều mà ông ta đã bắt buộc họ phải rời khỏi nước
Việt Nam . Nhưng khổ cho ông, là ông không hề biết là con bài đó đã không còn
nằm trong tay ông nữa . Vì "người Mỹ phải rút hết khỏi nước Việt Nam
" đã là đề tài của một thỏa hiệp bí mật giữa Hoa Thạnh Đốn và Hà Nội từ
lâu rồi!
Tại Bộ Tư Lênh Hải Quân, Phó Đô Đốc Cang vẫn
tiếp tục chờ đợi...Đã hai lần ông cố gắng gọi tướng Minh, nhưng cả hai lần, ở
Dinh Độc Lập và cả ở tư dinh người sĩ quan tùy viên đều mhanh nhẩu trả lời lạnh
lùng: "Ông Trung tướng Tổng Thống không có ở đây"!
Đến 16 giờ, Phó Đô Đốc Cang mới quyết định báo
động cho đại sứ Pháp để nhờ ông chuyển về Ba Lê qua hệ thống vô tuyến điện, lời
mời của trung tướng Dương văn Minh đến ông Trần văn Hữu. Nhưng tổng đài điện
thoại của Tòa Đại sứ trả lời là "ông Đại Sứ đang bận họp" Phó Đô Đốc
Cang gọi lại 3 lần nhưng cả ba lần đều nhận được câu trả lời thoái thác tương
tự, có nghĩa là họ không muốn tiếp.
Bực tức và phẫn nộ, Phó Đô Đốc Cang gác điện
thoại xuống một cách giận dữ và tức tối càu nhàu:
- "Cái anh mất dạy Mérillon nầy (nguyên
tác "Ce salot....de Mérillon") không muốn dính vào nữa rồi đây. Khi
mà mọi việc êm xuôi thì ông ta đi đến đây ngay để gặp mình, hay cho xe riêng
đến đón mình. Bây giờ thì anh lại nhờ một anh "lon ton" đưổi khéo
mình !"
Còn vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo thì rời khỏi
Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi thẳng tới gặp các thành viên của mình đang họp tại một
biệt thự gần nhà ga Sài Gòn . Vào buổi chiều ông điện thoại cho Phó Đô Đốc
Cang, nhưng ông nầy đã rời khỏi Bộ Tư Lệnh để đi tổ chức cho các tàu chiến của
mình rút ra biển. Liên lạc giữa 2 người mất từ lúc đó.
Đến 9 giờ tối, vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo
nầy lại đến nhà tướng Minh ở đường Chasseluop Laubat một lần nữa . Nhưng ông
thấy vị nguyên thủ quốc gia Miền Nam lúc bấy giờ lại tỏ ra đần độn hơn buỗi
trưa nay nữa:
- "Tôi chẳng biết làm gì bây giờ. Nhưng
tôi không thể nào ra đi lúc nầy. Tôi phải ngồi lại cho đến cùng.... để bảo vệ
dân chúng và thủ đô khỏi bị tàn phá."
Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo buông ra một câu
hơi chối tai :
- "Ông là người không biết giữ lời hứa.
Ông không có đến đọc lời tuyên bố của ông trên đài phát thanh. Nhưng ông còn có
thể làm việc đó. Ông hãy bốc điện thoại lên và gọi ngay ông Hữu ở Ba Lê. Ông
dừng có do dự nữa...
Tướng Minh nhún hai vai:
-"Đã quá muộn rồi ! người Mỹ đã cho nổ
trung tâm điện đài hồi trưa nay rồi....
- Ông hãy nghe đây, vị đại diện giáo phái đáp
lại ngay, hồi sáng nay ông đã từ chối không chịu nói cho chúng tôi biết ông đã
bắt liên lạc với những ai ở "phía bên kia". Bây giờ Phó Đô Đốc Cang
không có ở đây. ông không phải bối rối về chuyện "mất thể diện" nữa .
Ông phải giải thích rõ cho chúng tôi. Ông hãy nói cho tôi biết ai trong số
những người của ông ở đây đã có đủ tư cách đi bắt liên lạc với "bên
kia" và họ đã nói chuyện với ai ?
Tướng Minh do dự một lúc lâu và sau đó tuông
ra hết :
- "Đó là con tôi, thằng Đức, nó đang là
sinh viên khoa chánh trị , nó đã gặp Võ văn Sung, đại sứ Bắc Việt ở Ba Lê. Ông
Sung đã nói với con tôi là Hà Nội và CPLTCHMN không có gì chống đối tôi hết và
họ chấp nhận sẽ thương thuyết với điều kiện là trên căn bản của sự thi hành
Hiệp Định Ba Lê "
Vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo bực tức thốt lên
:
- Nhưng đó là trò trẻ con ! Con của ông không
có một tư cách chánh thức nào cả. không có một sự ủy nhiệm nào hết để mà bàn
cãi với cộng sản . Và ông đã căn cứ vào một phúc trình đơn giản của một cuộc
nói chuyện riêng tư để làm việc ! Ông đã thực hiện cả một chuỗi dài hành động
chánh trị, ông đã làm áp lực với Tổng Thống Hương và lưỡng viện Quốc Hội để đưa
họ vào con đường vi phạm Hiến Pháp , ông đã lừa bịp dân chúng Việt Nam và trước
dư luận quốc tế bằng cách bắn tiếng là ông đã nhận được những bảo đảm của
"phía bên kia". trong lúc ông không có được trong tay một mảnh giấy
lộn nào từ "phía bên kia"! Bản thân ông cũng chưa bao giờ gặp được
một nhân vật chính thức nào của phía "bên kia".
Ông Minh còn cố chống chế:
- " Không phải chỉ có một mình con tôi,
Tôi đã nhận được những khuyến khích từ ông đại sứ Pháp Mérillon, nhân danh
Chánh Phủ của ông và những chuyên viên ở Phủ Thủ tướng Pháp.
- "Và bây giờ thì ông ta bỏ rơi ông như
một cái bị rách?"
Tướng Minh chấp nhận và đưa nắm tay lên tức
tối :
- " Đúng vậy, tất cả đều rất đúng.... Ông
ta chả cần biết việc gì sẽ xảy ra nữa ! Nhưng mà bây giờ tôi không có thề lùi
được nữa rồi. Tôi đã cam kết là sẽ tiến tới cuộc thương thảo. Và tôi sẽ gánh
hết trách nhiệm của tôi.. Những người có trách nhiệm ở phía bên kia bắt buộc
phải nghĩ đến một Chánh Phủ hòa hợp quốc gia ."
- " Nhưng cuối cùng, xin ông cho biết xem
ông trông chờ những gì ở người cộng sản ? Ông cũng biết rõ là từ chiều hôm qua,
đài phát thanh Hà Nội nhắc đi nhắc lại không ngừng là C PLT CHMN và Bắc Việt
không muốn bàn thảo gì với bất cứ người nào đã từng ở trong "tập đoàn Diệm
- Thiệu". Và như ông đã biết đó ;vị Phó Tổng Thống của ông lại là Chủ Tịch
Thượng Viện của Tổng ThốngThiệu. Vị Thủ Tướng của ông đã từng là Tổng trưởng
ngoại giao của Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm liền. Và bản thân ông cũng đã
là cố vấn quân sự của ông Diệm !"
Tướng Minh có vẽ sững sốt:
- Ở đâu lại có câu chuyện phát thanh đó vậy ?
- Ông đừng đùa nữa. Làm như ông không có bắt
đài phát thanh Hà Nội nghe vậy ? chuyện sơ đẳng quá mà ! Chỉ cần có nghe là sẽ
thấy những gì tôi nói là đúng hết. Cứ mỗi 15 phút là xướng ngôn viên nhắc lại
cái tối hậu thơ đó. Đây nầy...
Vừa nói xong vị đại diện Phật Giáo Hòa Hảo
liền đứng phắt dậy, đi lại máy thâu thanh để trên bàn và vặn kim điều chỉnh
đài. Một bài hát cách mạng nổi lên, tiếp theo đó là thông báo các chiến thắng,
kế tiếp là tiếng nói đanh thép của xướng ngôn viên Bắc Việt đọc một bản thông
cáo:
-" CPLTCHMN không sẵn sàng để thương
thuyết. Nguyễn văn Thiệu đã bỏ chạy. nhưng những người thay thế hắn, được biết
là tập đoàn Minh - Huyền - Mẫu vẫn còn ngoan cố vừa lớn tiếng kêu gọi quân đội
tiếp tục chiến đấu, nhằm giữ vững lãnh thổ còn lại, vừa đòi hỏi phải có thương
thảo. Thật quá rõ ràng là tập đoàn nầy đang ngoan cố tiếp tục muốn kéo dài
chiến tranh với hy vọng là giữ lại bọn thực dân mới Hoa Kỳ . Nhưng họ đừng có
hòng đu đưa trong ảo vọng ! Họ không có đại diện cho ai được hết và không lừa
bịp được ai đâu. "
Xem chừng như tướng Minh rụng rời cả chân
tay... ông thều thào:
- Tôi không biết được chuyện nầy, Không có ai
báo cáo cho tôi biết chuyện phát
thanh nầy hết ."
- Bây giờ thì ông đã biết rồi đó, vị đại diện
Phật Giáo Hòa Hảo vừa nói vừa đứng lên. Chỉ có một chuyện duy nhất mà cộng sản
đang chờ ở ông, đó là "đầu hàng không điều kiện." Không cần phải mất
sức để nói chuyện với ai nữa hết mới đi đến chuyện đầu hàng ! Phần chúng tôi,
trong bất cứ trường hợp nào, chúng tôi cũng không thể nào buông súng xuống được
".
Trong lúc vị đại diện các giáo phái di ra cửa ,
mất hút trong bóng tối của một hành động bí mật mới nào đó thì ông Minh ngã
người trong ghế dựa xét đi xét lại với một tinh thần bấn loạn. Có một chuyện mà
ông đã không có nói được cho người vừa đối thoại với ông. Đó là : Vào lúc trước
7 giờ tối, ông đã gởi một phái đoàn đến "trại Davis", một doanh trại
ở giữa lòng sân bay Tân sơn Nhứt , là nơi trú đóng từ tháng 2 năm 1973 của hai
phái đoàn quân sự của Bắc Việt và của CPLTCHMN thuộc Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên
(và sau nầy là Hai Bên), với nhiệm vụ kiểm soát sự ngưng bắn theo Hiệp Định Ba
Lê.
Nhưng các sĩ quan cộng sản đã từ khước không
chịu tiếp phái đoàn đại diện của tướng Minh., làm cho họ phải qua đêm đến sáng
sớm hôm sau trong một hầm trú ẩn.
Ông Minh cũng không dám cho vị đại diện các
giáo phái biết là trong suốt hai cuộc hội kiến với ông ta trong ngày, vị đại sứ
Pháp lúc nào cũng có mặt ở ngay phòng bên cạnh. Ông Jean Marie Mérillon đã ở
nhà tướng Minh gần suốt ngày thứ ba nầy . Ông ta chỉ vắng mặt có một lúc khi
ông phải đi vào Tân sơn Nhứt với một vị Tổng trưởng của ông Minh. Các đại diện
cộng sản ở đó đã xác nhận với hai người là
"Trong trường hợp tướng Minh ra lệnh cho
quân đội Miền Nam ngừng bắn thì chừng đó cộng sản mới sẽ không bắn vào thủ đô
Sài Gòn nữa."
Đại sứ Pháp đã chuyển câu trả lời đó cho tướng
Minh và hối thúc ông Minh sớm có quyết định. Tối hôm đó, Tổng Thống Minh ngã
người xuống ghế trường kỷ, nằm thao thức suốt đêm trước bể nuôi cá của mình,
nhìn cặp mắt tròn xoe của con cá để tự xét lại hành động của mình trong thời
gian qua...
CHƯƠNG
24: "BỘ ĐỘI" TRÀN VÀO THỦ ĐÔ
Thứ Tư, ngày 30 tháng Tư, 1975
Cuộc di tản ồ ạt và ồn ào của người Mỹ đã chấm
dứt. Chiếc trực thăng cuối cùng đã nặng nề cất cánh lúc tờ mờ sáng từ khu vườn
hoa của tòa đại sứ Hoa Kỳ làm tung lên một đám bụi, mù trời: đó là mớ tro từ những
tài liệu mà người Mỹ đã đốt suốt đêm qua.
Người dân Sài Gòn được nghe đài phát thanh Úc
đại Lợi mới được biết là Tổng Thống Ford của Hoa Kỳ vừa mới thông báo cho toàn
dân Mỹ là Hoa Kỳ đã chấm dứt sự hiện diện ở Việt Nam sau hơn 15 giờ thật dài lo
âu về một cuộc hành quân di tản khó khăn trong đêm qua đầy thảm họa.
Bản thông báo có chữ ký của Tổng Thống Gerald
Ford đã được phát ngôn viên của ông là Ron Nessen đọc trước ống kính truyền
hình :
- "Trong suốt tuần vừa qua, tôi đã cho
lệnh phải giảm nhân viên của các phái bộ Hoa Kỳ ở Sài Gòn xuống đến mức có thể
di tản họ nhanh chóng trong trường hợp khẩn cấp mà vẫn không trở ngại cho công
tác được giao phó.. Trong ngày thứ hai, phi trường ở Sài Gòn bị pháo binh và
rốc kết nã vào liên tục nên phải đóng cửa. Tình hình quân sự trong vùng đã tồi
tệ nhanh chóng. Vì thế, tôi đã phải ra lệnh di tản tất cả nhân viên Hoa Kỳ hiện
còn lại ở Việt Nam .
Bây giờ thì cuộc hành quân di tản đã chấm dứt.
Tôi ngợi khen hết tất cả những binh sĩ thuộc quân lực Hoa Kỳ đã tiến hành rất
tốt cuộc di tản nầy, cũng như Đại Sứ Graham Martin và nhân viên thuộc phái bộ
của ông, họ đã hoàn thành mỹ mãn sứ mạng của họ trong những hoàn cảnh thật khó
khăn.
Cuộc hành quân nầy đã chấm dứt một chương
trong lịch sử Hoa Kỳ . Tôi yêu cầu tất cả người Mỹ hãy siết chặt hàng ngũ,
tránh mọi đả kích lẫn nhau về quá khứ, để tiến tới tất cả những mục tiêu chung
của chúng ta, và hãy cùng nhau chung lưng góp sức vào những công việc lớn còn
lại của đất nước mà chúng ta phải thực hiện "
Sau đó vài phút ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Hoa
Kỳ, Henry Kissinger bằng một giọng nghiêm trọng và một vẻ mặt mệt mỏi, đã bình
luận với báo chí về những biến cố trong 24 giờ cuối cùng.
Ông ta đã chứng minh quyết định của Tổng Thống
Ford trong việc thi hành "Kế Hoạch Bốn" để di tản "những người
bị đe dọa nhất" qua một loạt tấn công của lực lượng cộng sản Bắc Việt vào
phi trường Tân sơn Nhứt . Không một lúc nào ông nói tới chuyện tướng Dương văn
Minh đòi hỏi sự ra đi của tất cả người Mỹ và phải đóng cửa tòa đại sứ Hoa Kỳ
trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Nghe Henry Kissinger nói, người ta chỉ thấy
quyết định cuối cùng của Hoa Kỳ ở Việt Nam chỉ do điều bận tâm duy nhất là phải
cứu mạng sống của những công dân Mỹ cuối cùng còn hiện diện ở Sài Gòn. Về vấn
đề nầy ông ta cho rằng mục tiêu đã đạt: chỉ tiếc rằng có 2 binh sĩ Thủy Quân
Lục Chiến bị tử thương vì đạn rốc kết đã rơi vào phi trường Tân sơn Nhứt trước
khi cuộc hành quân bắt đầu khai triển và có 2 phi công tử nạn vì trực thăng của
họ bị rơi ở biển Nam Hải..
Ông cũng cho biết là Hoa Kỳ coi như đã đạt
được một mục tiêu khác:là đã di tản 5.500 người Việt Nam ở Miền Nam cùng lúc
với 950 người Mỹ cuối cùng, thay vì trước đó "kế hoạch Bốn" (tức là
cuộc hành quân di tản bằng trực thăng) trên nguyên tắc chỉ có dự trù bốc đi
những công dân Mỹ mà thôi.
Cuối cùng về mục tiêu thứ ba, cũng như hai mục
tiêu vừa nói, ông Kissinger trích dẫn từ thông điệp mà Tổng Thống Ford đã nói
với thế giới ba tuần qua :Hoa Kỳ đã cố gắng tạo một tình hình cho phép tiến tới
một cuộc thương thảo ở Miền Nam Việt Nam . Ông Kissinger đã ước tính rằng chánh
sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã làm hết sức mình qua trung gian của các nước thứ
ba mà ông không muốn nêu lên đây. Ông cho biết là giai đoạn đầu của sự di tản
đã được tiến hành với sự dồng ý ngầm của Miền Bắc và của CPLTCHMN" mà
chúng ta đã cho họ biết rõ ý định của chúng ta". Nhưng sau đó ông ta không
chịu nhìn nhận là không thể giải thích được sự leo thang đột ngột về các đòi
hỏi của cộng sản . Đánh giá thái độ " không nhẫn nại" của họ, ông ta
ghi nhận
" Mới vừa tuần lễ trước đây, họ chỉ đòi
sự ra đi của ông Thiệu. Khi đã đạt được chuyện đó rồi, họ lại không thừa nhận
người kế vị. Nhưng sau đó khi đã tìm thấy được người đối thoại là tướng Minh mà
dường như họ đã đòi rồi, thì họ lại còn muốn thêm nữa.
" Mới vừa tuần lễ trước đây. họ chỉ đòi
các cố vấn quân sự Mỹ phải ra đi, vài ngày sau đó họ lại đòi sự ra đi của tất
cả những người Mỹ"
Trong những trường hợp đó, ông Kissinger từ
chối không thể nói trước được là một cuộc thương thyết có thể thiết lập được
giữa những người anh em thù địch hay không, hay là phải nghi đến chuyện Bắc
Việt sẽ dùng lực lượng quân sự để cưỡng chiếm Sài Gòn bằng võ lực đây. Trong
mọi trường hợp, ông ta xác nhận là Hoa Kỳ không nhìn nhận một Chánh Phủ Sài Gòn
lưu vong.
Thật không còn gì rõ ràng hơn ! dân chúng Sài
Gòn chua cay cười khẩy rồi mới chịu tắt máy thu thanh của mình. Kissinger vừa
mới viết trên tấm mộ bia của chúng ta :
- "Nước Việt Nam ư ? Đã hết rồi ! Và
người ta không muốn nghe nói tới nó nữa ! Cuối cùng Hoa Kỳ đã tìm lại được sự
yên ổn trong lương tâm của họ !"
Lúc nầy tiếng đại bác nổ rền liên tục ở ngoại
ô thủ đô Miền Nam Việt Nam , đang có những cột khói tuôn lên cuồn cuộn chung
quanh. Cuộc cướp phá hôi của không vì thế mà chấm dứt.... Có nhiều nhóm người
có vẻ như tướng cướp, mặc toàn đen hay quân phục kaki, súng M.16 cầm tay, băng
đỏ đeo ở cánh tay, đang lang thang khắp thành phố. Đặc công cộng sản xâm nhập
hay xuất hiện từ bóng tối ? Không phải ! Đó chỉ là bọn vô lại, bọn tự vệ của
các khu phố hoặc là bọn côn đồ chuyên nghiệp đang đóng vai tiền sát viên của
"lực lượng cách mạng" để đi vơ vét những nhà cửa hay biệt thự không
có người ở. Họ tự trang bị rất dễ dàng. trên các đường phố, các vỉa hè, ở các
cống rãnh... đâu cũng có nón sắt, áo giáp chống đạn, cạt bin và lựu đạn, thậm
chí còn có cả súng liên thanh nữa. Hàng trăm xe của người Mỹ bỏ lại chật đường
hay trong các khu chung cư, phần lớn đều chỉ còn có cái sườn chơ vơ, không vỏ
ruột, không ghế ngồi, không máy móc....
Chung quanh phi trường Tân sơn Nhứt ầm ỳ tiếng
súng của chiến trận đã trở lại từ sáng sớm. Các tiểu đoàm Dù tập trung trên các
đường bay đang anh dũng chiến đấu để giúp các phi công cất cánh mang đi được bao
nhiêu phi cơ hay bấy nhiêu . Hơn 130 phi cơ và 20 trực thăng đã đến được phi
trường Utapao ở Thái Lan, căn cứ B.52 của Hoa Kỳ , ngoài 18 chiếc phi cơ và
trực thăng khác đã đến được các chiến hạm của Hạm Đội VII trong các điều kiện
mạo hiểm hết sức khó khăn.
Vào hồi 8 giờ sáng, hai tràng đại pháo 152 ly
cộng sản đánh trúng ngay trường trung học Gia Long, làm cho 12 người chết ngay
tại chỗ, trong đó có một vị sư của chùa Xá Lợi ở gần đó. Nhưng đó chỉ là những
tràng tác xạ cảnh cáo hay để điều chỉnh mà thôi. Đồng thời lại có một loạt rốc
kết bay xuống thành phố người Hoa ở Chợ Lớn. Một chiếc trực thăng quan sát bị
rơi ở ngoại ô Phú Lâm vốn đang bị pháo kích.
Vào lúc 9 giờ sáng, tướng Dương văn Minh có
một phiên họp tại Dinh Độc Lập với ông Phó Tổng Thống Nguyễn văn Huyền và ông
Thủ Tướng Vũ văn Mẫu . Họ vẫn chưa có tin tức gì của phái đoàn đi vào gặp các
sĩ quan cộng sản ở "trại Davis ", Tân sơn Nhứt. Tướng Minh nhờ hai vị
nầy thảo một bản tuyên bố đơn phương ngừng bắn để lát nữa đây ông sẽ đọc trên
đài phát thanh Sài Gòn .
Đã không thấy còn lính gác trước dinh Độc Lập
nữa. Bất cứ ai muốn vào đây cũng được . . Một người nhỏ thó , nhưng mập mạp
bụng phệ bước qua cửa rào băng qua bải đậu xe và bước lên bậc thang danh dự. Đó
là tướng Vanuxem, một trong những cựu "thống chế" của De Lattre ở Bắc
Việt (nguyên tác: Tonkin ), chuyển sang nghề làm báo. Tướng Minh đã từng phục
vụ dưới quyền của Vanuxem, đã tiếp ông rất niềm nở và thân mật, rồi kéo ông ra
riêng, cảm động nói
- "Thưa Đại Tướng, không còn có
gì để làm được nữa rồi ! Để tránh một cuộc tàn sát, tôi sẽ đầu hàng cộng sản .
Ông là một người lính già, và chúng ta đã từng phục vụ chung trong cùng một bộ
quân phục, ông có thể nhận chuyển giùm tôi một thông điệp cuối cùng cho các
đồng hương của ông không ?
Tướng Vanuxem ghi vội mấy hàng chữ do tướng
Minh đọc cho ông:
- "Chúng tôi yêu cầu nước Pháp tiếp nhận
những người Việt Nam từng được nuôi dưỡng và đào tạo trong tinh thần, trái tim
và lý tưởng của quốc gia nầy. "
Sau đó tướng Minh vôi vàng lên xe Mẹc xê đét
(Mercedes) của Tổng Thống để đi đến đài phát thanh.
Hồi 10 giờ 15: tướng Minh loan báo qua đài
phát thanh bản tuyên bố của ông "ra lệnh cho tất cả binh sĩ và lực lượng
địa phương quân của Việt Nam Cộng Hòa phải bình tĩnh chấm dứt chiến sự và ở đâu
ở đó. "
Khi tướng Minh về đến Dinh Độc Lập, vẫn có 3
chiến xa M.48 của QLV NCH đang bố trí im lặng dưới những gốc cây to trong vườn.
Hai sĩ quan trẻ chạy lại gặp Tướng Minh, bực tức la lên:
- "Không thể có vấn đề đầu hàng. Chúng
tôi sẽ chiến đấu và sẽ chết tại đây.
Tướng Minh đưa hai bàn tay to lớn của ông ta
nắm chặt vai của họ và nói với họ bằng một giọng rất cương quyết::
- " Đã quá trể rồi các bạn ơi ! Nếu chúng
ta kháng cự thì họ sẽ nghiền nát thành phố bằng đạn pháo.
Sau vài phút bàn cãi, các sĩ quan nầy trở lại
vị trí và các chiến xa rời khỏi Dinh Độc Lập, chỉ để lại khoảng 30 binh sĩ với
nhiệm vụ "cận vệ" cho Tổng Thống .
Vào lúc 11 giờ 30, ở ngay trung tâm thủ đô,
một vị đại tá lớn tuổi thuộc Cảnh Sát Dã Chiến, trong lễ phục chỉnh tề chậm rãi
bước về phía kỳ đài "Chiến Sĩ Trận Vong" trước Quốc Hội VNCH . Đến đó
rồi, đứng dưới tượng hình to lớn của hai quân nhân uy nghiêm màu đồng đen,
người sĩ quan cảnh sát lột mủ cát kết xuống cầm đặt vào ngay trái tim của mình
xong rút súng bắn ngay một phát vào đầu. Ông ta bật té ngữa, nằm dài ra phía
sau , bất động trong tư thế nghiêm lần cuối cùng giữa một bãi máu đỏ đang lan
rộng ra.....
Tiếng đại pháo của cộng sản vẫn tiếp tục nổ dữ
dội hơn , càng lúc càng gần hơn, về hướng Tân sơn Nhứt , nơi các chiến binh
thuôc binh chủng Nhảy Dù đang đánh một trận chiến cuối cùng.
Trời Sài Gòn đang mưa...
Trong đại sảnh của Dinh Độc Lập, tướng Dương
văn Minh cùng các thành viên trong Chánh Phủ đang ngồi chờ cộng sản tới. Ông ăn
mặc thật giản dị, một quần màu chàm đậm và một áo bốn túi. Ông cho người sĩ
quan tùy viên biết là : "những người cách mạng không ai đeo cà
vạt"
Ông chấp tay sau lưng đi tới đi lui, như một
vị chủ nhà đang chờ khách đến . Ông không tỏ vẻ gì lo lắng hết. Tại sao phải sợ
? và sợ cái gì mới được ? Ông đã cho lệnh toàn quân ngừng chiến đấu. Hai điều
kiện mà phía "những người cách mạng đã đặt ra: đuổi hết người Mỹ ra khỏi
Việt Nam , và giải thể Quân đội và Cảnh Sát thì coi như đã thực hiên. Kể ra ông
cũng có thể chạy đi trong giờ phút cuối cùng bằng trực thăng. Nhưng ông thích ở
lại để chờ những người đại diện của CPLTCHMN. Xét cho cùng, những người lảnh
đạo của "phía bên kia" phải chăng cũng là người Miền Nam như ông ?
Tại sao ta không tin họ ? Ông sẳn sàng trao quyền lại cho họ. Ngoài chuyện
không thể thực hiện cuộc thương thuyết như đã hứa thì ông tin chắc rằng ông đã
cứu Sài Gòn khỏi một sự tàn phá và hằng triệu sinh mạng. Va sau đó người Pháp
còn có thể thực hiện được một phép lạ ! Tướng Minh bám chặt cho đến cùng những
bảo đảm mà đại sứ Jean - Marie Mérillon đã trao cho ông. Vài phút trước đó, ông
đã có nói thật câu nầy cho một nhà báo thuộc thông tấn xả A.F.P : "Ông hãy
nói rõ cho Đại Sứ Pháp biết là ông đã có thấy tôi ở đây..."
Một lời nói sau cùng có ý nghĩa, thống thiết,
nhưng hỡi ôi ! không có một chút giá trị nào !
Thình lình, tướng Minh giật nẩy người . Ông
nghe một tiếng động lớn, xen lẫn với tiếng xích xe. Ông nhìn đồng hồ: Đúng 12
giờ 4 phút . Vài phút đã trôi qua. Tiếng máy xe càng ngày càng nghe to hơn.
Đúng 12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T.54 cán dẹp những hàng rào cản sơn màu
trắng đỏ bao quanh Dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi sập cánh
cổng lớn và cán lên trên và tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, cày bừa lên các bãi cỏ
trong sân. Hai chiếc xe Jeep và một xe vận tải chạy đến , qua mặt các chiến xa.
Tất cả đều mang cờ của CPLTCHMN, (cờ của M TGP MN xanh đỏ với ngôi sao vàng ở
giữa).Trên 15 anh "bộ đội", mặc quân phục xanh và đội nón cối súng
trường cặp nách chỉa tới trước, có một sĩ quan cấp tá dẫn đầu, đang rầm rập
chạy lên các bậc thang trước bao lơn chánh.. Toán binh sĩ gác Tổng Thống Phủ đã
để súng xuống thành một đống trên sân từ trước , đưa hai tay lên và đầu hàng...
Một vài phút nữa trôi qua. Trên sân thượng của
Dinh Độc Lập xuất hiện một số lính với quân phục màu xanh. Họ hạ cờ vàng ba sọc
đỏ của VNCH xuống và từ từ kéo lá cờ của họ lên.
Trong lúc đó. vị sĩ quan cao cấp được 4, 5 chú
bộ đội súng ống đầy mình hộ tống, ập vào đại sảnh, nơi mà tướng Dương văn Minh
đang hội họp với những người cộng sự viên thân cận nhứt của ông ta. Thấy vị sĩ
quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân
đội nhân dân Miền Bắc, nên tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan
cao cấp.
- "Thưa ông quan sáu (nguyên tác : mon
général ( ông sao) ) ông nói , tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho
ông"
- "Mầy dám nói là trao quyền hả ?, vị sĩ
quan nầy dùng danh từ "mầy" (nguyên tác :tutoyant le Grand Minh) xẵng
giọng cãi lại, Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy không có quyền
nào để giao cho tao hết. Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng trên tay.
Tao xác nhận với mầy tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá và ủy viên
chánh trị . Và kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống !"
Mặt tướng Minh co dúm lại. Sự hung bạo của
những lời nói, giọng nói đầy khinh bỉ đanh đá của vị sĩ quan chợt làm cho ông
Minh hiểu rõ là ông không gặp được những người của C PLT CHMN, nhưng là những
người Bắc Kỳ (nguyên tác :Tonkinois). Mặc dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe,
nhưng không phải là những binh sĩ người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống.
Mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc
Việt thuộc lữ đoàn M. 26 ! chỉ toàn là người Bắc (nguyên tác :Tonkinois) mà ông
không bao giờ ưa và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như
một kẻ thất trận !
Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và nói tiếp bằng
một giọng mà ông muốn dịu dàng hơn:
- " Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm
để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua...
Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẳng
giọng:
- "Mầy và những đứa khác, tụi bây
đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng
tao sẽ ăn cơm dã chiến: một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn"
Tất cả các tổng trưởng hiện diện đều bị nhốt
trong một gian phòng, sau khi đã được khám xét không khoan nhượng. Bây giờ thì
Dinh Độc Lập đầy ấp nhà báo ngoại quốc. Họ tràn tới đầu các chiếc T.54.
Tướng Minh bị những tên "bộ đội" bao
quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy
ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh
và máy quay phim của báo chí. Những người cộng sản đưa ông đến đài phát thanh
để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến
đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn,
chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền
tin Phú Lâm,...
Vào hồi 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về
Dinh Tổng Thống và bị nhốt trong một văn phòng ở dưới tầng hầm.
Thế là nhiệm vụ của ông coi như đã hoàn tất.
Một nhiệm vụ đặc biệt rất là ngắn ngủi. Không đầy 48 tiếng đồng hồ, giữa giờ
nắm chánh quyền và giờ bị cách chức...
°
°
Trên đại lộ từ vườn bách thảo đến Dinh Độc
Lập, có nhiều chiếc tăng khác đi tới, dính đầy bụi bậm bùn sình hòa lẫn với cơn
mưa lắc rắc và trên xe còn nguyên cành lá nghi trang. Tất cả các pháo tháp đều
mở toang ra. Phía sau các khẩu liên thanh nặng với ổ đạn tròn, thấy có một anh
lính chiến xa đội nón cối bằng da đen đang ghì chặt bàn tay vào cò súng. Binh
sĩ ngồi hai bên khẩu đại bác lòng dài, hai tay nắm chặt khẩu súng tự động của
họ. Theo sau các chiến xa là bộ binh cơ giới, đứng chật nít trên các xe vận tải
Molotova của Nga . Phía sau các xe bộ binh là các dàn súng cao xạ, đi hàng ba,
cũng được cơ giới hóa và trang bị mỗi xe 4 khẩu liên thanh ghép.
Rất là cẩn thận và thật chậm rãi, nhiều toán
bộ binh cộng sản đi bộ vào đường Pasteur. Có một tràng súng nổ khoảng ngang Tòa
án. Rồi có tiếng lựu đạn nỗ, tiếng súng máy từng hồi tiếp theo. Các "bộ
đội" đi vào đường Tự Do (Catinat), con đường nổi tiếng là xa hoa của người
dân Sài Gòn . Một chiếc xe Jeep chở đầy "lính du kích" với quân phục
tạp nham, chạy một vòng chung quanh kỳ đài chiến sĩ Miền Nam và chạy lại trụ sở
Quốc Hội .Cửa của trụ sở đang được đóng kín. Có một người mặc quần xanh áo sơ
mi ka ki đã phai màu chân không, leo qua rào gỡ lá quốc kỳ Miền Nam Việt Nam
xuống và treo vào đó lá cờ của CPLTCHMN.
Chung quanh Quốc Hội và đường Tự Do vắng tanh,
không có một bóng người . Các tiệm buôn đều đóng kín cửa kể cả cửa sổ cũng sập
xuống. Không có một bó hoa hay những tiếng vỗ tay hoan nghinh chào đón những
người "giải phóng"
Xa xa, các súng đại liên vẫn còn tiếp tục nổ
ròn, thỉnh thoảng lại bị ngắt khoản bằng những tiếng nổ ngắn nhưng nặng nề. Các
binh sĩ Dù đang còn hăng say chống giữ lối vào phi trường Tân sơn Nhứt . Sáu
chiến xa T.54 và hơn một chục chiếc Molotova đang bốc cháy trên các đường bay.
Cuộc chiến còn đang tiếp diễn tại nghĩa trang lớn của quân đội giữa những hàng
thập tự giá trắng tinh dọc theo các mộ , và có những quả đại pháo làm bật tung
các hòm lên.
Các xe tăng cộng sản đầu tiên vào Sài Gòn từ
hướng Đông theo con lộ cũ hồi thời Pháp, và theo xa lộ Biên Hòa từ thời Mỹ.
Các cánh quân tiến vào từ Bến Cát và Tây Ninh
theo hướng Bắc xuống, chỉ đến được trung tâm thành phố vào lúc 17 giờ chiều. Họ
đến trễ vì bị đụng nặng từ chiều ngày hôm qua ở vùng Hóc Môn, nơi có trung tâm
huấn luyện Nhảy Dù do Lữ đoàn 4 Dù trấn giữ, tập trung dưới sự chỉ huy của đại
tá Vinh, một sĩ quan to con đen sạm đã từ chối không chịu tuân theo lệnh ngưng
bắn. Các cánh quân nầy của Bắc Việt bị thiệt hại rất nặng và sau đó còn phải
giao chiến ác liệt ở hai điểm trong dường phố: một ở trước Bộ chỉ huy Cảnh Sát
Lưu Thông, nơi đó hơn một trăm Cảnh Sát dã chiến chống giữ gần một tiếng đồng
hồ trước khi bị chiến xa cộng sản đè bẹp; và một nơi khác ở ngay ngã tư đường
Chasseloup và đường Verdun, ở đây chỉ có vỏn vẹn 4 anh lính Dù với súng liên
thanh và súng không giật đã quyết chiến trong hơn 50 phút, bắn cháy nhiều quân
xa cộng sản , sau đó vì hết đạn 4 vị anh hùng mũ đỏ nầy cùng nhau ra khoảng
trống giữa đường, cùng nắm vai nhau thành một vòng tròn và cho nổ một xâu mấy
quả lựu đạn để cùng nhau tự sát.
Lữ đoàn 4 Nhảy Dù, đã đánh nhau với cộng sản
chung quanh Tân sơn Nhứt , ngay trong Bộ Tham Mưu, ở đó họ dùng súng không giật
bắn cháy 3 chiến xa cộng sản và tối đến họ rút về trong trật tự bằng con đường
cũ kỹ của đồn điền cao su để về Chợ Lớn. Họ không hề để lại phía sau một người
chết hay bị thương nào cũng như một quân trang quân dụng nào.
Đến chiều tối, 400 binh sĩ mũ đỏ, rút về từ
Hóc Môn và từ phi trường, đã tập họp chung quanh đại tá Vinh, còn tiếp tục
chiến đấu ở khu chợ và các nhà máy xây lúa ở Chợ Lớn. Và lúc 22 giiờ đại tá
Vinh cho lệnh họ phân tán thành từ toán nhỏ, và lợi dụng đêm tối để đi về Đồng
bằng sông Cửu Long. Riêng vị đại tá Dù , một người đã từng "nhảy" ở
chiến trận không biết bao nhiêu lần, già dặn, đã từng được đào tạo ở Trung tâm
Nhảy Dù Pau của Pháp trong thập niên 50, không bao giờ chịu đầu hàng. Ông đã tự
cho nổ một phát vào đầu bằng chính khẩu súng phóng lựu của ông !
°
°
Thứ Năm, ngày 1 tháng Năm, 1975
Ngày hôm sau, 1 tháng 5, dân chúng Sài Gòn ngơ
ngác và nhốn nháo, quá ngạc nhiên tại sao mình vẫn còn sống, đã điện thoại với
nhau để cùng biết tin tức của nhau.
Trước tiên trong buổi sáng, có nhiều nhóm nhỏ,
rồi lần lần đông hơn, họ đi ra khỏi nhà để khám phá những trung đoàn binh sĩ
với quân phục xanh lá cây đã vây hãm thành phố của mình đêm qua. Mấy anh binh
sĩ với bộ mặt ngờ ngệch, gầy đến hai gò má nhô cao, mặc quân phục rộng thùng
thình bằng vải bố thô, cổ quàng khăn và chân mang dép râu, một loại dép làm
bằng vỏ xe cũ, mới thoạt nhìn trông như những anh nhà quê vụng về mới vào thành
phố lớn lần đầu tiên. Có nhiều anh chưa tới 16 tuổi.
Ở bãi cỏ rộng lớn rợp bóng mát trước Dinh Tổng
Thống người ta thấy đầy những xe tăng, xe chạy xích, và những chú "bộ
đội" đang ngồi quanh dưới các chiến cụ đáng sợ của họ. Và giữa những bãi
cỏ gần nhà thờ Chánh Tòa, họ đang nấu cơm bằng củi, coi như họ đang cấm trại
trong rừng vậy. Có nhiều người đang giặt quần áo. Phần đông họ đang soát lại vũ
khí cá nhơn, tháo ra lau chùi cẩn thận như những anh thợ đồng hồ. Các binh sĩ
thì xài súng A.K. 47 hay súng tiểu liên Tiệp Khắc ngắn mà tốc độ tác xạ nhanh,
bá xếp có móc. Sĩ quan thì xài súng lục của Liên Xô, có tên là súng lục Ma Ca
Rốp (Makarov) và loại súng lục Stechkin lớn hơn, vỏ bằng cây có thể ráp lại
thành bá súng để đưa lên vai nhắm bắn một mục tiêu xa chừng 120 thước được .
Người dân Sài Gòn cẩn thận bước lại gần các
chiến xa "Molotova" và bắt chuyện với các anh "bộ đội". Họ
tò mò hỏi
- " Các anh từ đâu vô đây vậy ?
Các câu trả lời lúc nào cũng giống nhau, với
một giọng phát âm hơi chói tai:
- "Từ ngoài Bắc ...
Và ngay sau đó mới là tên của thành phố hay
các tỉnh như Hà Nội , Nam Định, hay Ninh Bình v.v...
Không còn chút nghi ngờ nào nữa, tất cả những
anh lính chánh quy vào Sài Gòn là những người Bắc (nguyên tác Tonkinois). Miền
Nam không phải được giải phóng, mà là bị chiếm !
Không thấy có một anh nào thuộc cái CPLTCHMN.
Một "Ban Quân Quản" đang nắm quyền
hành chánh tại thành phố Sài Gòn, mà người chỉ huy là tướng Trần văn Trà, 57
tuổi, người tuy gầy nhưng rất mạnh khỏe, hàm rộng, đôi mắt sắc bén mang kính
gọng sừng, tóc đen và hớt ngắn. Tướng Trà là người ở Miền Trung, một người đấu
tranh cách mạng già dặn, đảng viên đảng cộng sản Đông Dương, bị tù năm 1939 ,
vượt ngục năm 1944. Từ năm 1946 đến 1951 ông là người đứng ra phối hợp hoạt
động của 4 vùng quân sự Việt Minh ở Miền Nam để chống lại lực lượng viễn chinh
Pháp. Từ sau Hiệp Định Genève, ông tập kết ra Hà Nội và trở thành Tổng Tham Mưu
Phó "Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt" và sau đó là Chủ Tịch Quân Ủy Trung
Ương ở Miền Nam . Ông cũng còn là Ủy viên dự khuyết cùa Chánh trị Bộ cộng sản ở
Hà Nội . Vào năm 1968, ông đã tổ chức cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, và năm
1972, chỉ huy trận tấn công vào An Lộc. Từ sau thời kỳ đó ông đứng vào hàng thứ
ba trong hệ thống quân ủy của Miền Bắc , sau tướng Võ nguyên Giáp và tướng Văn
tiến Dũng. Vào đến Sài Gòn vào đầu buổi trưa, ông đến ngay Dinh Độc Lập. Ông
cho tổ chức ngay buổi lễ chánh thức "bàn giao quyền hành", xử dụng
đội ngũ quay phim của cộng sản trong công tác thu hình để tuyên truyền, và ra
lệnh thả tướng Minh và các tổng trưởng của ông nầy ra hết .
Đến 4 giờ 30 chiều, tướng Minh rời khỏi phòng
giam ở tầng dưới. Ông bước lên bao lơn chánh của Dinh Tổng Thống lúc nào cũng
có lính canh chừng hộ tống bên cạnh, đi dọc theo hành lang có trải thảm đỏ để
vào căn phòng nhỏ của các tùy viên. Một sĩ quan Bắc Việt đến nói với ông :
- "Ông hãy ở đây đợi lệnh của
chánh quyền cách mạng "
Các nhà báo "xã hội chủ nghĩa" bước
vào phòng. người phóng viên của nhật báo "Quân đội Giải Phóng" đến
trước mặt tướng Minh và hỏi ông :
- " Ông nghĩ thế nào về những biến cố mà
ông vừa trải qua ?
Tướng Minh giữ im lặng trong một vài giây....
sau đó mới trả lời, không quên dùng toàn những danh từ mà cộng sản thường hay
xử dụng trong tuyên truyền:
- " Chúng tôi đã ý thức được sức mạnh của
Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời và của Quân đội Giải Phóng. Các đơn vị Thiết Giáp
của Giải Phóng Quân thật là hùng mạnh. Quân đội Sài Gòn không cón lực lượng để
chống trả nữa. Chỉ còn một quyết định đúng nhất là đầu hàng không điều kiện mà
thôi.
Và ông còn nói tiếp
- " Thật vậy, chúng tôi tin tưởng các
ông, nếu không thì chúng tôi không bao giờ đem cả gia đình chúng tôi đến đây để
chờ các ông tới. Các ông đã đi đến chiến thắng một cách nhanh chóng. chúng tôi
rất là có phước, thật sự rất là có phước . Chúng tôi và gia đình chúng tôi
không hề hấn gì . Thật là cả một niềm an ủi và một niềm vui ."
Ông Nguyễn văn Huyền, người lãnh tụ giáo dân,
quá mệt mỏi, được phép vào nằm nghỉ trong phòng. Để trả lời cho các nhà báo
muốn biết " ý kiến của ông về đường lối chánh trị của Chánh Phủ cách
mạng" , ông đã trả lời nước đôi với một giọng nhẫn nhục và dè dặt :
- "Chúng tôi không chấp nhận các
"người di tản" . Là người Việt Nam thì họ phải ở lại sống trên đất
nước quê hương của mình chớ?
Ông Vũ văn Mẫu, vị cựu Thủ Tướng thì tươi
cười, nhảy nhót và bày tỏ một niềm vui nhiệt thành ra mặt:
- " Các anh đánh hay lắm, đánh rất là hay
!" ông hướng về các anh cán bộ Bắc Việt đứng lẫn trong các nhà báo. Tôi
rất bằng lòng là đã duổi hết người Mỹ đi. Bây giờ thì chỉ có chúng ta với nhau
mà thôi".
Ông nhắc lại lịch sử của cái "đầu
trọc" của ông, "vào lúc đó là một dấu hiệu để phản đối sự bầu cử Tổng
Thống gian lận và độc diễn của ông Thiệu", và ông thích thú nói thêm :
- " Từ hôm nay là tôi sẽ để tóc lại được
rồi!"
Sau đó ông còn nói về nơi chôn nhao cắt rún
của ông lá quận Thường Tín của ông ở phía Nam Hà Nội nữa.
Ông Nguyễn văn Hảo, cựu Phó Thủ tướng và Tổng
trưởng Kinh Tế đưa tay lên và nói lớn
- " Thật là đáng phục là các anh đã đánh
bại được Hoa Kỳ , chúng tôi hy vọng là tất cả tài nguyên cửa đất nước sẽ được
dùng để xây dựng dất nước chúng ta ."
Ông Lý quý Chung, cựu Tổng trưởng Thông Tin,
nhắc đi nhắc lại nhiều lần ;
- "Chỉ có những binh sĩ và những người
chỉ huy của quân đội cách mạng mới thật sự là những người chiến thắng . Sự đóng
góp của chúng tôi thật là quá nhỏ nhoi."
Và sau vài phút suy nghỉ ông lại nói thêm :
- " Chúng tôi biết rất rõ tình hình.
Chúng tôi tin tưởng ở dường lối chánh trị của cách mạng. Cuộc chiến thắng vĩ
đại nầy thuộc về toàn dân Việt Nam . Từ đây về sau chúng tôi không còn một chút
bận tâm lo nghĩ gì nữa . "
Nhìn qua cửa sổ thấy đám đông dân chúng tò mò
đang tập trung đứng nhìn cánh cửa rào của Dinh Độc Lập bị xe tăng T.54 cán sập,
ông ta phân chứng với các nhà báo:
- " Các ông xem kìa, dân chúng đang chạy
lại để chào mầng chiến thắng của các anh chiến sĩ giải phóng đó . Chưa từng
thấy cái cảnh nầy ở đây bao giờ. Lịch sử của nước Việt Nam đã bước vào một kỷ
nguyên mới "
Vào lúc 5 giờ chiều: trong đại sảnh của Dinh
Tổng Thống đã diễn ra cuộc gặp gỡ chánh thức giữa những người đại diện của Ban
Quân Quản Sài Gòn - Gia Định và "16 nhân vật trách nhiệm của chế độ
cũ" ở Miền Nam . Thứ tự ngôi thứ được áp dụng triệt để nghiêm túc. Những
đại diện của Ban Quân Quản và những vị chỉ huy đơn vị của Quân đội Nhân Dân Bắc
Việt (11 tướng tá) được xếp ngồi ở hàng ghế danh dự, các ghế dựa có bọc lụa đỏ.
Trước mặt họ là tướng Minh và những thành viên khác của "cơ quan hành
chánh cũ" hai tay phải úp xuống đầu gối của mình.
Một đại diện của Ban Quân Quản thông báo cho
họ là Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời đã quyết định cho phép họ được tự do trở về
nhà. Ông bày tỏ hy vọng là tùy theo khả năng của mỗi người họ sẽ "đóng
góp" vào công tác xây dựng đất nước ."
Các vị tổng trưởng và tướng Minh "cảm
động" vỗ tay.
Tướng Minh sau dấu hiệu gật đầu của tướng Trà,
đứng dậy và bước tới mi crô và tuyên bố với một giọng run run :
- " Tôi xin thành thật gởi tới CPLTCHMN
và lực lượng thuộc Quân đội Nhân Dân Giải Phóng những lời chúc mừng nồng nhiệt
về chiến thắng hoàn toàn và quyết định vừa qua.
Ở vào tuổi 60 , tôi rất là hạnh phúc được trở
về với đời sống của một công dân thường của một nước Việt Nam thật sự tự do và
độc lập." (1)
Cả chương trình và diễn tiến của buổi lễ nầy
đã được dàn dựng chi ly từ Hà Nội và được các chuyên viên đưa từ Hà Nội vào để
quay thành phim từ đầu cho đến cuối. Cuốn phim nầy được trình chiếu trong tất
cả các rạp hát trên toàn quốc Việt Nam và ở những nước "xã hội chủ nghĩa
anh em"
Trong những ngày kế tiếp, các binh sĩ chánh
quy Bắc Việt thuộc các sư đoàn đã đánh vào Sài Gòn được phép đi dạo thành phố.
Thủ đô Miền Nam Việt Nam và mặt tiền của thành phố với các tiệm nữ trang, hàng
sơn mài, hàng sành sứ và đồ cỗ, cả tiệm cà phê với hai bên vách toàn kiến, với
các chợ đầy ấp mọi loại thực phẩm, thức ăn... đã làm cho các chú "bộ
đội" chóa cả mắt mũi và quá đỗi ngạc nhiên. Tất cả các binh sĩ nầy đều đã
in trí rằng mình phải "giải phóng" một thành phố đói nghèo đang bị áp
bức bóc lột, nhưng họ phát giác ra đây là một thành phố lớn ở Miền Nam , giàu có,
linh hoạt, hạnh phúc, chỉ bị ảnh hưởng một ít thôi về chiến tranh. Các anh
"bộ đội" trẻ đi phép nầy đi dạo từng cặp hai người một, bàng hoàng
choáng váng vì sự lưu thông ở đây, dán mắt khắp các tủ kính đầy ngạc nhiên như
những anh chàng nhà quê cục mịch. Các bác "phó nhòm" chụp hình lấy
liền bằng máy Polaroid trên đường phố làm họ càng sửng sốt hơn đến câm lặng
không nói được một lời nào. Họ đi lẫn vào các đám đông dân chúng, để thử cố
gắng bắt chuyện với họ, cố mỉm cười để tỏ ra là người có lễ độ.
Yên chí với tính trẻ con dễ dãi của các
"anh" người Bắc , người dân bé nhỏ và không có Chánh Phủ của thành
phố lớn nầy hội nhập rất mau với những người chủ mới. Lực lượng chiếm đóng bị
đưa vào tròng ngay: trộm và đổi chác vật dụng, từ hộp thực phẩm khẩu phần qua
những bao đường, đến những chuyện hút xăng ra từ các chiến xa hay các xe vận
tải, buôn đủ mọi thứ: tất cả các anh "bộ đội" đi phép đã nhanh chóng
không còn đồng nào trong túi, miễn là có được chiếc đồng hồ bằng nhựa không
chạy được, đôi kính chống nắng của Mỹ, chiếc máy thu thanh bán dẫn vừa mới đánh
cắp đâu đó. Người ta còn bắt họ hút thuốc cần sa mà họ vẫn không biết...
Những chú khác thì bị sắc đẹp của mấy cô gái
ăn sương mê hoặc, bị cám dỗ đưa vào các phòng ngủ qua đường để rồi vài ngày sau
lũ lượt kéo nhau vào khám bệnh hoa liễu .
Các xe mô tô của Nhật thì quá thành công. Các
chú "bộ đội" đèo nhau từng hai người , ba người, có khi đến bốn người
chạy bất kể, nổ máy liên hồi, báng vào các lề đường, đôi khi tông vào cột đèn
hay tuông vào bồn nước lớn ở đại lộ Charner.
Người dân Sài Gòn dứt khoát nghĩ rằng các chú
"bộ đội" nầy quả thật quá vụng về dễ bị "quay" lắm.
Nhưng trò chơi "láu lỉnh" nầy không
đứng mãi lâu được .Có nhiều xe phóng thanh bắt đầu chạy khắp nơi trong thành
phố cảnh cáo rằng trò "lừa bịp" các "giải phóng quân" là
bất lương.... và hành động bất lương đó sẽ bị "nghiêm trị"
Biện pháp ngăn chận đầu tiên nhắm vào các
"chủ trương quyến rũ, hủ hóa và mua bán đổi chác", Ban Quân Quản loan
báo là "các nhà thổ, các tiệm hút, các tiệm nhảy, bài bạc, kể cả mọi tàn
tích của xã hội suy đồi của Mỹ.Ngụy. bị cấm hẳn từ đây" .
Cứ mỗi 5 ngày là binh sĩ trú phòng sẽ được
thay đổi. Không còn thấy xăng lẻ bán ở lề đường nữa. Xe Honda cũng vậy. Lượng
xăng cạn dần và không còn được tiếp tế cho nữa, nên các trạm xăng tuần tự đóng
cửa. Xe đạp bắt đầu thay thế xe mô tô. Trên tường treo đầy các tấm bảng ghi rõ
là sẽ nghiêm trị thật nặng những ai còn tàng trữ vũ khí, đạn dược và máy truyền
tin.
Ngày 4 tháng 5: có lệnh cho dân
chúng Sài Gòn phải làm công tác vệ sinh và treo cờ trong thành phố để cho thành
phố của mình "trở nên sạch sẽ, tinh khiết, vui vẻ và cách mạng." Tất
cả mọi người đều phải ra quét dọn trước nhà mình. Có những người "tình
nguyện" thì đi hốt hàng đống rác hôi thối còn nằm trên lề đường hay trong
các cống rãnh từ bao nhiêu ngày nay . Các bà thì lo may cờ "giải
phóng". Dân chúng ở các khu nghèo là những người ít vội vàng trong việc
treo "cờ cách mạng " : cờ bán quá mắc, từ 1500 đến 1800 đồng một lá
(bằng tiền công 3 ngày làm việc)
Ngày 6 tháng 5, "nhân
dân" đập nát tượng đài chiến sĩ Việt Nam trước Quốc Hội :Đó là 2 anh chiến
sĩ Thủy Quân Lục Chiến đang trong tư thế xung phong súng chỉa tới trước mặt.
Tượng đài sập xuống gây nên một tiếng vang lớn.
Ngày 7 tháng 5, tức là một tuần lễ
sau ngày thành phố đổi chủ, Ban Quân Quản mới ra mắt lần đầu tiên với dân chúng
ở tại Dinh Độc Lập. Từ chiều hôm qua, người dân Sài Gòn được mời đến đứng ở bãi
cỏ trước Dinh, ở đó họ sẽ vỗ tay hoan nghênh những người lãnh đạo mới của mình.
Không biết vì không có thiện ý hay vì trời xấu (mưa suốt đêm qua) mà sáng nay
không có bao nhiêu người đến dự. Những người lạc quan thì ước tính sẽ có khoản
từ 20 đến 25 ngàn người. Và còn hơn thế nữa vì một phần lớn cử tọa phải được
tính là các anh "bộ đội" mặc quân phục . Đối với một thành phố có 4
triệu dân thì con số ước tính đó không có là bao . Đối với một thành phố được
"giải phóng khỏi 30 năm bị áp bức bóc lột" thì con số đó gần như
không có nghĩa gì hết. Trên bao lơn tướng Trà chánh thức đọc một bài diễn văn
đầu tiên. Đám đông giương các biễu ngữ và vẫy các lá cờ nhỏ. có quân nhạc và có
tiếng vỗ tay...
Nhưng thật quá rõ ràng là không thấy có niềm
vui nào ở đây hết. Các ủy viên chánh trị cố sức nhấn mạnh từng khẩu hiệu qua
ống loa cầm tay của họ, nhưng không thấy được nồng nhiệt những tiếng hô theo.
Nhìn chung, người ta thấy rõ là khán giả Miền Nam còn chưa có khả năng trả bài
thuộc lòng đối với những khẩu hiệu quá mới mẻ.
Ngày hôm sau, 8 tháng 5, tất cả 54
rạp chiếu bóng ở Sài Gòn cùng phải chiếu một cuốn phim duy nhất :"Trận
chiến Điện Biên Phủ".
Qua hình ảnh cũ từ hơn 21 năm, khán giả Việt
Nam thấy hằng ngàn binh sĩ Pháp thất trận đang đi ra khỏi hầm trú ẩn, hai tay
đưa lên trời. Một chút lịch sử được nhắc lại không đủ khả năng làm vẫn đục tâm
hồn thanh thản của các nhà ngoại giao Pháp đang mài miệt bênh vực cho đường lối
chánh trị vĩ đại của họ là " tình hữu nghị giữa Ba Lê và Hà Nội" .
Nhưng nó gây khó chịu sâu đậm cho những người công dân Pháp hiện còn đang bị
kẹt lại ở Sài Gòn .
Các nhà báo ngoại quốc được mời đến dự buổi
họp báo đầu tiên của Ban Quân Quản. Và cũng là một cuộc họp báo cuối cùng ! Bài
nói chuyện của tướng Trần văn Trà được một thông dịch viên dịch ra tiếng Anh và
ông đã trình bày quá dài dòng, chán ngắt về công tác vãn hồi trật tự và an
ninh, về sự biết ơn đối với các "quốc gia xã hội chủ nghĩa anh em" đã
đóng góp vào chiến thắng. Mạc tư Khoa được nghe nhắc đến nhiều lần, còn Bắc
Kinh thì chỉ nghe nói phớt qua.
Các nhà báo trong tuần qua đã cố tìm, nhưng
vẫn không hy vọng không gặp được một người đại diện nào của CPLTCHMN, Họ đã lên
tiếng hỏi tướng Trà về "sự vắng mặt không thể giải thích được của Chánh
Phủ Lâm Thời nầy" Tướng Trà cười trừ, trả lời xoay quanh để thoát khỏi ngỏ
bí :
- " CPLTCHMN đang ở trong Miền Nam Việt
Nam nhưng tôi không muốn nói với các anh là họ ở đâu.".
Thật là quá lạ lùng cho cái Chánh Phủ Lâm Thời
nầy !, không thấy mà cũng không thể tìm thấy, như thế là tính cách bí mật vẫn
tiếp tục một cách lạ lùng khi mà chiến tranh đã chánh thức chấm dứt rồi !
Đã từ lâu rồi, chúng tôi không còn tin theo
những lời hứa hẹn mà Hà Nội đã từng lớn tiếng tuyên truyền. Bộ mặt thật của
"một Miền Nam trung lập được giải phóng khỏi sự kềm chế của ngoại
bang".... hôm nay mới được thấy rõ. Chúng tôi cũng biết là xã hội chủ nghĩa
không thể áp dụng ngay được ở đây... Miền Nam là Miền Nam ... Chúng tôi luôn
nghĩ tới tính cách cá biệt của Miền Nam . Trước hết phải thành lập tại Sài Gòn
một Chánh Phủ đoàn kết quốc gia để hòa giải tất cả mọi công dân chung quanh một
chương trình tối thiểu nào đó. Sự thống nhất hai Miền rồi cũng sẽ tới sau
nầy.... nhưng phải dưới hình thức một "Liên Bang". Những ai đã từng
gắn bó quá ngây thơ trong trắng vào một sự hòa giải quốc gia tự nhiên giữa
những người anh em Miền Bắc và Miền Nam với nhau ... bây giờ mới cay đắng biết
rõ đó chỉ là một ảo tưởng .. Còn những ai hy vọng có thể nói chuyện với
"phía bên kia" thì bây giờ đây họ còn đang đi tìm những người đối
thoại với họ.
Vào những ngày cuối cùng trước khi mất Miền
Nam Việt Nam , các quan sát viên quốc tế đều ghi nhận là có một "khoảng
trống chánh trị " ở Sài Gòn .
Ngày hôm nay thì Sài Gòn không còn là một
"khoảng trống chánh trị" nữa mà là một "bãi sa mạc chánh
trị" nơi đó những "con ma" của CPLTCHMN được chờ đợi như một ảo
tưởng. Thật vậy, cái CPLTCHMN đã từng bị tàn sát trong cuộc Tổng Công Kích Tết
Mậu Thân (1968) chỉ là một con chim mồi không hơn không kém, cũng giống như cái
gọi là "lực lượng thứ ba Việt Nam không cộng sản"... tất cả đều không
ai nắm bắt được hết, và cũng không thể đại diện cho ai hết, nhưng chánh sách
ngoại giao Pháp đã quá khờ dại dựa trên đó để đặt niềm hy vọng bảo vệ quyền lợi
của nước Pháp . Không còn nghi ngờ gì nữa, quyền hành thật sự đang ở trong tay
của Quân đội Nhân Dân Bắc Việt . Và tướng Trần văn Trà người "chủ"
mới của Sài Gòn cũng chỉ là một công cụ của quyền hành đó mà thôi.
Vào ngày thứ năm 15 tháng 5, một cuộc diễn
binh rầm rộ đã nói lên sức mạnh quân sự của những kẻ thắng trận. Dẫn đầu , đi
sau một con rồng đỏ đang uốn khúc tượng trưng cho niềm vui và hạnh phúc, là các
em nữ sinh rất ngoan với quần đen áo dài trắng, rồi đến các phái đoàn dân chúng
mang biểu ngữ nhăng nhít đầy khẩu hiệu. Sau đó đến các trung đoàn thép của Bắc
Việt đi thành một khối :các "bộ đội đi hàng mười, có bước đi như ngỗng,
súng mang choàng qua cổ, mặt lạnh lùng. Kế tiếp là các chiến xa đi thành hình
vuông, đồ sộ , ồn ào, các xe ra đa, các thiết giáp xa và hàng trăm khẩu pháo
binh cơ giới hóa, và những giàn hỏa tiễn. Tất cả pháo binh Liên Xô ghê gớm đó
lẽ ra đã bắn 70.000 quả đạn (3000 cho mỗi khu) và 6000 quả rốc kết để nghiền
nát thành phố, nếu thành phố nầy không đầu hàng.
Đó là một cuộc trình diễn vĩ đại của chiến xa
T.54, của hỏa tiển S.A.M. 6 và S.A.M. 7... những chiếc "Kalachnikov",
những chiếc "Molotova" và những cỗ pháo 130 ly kinh hoàng. Các phi cơ
Mig 19 và 21 gầm rú trên bầu trời. Nhưng điều phải thấy trên hết và được thấy
trước nhất phải là : chiến thắng của những người Bắc Việt (nguyên tác:
Tonkinois). Ở giữa rừng người đang liên tiếp đi tới như những làn sóng lớn...
họa hoằn chịu khó lắm người ta mới nhận thấy được một vài xe vận tải chở đám
"du kích quân" của "M TGP MN" và một xe Jeep chở nữ binh
mặc đồ đen và đội nón "tai bèo" nhỏ.
Các hàng ghế danh dự trên khán đài được dành
cho phái đoàn 12 "anh lớn" dẫn đầu là 3 nhà lãnh đạo trong Chánh Trị
Bộ cộng sản : ông Tôn Đức Thắng, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ông
Lê đức Thọ, và tướng Văn tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Bắc Việt .
Chủ Tịch Tôn đức Thắng hôm nay phải là người
có một niềm vui thật lớn. Ông gốc người Miền Nam , sanh ở Long Xuyên, 85 tuổi,
từng là một người nổi loạn ở Hắc Hải, một người thợ điện cũ của hãng Renault,
nay là một ông lão trượng mệt mỏi và gần như điếc, được huân chương Lê Ninh, là
một người đã có một quá khứ đấu tranh cách mạng hơn nửa thế kỷ . Vào năm 1927,
chính ông là người đã thành công trong việc đánh cướp đầu tiên cho đảng cộng
sản Đông Dương trên đường sông khi ông cầm đầu một toán đeo mặt nạ dùng súng
lục chận cướp chiếc tàu đò Mỹ Tho. Ông bị bắt và bị kết án tử hình năm 1929,
sau đó được ân xá giảm án xuống còn 16 năm tù giam ở Côn dảo trước khi vượt
ngục năm 1945 để tiếp tục cuộc đấu tranh,
Ông Lê đức Thọ, một thương thuyết gia bền bỉ
của Hiệp Định Ba Lê và lý thuyết gia của đảng cộng sản Việt Nam , là một nhân
vật được biết nhiều ở Tây phương .
Tướng Văn tiến Dũng, người chiến thắng trong
cuộc tổng tấn công khắp Miền Nam , là người chỉ huy của tất cả lực lượng vũ
trang Bắc Việt từ sau khi tướng Võ nguyên Giáp bị lu mờ (2). Người béo lùn,
cương nghị và bí mật, tướng Dũng là một người Bắc Việt chính cống, gốc ở tỉnh
Nam Định giàu có. Là một người từng tham gia hết mọi chiến trận, cựu quân ủy
trung ương, một người cộng sản trung kiên và một chủ chiến không chối cải được
.. ông là một trong những nhân vật lãnh đạo chủ chốt của chế độ Hà Nội .
Ông không quá kiêu ngạo và với một trình độ
văn hóa kém hẳn ông Võ nguyên Giáp, con người tự học bền bỉ nầy đã chuẩn bị
hành động có tính cách quyết định số phận của Miền Nam . Ông là người đã thành
lập một sư đoàn đặc công để thi hành một trọng trách là làm tan rã hệ thống
tiếp vận của địch quân, và là người đã biết xử dụng hợp đồng binh chủng giữa
chiến xa và pháo binh của mình một cách toàn hảo.
Sự có mặt của ba nhân vật nầy ở Sài Gòn đã
mang lại cho buổi lễ "giải phóng" nầy một biểu tượng rất có ý nghĩa :
"ánh sáng nầy đã đến từ Hà Nội" . Dù muốn dù không thì tương lai của
quốc gia Việt Nam nầy cũng đã bị cột chặt vào một sự thật rồi : nó sẽ là một
quốc gia cộng sản , cách mạng và không thể chia cắt được . Về điểm nầy không
còn một chút nghi ngờ gì nữa, theo lời phát biểu sau cùng của ông Lê Duẫn, Tổng
bí thư đảng cộng sản Bắc Việt, khi nói tới Việt Nam thì ông đã coi như một Quốc
gia thống nhất rồi. Ông nói : "nước Việt Nam tốt đẹp đã trở nên toàn vẹn
từ Lạng Sơn đến Cà Mau"
°
°
Sự mềm dẻo tạm bợ của những người "chủ
mới" ở Miền Nam chỉ là một trạm dừng chân trên con đường phải đưa người
dân Miền Nam đi những bước đầu của cuộc cách mạng . Chỉ là một sự tạm nghỉ chân
có tính cách chiến thuật vì có một nhu cầu phải đặt lại các cơ cấu cải tạo và
ghép vào một số cán bộ cần thiết cho dân chúng đang còn cứng đầu khó dạy, quen
theo lối sống dễ dãi và khó thuyết phục, khó phục tùng bằng biện pháp quân sự .
Thời gian vui chơi đã qua rồi. Các cán bộ
chánh trị của Miền Bắc đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị. Cứng rắn, dẻo dai và
năng nổ họ đặt dân chúng Sài Gòn vào một mảng lưới, rồi càng ngày càng siết
chặt lại. Sài Gòn không còn được gọi là Sài Gòn nữa, mà là
"thành-phố-Hồ-chí-Minh" để kỷ niệm người cha đẻ của cách mạng Việt
Nam .
Đã hết rồi thời điểm của "một nụ cười và
một bàn tay thân thiện" . Bây giờ đã đến thời điểm của sự "đe
dọa" và của những "bước đi mới". Gọng kềm đột nhiên khép chặt
lại, trước hết là trong những khu vòng đai ở Gia Định, Tân Định, Gò vấp... nơi
mà các "ủy ban nhân dân" đã được thàh lập xong, và tiếp theo đó lần
lượt vào trong thành phố.
Từng khu, từng đường, từng ngỏ hẻm, từng nhà
một... tất cả đều được thanh lọc. Kiểm tra từng người, ai cũng được gọi lên,
được hỏi về cá nhân mình, về gia đình mình, về những người chung quanh mình, và
được trưng tập vào một lớp học tập chánh trị .... cũng được gọi là công tác làm
sạch đường phố hay là "dọn cho sạch rác rến"
Tất cả trường từ tiểu học trung học cho đến
đại học đều phải đóng cửa. Tất cả những tổ chức và sinh hoạt văn hóa "phản
động, đồi trụy và dơ bẩn của đế quốc và của tay sai Thiệu" đều triệt để bị
nghiêm cấm.. Nói trắng ra là tiêu hủy hết mọi phim ảnh, đĩa nhạc ngoại quốc,
tất cả những tác phẩm văn hóa thế giới như của Balzac, Dostoiievski, Faulkner,
Camus, Gogol đều bị đốt hết lẫn lộn với các tạp chí tình dục loại Play Boy, kể
cả các "cuộc phiêu lưu của Tarzan" .
Các giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên học sinh
mỗi ngày phải đến họp từ 9 giờ đến 1 giờ trưa để tập đồng ca những bài hát cách
mạng, tập vỗ tay cho ăn nhịp hay tập "đọc" tập "hô" những
khẩu hiệu.
Nhiều đoàn người mệnh danh là trưởng giả, là
tư bản, là trí thức, là cựu công chức đã biết "ăn năn hối cải" bắt
đầu đi riễu trên các đường phố với những tấm bảng đeo trước ngực với nội dung
đại loại như "Tôi đã phản bội cách mạng", "tôi có bạn người
Mỹ", "tôi đã cộng tác với kẻ thù" v.v...
Hết khu nầy đến khu khác, nhiều toán người nhỏ
thó mặc quân phục xanh lá cây trèo lên bao lơn, hay các cột điện để chăng dây
và treo loa, để cho dân chúng nghe ra rã những bản nhạc quân hành ầm ĩ suốt
ngày...
Trên tường đâu cũng treo đầy hình to lớn của
một ông già có chòm râu dưới cằm: hình của Chủ Tịch Hồ chí Minh. Nguyện vọng
duy nhất của ông là tất cả nhân dân Việt Nam phải tôn thờ ông . Tất cả những sự
tuyên truyền đều tập trung vào ông nầy, vào cuộc đời của ông, vào những tác
phẩm của ông, vào những bài thơ của ông mà ai cũng phải học nằm lòng . Ông vừa
là một Thánh nhân, một vị tiên tri vừa là một vị Thần hộ mạng của cựu thủ đô
Miền Nam lúc này đã mang tên của ông. "Di chúc" của ông là một sự chỉ
dẫn hoàn hảo, một giáo lý mà tất cả mọi người "Việt Nam thật sự" phải
theo..
Nhịp nhàng với hành động tâm lý chiến của các
"cán bộ" (ủy viên chánh trị), ảnh hưởng của mấy chú "bộ
đội" thuộc quân đội nhân dân Bắc Việt mỗi ngày một nặng nề thêm lên, và
càng ngày càng thấy rõ bộ mặt của một quân đội chiếm đóng.
Ban ngày thì các đội tuần tra khoảng 20 chú
"bộ đội", với nét mặt hùng dũng, căng thẳng, đi cách nhau chừng 5
thước, tay ghì vào cò súng, đi rảo khắp thành phố, canh chừng các ngã tư, hoặc
thiết lập các rào cản.
Ban đêm thì cả một trung đội đi khắp nơi trên đường
phố lúc nào cũng vắng ngắt, vừa đi vừa lắc cắc khua cò súng AK.47 của họ.
Thường thì họ phục kich sau các cây trồng dọc đường và bắn lên nhiều tràng súng
dài vào các bóng đen thoáng qua, lặng lẽ.
Thế nhưng mặc dầu lớn tiếng hăm dọa, với những
áp phích, những phim ảnh phải xem, những buổi học tập cải tạo tập thể... người
dân Sài Gòn vẫn cứng rắn và tham gia các buổi "sinh hoạt cách mạng"
một cách lặng lẽ, hờ hững.
Cả ba buổi họp lớn đầu tiên trong tháng 5
(ngày 1, ngày 7 và ngày 15 tháng 5) chỉ qui tụ khoản vài chục ngàn người ,
không hơn được.
Ngày 15 tháng 5, "ngày lễ chiến
thắng", trong khi các sư đoàn Bắc Việt rầm rộ diễn hành, các toán cán bộ
cổ vũ đặt ờ các ngả tư đường không thành công được trong nhiệm vụ hô hào dân
chúng vỗ tay hoan nghênh quân đội chiến thắng Miền Bắc . Chẳng những thế mà còn
có rất nhiều khán giả Miền Nam khóc sướt mướt nữa.
Chế độ cũ đã phát hàng chục ngàn súng cho dân
vệ trẻ trong các khu gia cư. Thủ đô lại có gần trăm ngàn Cảnh Sát được trang bị
súng M.16, súng lục 32 và lựu đạn. Phía Bắc Việt đã tự thú nhận là mặc dầu đã
treo nhiều giải thưởng cao cho những sự tố giác, nhưng chỉ thu hồi được một số
rất ít ỏi vũ khí nầy.
Nhiều người dân Sài Gòn còn đi xa hơn nữa là
họ từ chối không chịu đầu hàng..Một số tướng lãnh đã tự tử như: tướng Phú, cựu
tư lệnh Vùng Cao Nguyên Trung Phần, đã uống nguyên một ống thuốc nivaquine và
chết tại bệnh viện Grall; như tướng Nguyễn Vỹ, cựu Tư Lệnh sư đoàn 5 bộ binh ,
tướng Nguyễn khoa Nam và Tướng Lê văn Hưng, Tư Lệnh và Tư Lệnh Phó Vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long; tướng Nguyễn văn Hai, Tư lệnh sư đoàn 7 bộ binh .... Nhiều sĩ
quan khác, các nhân vật và các chánh trị gia đã tự kết liễu đời mình bằng thuốc
độc hay bằng cách tự bắn vào đầu. Trong số những người nầy có ông Trần chánh
Thành, cựu Tổng trưởng Thông Tin , một trong những người đối lập hàng đầu với
Tổng Thống Thiệu; tất cả thành viên trong một gia đình công chức cao cấp (sáu
người) và cả 3 người giúp việc trong gia đình. Một cựu hạ sĩ quan Dù tự tử ngay
giữa chợ bằng cách tháo chốt một trái lựu đạn và nằm lên trên và la lớn lên
:"Chúng bây không bao giờ bắt sống được tao đâu..đồ bọn cướp đểu giả
!"
Trái lựu đạn nổ tan xác anh thành nhiều mảnh,
trừ chiếc mũ bê rê đỏ của anh, nhưng không một ai dám nhặt lấy...
Một tuần lễ sau khi tượng đài "chiến sĩ
VNCH" bị hạ bệ, có một vị cựu binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến của Miền Nam tẩm
xăng tự thiêu như những nhà sư trước kia đã làm để phản đối "chế độ thối
nát" . Ông ta cháy như ngọn đuốc trong nửa giờ, trước hàng trăm dân chúng
Sài Gòn đứng sững sờ nhìn ngọn lửa trên bụng anh làm cháy đen cả hai cánh tay
anh. Một giờ sau, đài phát thanh Hà Nội cố làm nhẹ biến cố nầy bằng một bản tin
được loan đi, nói rằng: "người tuyệt vọng nầy cầm trên tay một tấm giấy
trên đó ông viết "tôi đói lắm" ! (3)
Ngày hôm sau phát ngôn viên của Ban Quân Quản
lại đưa ra một lời giải thích thứ hai :
- "Đó là một phật tử chống đối
chế độ Thiệu. Anh ta để lại một bức thư nói rằng: cuối cùng đất nước tôi đã
được giải phóng khỏi ách độc tài, nhiệm vụ tôi đã hoàn tất và tôi chỉ còn có
chết mà thôi."
Cả hai luận cứ mâu thuẫn nầy không dối gạt
được người nào hết. Người dân Sài Gòn chứng kiến tận mắt cái chết của anh Thủy
Quân Lục Chiến có thể sẽ không nói được tại sao anh ta tự tử. Nhưng họ biết rõ
nơi anh chết: đó là trên đống ximăng nát vụn của tượng đài hai anh lính Thủy
Quân Lục Chiến tượng trưng cho lòng can đảm của người lính chiến VNCH.
Tất cả những người chết để khỏi phải kéo lê
kiếp sống nô lệ như thế rất xứng đáng được kính trọng....
Các nhà báo đôi khi đưa ra những nhận xét đơn
sơ không muốn nói nhiều hay chỉ muốn mua lòng độc giả bằng một câu nói bâng quơ
bóng bẩy.
Một trong những bạn đó, một người cũng nổi
tiếng lắm, được trui rèn trong tài nghệ và cũng có khá nhiều độc giả trên khắp
thế giới, đã đưa ra một câu quá bất công và quá tàn nhẫn khi viết về cái chết
của tướng Phú :
- "Tướng Phú, Tư Lệnh Vùng Cao Nguyên đã
từng là một người lính rất tốt ở Diện Biên Phủ, đã không còn tốt nữa khi ông ta
nhận bổng lộc của ông Thiệu như những người khác".
Nhà báo nầy không có quyền chửi bới, mạt sát
hay lên án một người đã chết, nhất là khi anh chưa biết người đó là ai và dĩ
nhiên chưa bao giờ thấy được hành động của người ta trên trận địa. Những ông
được xem như là "chúa tể" của Dù ở Điện biên Phủ, tôi muốn nói như
Langlais, Bigeard, Bizard, Touret và Botella, can đảm tột bực và không bao giờ
biết xúc động,, họ rất quý mến và đánh giá cao ông trung úy nhỏ con tên Phú nầy
mà họ coi như là một sĩ quan rất có giá trị trong quân đội Việt Nam . Tướng Phú
là bạn của tôi (tác giả). Tôi đã biết ông ta từ lúc 23 tuổi. Lúc nào ông ta
cũng đánh trận và đánh giỏi ... trên khắp nước Việt Nam . Trong vùng thối nát
như Cao Lãnh, khi ông là Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, cũng như khi ở Lào ông đã
chiếm lại Tchépone và trong 2 ngày đã đánh tan một trung đoàn thiện chiến thuộc
sư đoàn 312 Bắc Việt chuyên chiến trận ở miền núi. Ở phía Tây thành phố Huế,
năm 1972, ông đã giữ vững vùng Bastogne với sư đoàn đầu tiên của ông và làm
thất bại sư đoàn 308 được mệnh danh là sư đoàn sắt của quân đội Bắc Việt . Con
người ông tướng Phú chỉ còn có một lá phổi, thường hay khạc ra máu và mặc dầu
bị các bác sĩ cấm bay 10 năm nay nhưng ông vẫn tiếp tục lên trực thăng mỗi
ngày, bay lên mặt trận và đáp xuống tiền tuyến. Tôi thường đi theo ông ta,
thường ăn chung và ngủ chung một lều với ông ta. Tôi cũng biết bà tướng Phú,
một người nông dân chất phát và 9 người con của ông . Tướng Phú nghèo nhưng
được binh sĩ của ông kính trọng. Ông không biết buôn lậu và coi rẻ tiền bạc.Ông
chỉ ở ngoài mặt trận, không bao giờ nghĩ đến chánh trị và cũng ít lui tới Dinh
Tổng Thống.. Một buổi chiều nọ ở Huế, ông đã buồn bã tâm sự với tôi: "Ở
Điện Biên Phủ, thiếu tá Botella mà tôi thương mến như cha tôi vậy, đã có nói là
tôi sẽ được tuyên dương với "Bắc Đẩu Bội Tinh". nhưng tôi chưa bao
giờ nhận được nó.Tôi đã được tuyên dương 27 lần với tất cả huy chương cao quý
nhất của Việt Nam và của Hoa Kỳ . Nhưng tấm huy chương "Đỏ" đó mới là
huy chương đẹp nhất thế giới!"
Một buổi sáng nào đó năm 1954, tướng Phú là
người sĩ quan Việt Nam cuối cùng đã bắt đoàn quân hát bài quốc ca Marseillaise
của Pháp trên một trận tuyến ở Đông Dương khi ông dẫn quân xung phong lên chiếm
vị trí "Élianne I" ở Điện Biên Phủ . Hai mươi mốt năm sau, mất hết
quyền chỉ huy lại bị vu khống và tuyệt vọng, ông đến tìm cái chết trong một
bệnh viện của người Pháp, trước các bác sĩ quân y người Pháp, dưới bóng của lá
cờ tam tài Pháp.... Để được biết chắc chắn rằng các người bạn cuối cùng, các
người bạn chiến đấu của ông khi về Pháp phải được biết rõ là ông ta không hề
phản bội lại hai chữ Danh Dự mà họ đã cùng nhau thề thốt trên những ngọn đồi
đẫm máu ở Điện Biên Phủ.
Thật là kỳ lạ và bi đát thay cho số phận của
các tướng lãnh nói trên và của những chánh trị gia Miền Nam hay Cam Bốt được
kết hợp với nhau không phân biệt trong chiến dịch bôi nhọ và vu khống, được phổ
biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới từ bao nhiêu năm qua. Nhất là báo chí Mỹ
không ngớt nhắc đi nhắc lại là Phnom Penh và Sài Gòn "đầy rẫy tham
nhũng". Đặc biệt tôi nghĩ tới ông Long Boret, Thủ Tướng Cam Bốt và hoàng
thân Sirik Matak, nhân vật thứ hai ở Cam Bốt. Lẽ ra họ đã đi được trên một trực
thăng Mỹ với ông Đại Sứ Hoa Kỳ khi ông nầy ra đi với một lương tâm thanh thỏa
của một công chức cao cấp đã thi hành xong khế ước, còn bình tĩnh ôm theo trong
tay lá quốc kỳ Mỹ được xếp cẩn thận, y như trong một kịch bản vậy. Nhưng hai
người nầy lại không thèm đi, họ thích ở lại đất nước họ và có chết thì chết
trên mảnh đất quê hương của họ, giữa đồng bào của họ còn hơn là đi sống lưu
vong trong một đất nước mênh mông xa lạ đã phản bội họ. Họ không phải là những
người độc nhất đã chọn "ở lại", vì sau khi cân nhắc kỹ lưỡng rồi họ
mới ngả hẳn về cái chết để chứng minh phẩm cách và giá trị của niềm tin của
mình.
Còn nhiều người nữa, rất nhiều người nữa cả ở
Phnom Penh và ở Sài Gòn . người ta còn tiếp tục nói về những người nầy bằng
cách gọi họ là "bọn tham nhũng" , mà vào một thời kỳ khác, khi mà Tây
Phương bị những nguyên tắc vĩ đại của lịch sử La Mã chi phối, thì người ta phải
gọi họ là những "vị anh hùng"!
°
°
Hơn thế nữa, ở Sài Gòn đâu phải chỉ có những
vụ tự tử.
Từ ngày 30-4 đến tuần lễ thứ ba của tháng 5,
hơn 60 binh sĩ Bắc Việt đã bị ám sát ngay ngoài đường phố. Một tử thi của một
đại tá bộ binh Bắc Việt mình đầy vết dao được khám phá ra ở trong hẻm rạp chiếu
bóng Eden , trước mặt khách sạn Continental. Ba sĩ quan Bắc Việt khác đã bị hạ
sát "rất lặng lẻ" gần sở Ba Son.. Chánh quyền xác nhận can phạm là
"du đảng" và "kẻ trộm" . Để làm gương họ đem ra xử bắn công
khai một số "can phạm" trước mặt gia đình họ và hàng ngàn khán giả.
Ngày 24 tháng 5, lúc 7 giờ sáng, 80 người
ngoại quốc rời Miền Nam Việt Nam trên một chiếc phi cơ 4 máy, Illouchine 18 sơn
xanh trắng của Liên Xô. Đó là những phóng viên nhiếp ảnh , những nhà báo từ
khắp nơi trên thế giới đã đến Sài Gòn và bị kẹt lại sau khi thủ đô bị Bắc Việt
chiếm cứ. Trong số nầy có gần 50 nhà báo Pháp và một tướng lãnh Pháp đã về hưu
bị trục xuất khỏi Việt Nam vì lý do "hai bàn tay của ông đã dính đầy máu
của nhân dân Việt Nam " !(4)
Trước khi được đi, các nhà báo nầy đã bị quá
nhiều phiền nhiễu về hành chánh mới được tờ chiếu khán xuất cảnh, sau đó phải
nằm chờ đợi được ghi tên vào một chuyến bay kéo dài ngày nầy qua ngày
khác...Trước khi lên phi cơ, tất cả đều phải qua một cuộc khám xét, một cuộc
khám xét thật tỷ mỉ, thật lâu và rất là lạnh lùng. Các anh "bộ đội"
nhờ một nữ tiếp viên hàng không quân sự làm thông dịch viên, đã bóc hết hành lý
của họ. Có nhiều xấp thơ và phim ảnh bị tịch thu. Sau đó họ được đưa đến Vạn
Tượng (Lào) và phải trả 120 đô la bằng tiền Mỹ hẳn hòi (gấp đôi giá bình
thường) và được một chú "bộ đội" đội nón cối và các phi công Việt Nam
đeo súng lục hộ tống .
Xuyên qua cửa kính, các nhà báo nhìn Tân sơn
Nhứt lần cuối . Hình ảnh sau cùng mà họ cố mang theo từ Việt Nam là cảnh tượng
của một phi trường bị tàn phá: nhà kho sập, phi cơ nằm phơi bụng, chiến xa bị
cháy đen...Trong số những anh gan lỳ và đầy tình huynh đệ đi về Pháp chuyến
nầy, vắng mặt một anh bạn hạng nặng: đó là anh Michel Laurent, bị một tràng
liên thinh tự động bắn hạ trong trận chiến ở Hố Nai.
Anh là một nhà báo cuối cùng chết ở Đông
Dương.. Chúng tôi vẫn còn hy vọng đến giây phút cuối cùng là anh sẽ còn sống để
trở về. Nhưng bây giờ thì hết mong rồi. Chúng tôi không còn thấy bóng dáng mảnh
khảnh, trẻ trung mãi của anh nữa, cũng như gương mặt thiên thần với mớ tóc lòa
xòa và một điếu xì gà cắn chặt ở môi. Anh công tử có vẻ uể oải nhưng không lo
lắng gì cả nầy thuộc nòi nhà nghề sáng giá.Có cả thảy 52 nhà báo đã chết ở Việt
Nam từ năm 1945. 26 anh khác đã coi như mất tích ở Cam Bốt. Phần đông là các
nhiếp ảnh viên, những tinh hoa trong nghề.. Họ không tường thuật về chiến
tranh, mà họ chuyển chiến trận thành hình ảnh, gay cấn, tàn bạo và lâm ly thống
thiết. Những hình ảnh nầy các nhiếp ảnh viên thường thu nhặt trong tư thế đứng,
giữa những người sắp chết mà họ thường chứng kiến được cử chỉ và cái nhìn lần
cuối cùng của họ. Cho tới khi Thần chết tức giận vì bị người ta thu hình quá
gần, nên đã bắt họ chết luôn vì đã đến lượt của họ rồi.... Và đùng một cái
những người còn sống sót mới khám phá ra là luôn luôn những anh bị tử thương y
như rằng là những người rất giỏi trong nghề,. Người đầu tiên mà tôi thấy chết
vào ngày 28 tháng chạp năm 1946 là một anh người Bỉ ốm yếu mà tôi quá xấu hổ vì
không nhớ được tên, làm việc cho một thông tấn xã Hoa Kỳ . Anh đến từ Nam
Dương, một quốc gia chán chê vì chiến trận, nhưng những trận đánh trong đường
phố tuy lẻ tẻ nhưng hung dữ đến dã man trong thành phố Hà Nội đã kích thích
anh, như một cuộc đi săn kích thích con chó săn còn tơ vậy. Anh đội một nón sắt
quá rộng, đeo choàng chiếc máy ảnh Rolleiflex và một cây súng lục Webley to
tướng ở ngang lưng.
Anh ta rất là can đảm, can đảm hết nói ! Anh
ta chạy trên các mái nhà để đi tìm những anh chàng bắn sẻ. Một anh Việt Minh
bắn tỉa phục kích đâu đó đã cho anh một phát vào giữa mặt và anh té lộn nhào
rớt xuống đất từ trên cao 10 thước..
Sau đó thì có anh chàng Kowal mà chúng tôi gọi
là "siêu thiên thần", một anh lực sĩ tóc vàng hoe, một con người yếu
bóng vía và khắc khổ với một máy thu hình cộm lên đầy lịch sử hào hùng.. Ba
mươi tám tháng đi toàn những trận ác liệt gần hết miền Thượng Du Bắc Việt ...
rồi một tràng liên thanh ngắn một buổi sáng nào đó của tháng 2 năm 1952 đã kết
liễu đời anh. Lúc đó anh mới vừa 27 tuổi. Tôi cũng biết anh Péraud, to con, mập
mạp, vai rộng, người rất mạnh khỏe, đã từng thoát khỏi trại tù Đức quốc xã, đã
từng chứng kiến những trận đánh xáp lá cà ở Na Sản và Điện Biên Phủ... đã bị
xem là mất tích trong chiến khu cộng sản sau một cố gắng vượt ngục và không bao
giờ được gập lại nữa. Anh Martinoff, bị đạp phải một trái mìn... Anh Bob Capa
lúc nào cũng có một điếu thuốc tàn trên miệng , là một trong những người nhiếp
ảnh viên nổi tiếng và đắt giá nhứt trên thế giới, già dặn trrong gần 20 chiến
dịch mà bị chết như một người mới bước vào nghề ngày 25 tháng 5 năm 1954 trên
một con đê nhỏ ngoài ruộng, chỉ cách đồn Đội Tân vài cây số, ở Đồng Bằng Bắc
Việt .
Còn nhiều người khác , rất nhiều người khác
nữa...: như các anh Burrows, Huet, Shimimoto, Flynn, Arpin... và cuối cùng là
anh Michel Laurent, mình đầy đạn trong một làng công giáo di cư không đầy ba
ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ.
Từ anh nhà báo nhỏ con người Bỉ đội nón sắt
quá rộng bị bắn chết ở thủ đô Hà Nội đến anh Michel Laurent bị giết vì quá gan
dạ gần một nhà thờ có treo cờ của Tòa Thánh Vatican, nơi mà các thanh niên tự
vệ kháng cự đến viên đạn cuối cùng... . coi như cuộc chiến ở Đông Dương đã qua
rồi.....
Khi đã trở về đến nước Pháp, các anh nhà báo
bị kẹt lại gần ba tuần lễ ở Sài Gòn , cựu thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, đã viết
lại và phổ biến tất cả những gì mà họ đã thấy và đã nghe: Bộ máy của chế độ Hà
Nội đã được áp đặt. Cảnh khốn cùng của dân chúng Sài Gòn . Có các cô gái đã đề
nghị trao hết gia tài sự nghiệp để chỉ được cưới và cùng đi ra ngoại quốc. Trẻ
em thì van xin cho được làm con nuôi, dù là giả định. Lại còn dịch tự tử nữa.
Rồi có tin đồn là có nhiều sự nổi dây ở các tỉnh, hay thành lập "chiến
khu" ở Miền Nam ...
Khi tất cả các nhà báo đã bị đưa đi hết
rồi....thì một cái lồng sắt chụp ngay xuống Miền Nam Việt Nam . Muốn có được
tin tức, người ta không còn có cách nào khác hơn là phải nghe những bản tin
chánh thức được loan đi sau khi người ta đã kiểm duyệt cẩn thận. Phải đợi cho
có người đi du lịch trong thời gian sắp tới.. Rồi phối kiểm lại tin tức. Rồi
phỏng vấn liên tục những người ngoại quốc, những linh mục hay một vài công chức
Pháp khi họ hồi hương. Hay những người Hoa Kiều theo đường giây buôn lậu hay
theo các tàu đánh cá đến được Thái Lan..(họ phải trả trên 30 lượng vàng để được
đưa đi )
Từ từ các tin tức đó giúp hé mở được bức màn
tre đang bao chặt nước Việt Nam , và nhờ vào những chứng cớ và những chi tiết
sống, người ta mới có thể thiết lập lại được cả một mảng biến cố đã xảy ra trên
đất nước nầy.
Đầu tháng 5, các sĩ quan, Cảnh Sát , công
chức, thành viên trong các đảng phái chánh trị , các kỹ thuật gia, nhân viên
trong nghiệp đoàn của Miền Nam ... đều nhận được lệnh phải tự kiểm kê. Người ta
ấn định cho họ một thời hạn, từng loại một phải đi trình diện với chánh quyền .
Phần đông các sĩ quan và Cảnh Sát khi đến trình diện không bị điều tra hỏi han
gì hết như họ đã nghĩ. Mà người ta chỉ ghi tên tuổi rồi họ được tự do về nhà.
Một thống kê đầu tiên vào cuối tháng 5 cho thấy là khoản 25 trên 100 cán bộ của
quân đội và của Cảnh Sát là có làm thủ tục khai báo. Một buổi sáng sớm nào đó,
vì chánh quyền đã nắm được địa chỉ và căn cước của từng người nên số người nầy
bị bắt hết , cho lên xe vận tải và đưa đi đên một nơi nào không biết. Nhiều bản
thông cáo được dán khắp nơi "ra lệnh cho "tất cả các anh phản
động" chưa trình diện phải đến trình diện ngay "nếu không sẽ bị
nghiêm trị". Đồng thời lại có nhiều áp phích khác cảnh cáo tất cả dân
chúng trong thành phố "không được chứa chấp người nào trong nhà mà không
khai báo cho công an biết"
Các giáo sư, các thầy cô giáo, các hiệu trưởng
và viện trưởng của tất cả các trường trung tiểu học và đại học ở Sài Gòn, tất
cả đều bị gọi đến "làm việc" với các ủy viên "đại biểu đại
học", ăn mặc như các "bộ đội", quân phục xanh lá cây, mang dép
râu và đội nón cối. Các ông đại biểu nầy lạnh lùng thông báo với họ là:
- "Chương trình và chu kỳ học vấn
sẽ được thay đổi chiếu theo nhu cầu thật sự của đất nước. Kỷ luật sẽ được áp
dụng triệt để. Nhưng tất cả các sách giáo khoa cũ đều bị loại. Sẽ có những sách
khác đang in sẽ được tàu chở đến từ Hà Nội. Ít nhất cũng phải từ ba đên 4 tháng
nữa mới có đủ số lượng sách cần thiết trong kho.Và tất cả trường đều phải đóng
cửa. Về đại học, Luật Khoa và Văn Khoa sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Vì hai khoa
nầy không có ích lợi gì cho xã hội hết, chỉ đào tạo những người "mơ
mộng" và những "ký sinh trùng". Thay vào đó sẽ có một trường
thông dịch, dạy bốn ngoại ngữ : Nga, Tàu, Anh và Đức ngữ. Tiếng Pháp sẽ không
bao giờ được dùng tới nữa. nên không cần phải có thêm người biết tiếng Pháp.
Các ông giáo sư thuộc Văn khoa và Luật khoa phải tự chuyễn ngành trong kỷ luật
xây dựng thì hơn."
Tất cả các giáo chức đều phải trút bỏ hết
"quần áo trưởng giã", không phải thắt cà vạt, không phải mặc áo vét
nữa, và cũng không được mang giầy "kiểu cọ" nữa (nguyên tác :
"fantaisie" trong dấu kép) Sẽ có nhiều giáo sư từ Hà Nội đến để
điều khiển các lớp về chuyễn hướng giáo dục và lớp cải tạo..
Đầu tháng 6: các sĩ quan cao cấp "dù đã
về hưu", các công chức cao cấp và các chánh trị gia, các dân biểu, nghị
sĩ,, các tổng bộ trưởng đều được gọi đi học một khóa "học tập cải
tạo". Thời gian học tập là 10 ngày. Khi đi phải mang theo "chăn màn,
áo ấm, áo mưa, một chiếc chiếu, 3 ram giấy và viết để ghi chú. và phải đem theo
15.000 đồng để đóng tiền ăn." . Trong suốt thời gian học tập cải tạo,
không ai được phép về nhà, hoặc liên lạc với gia đình. Đối với các công chức
hàng thấp, các hạ sĩ quan và binh sĩ, chương trình học tập cải tạo được dạy
trong 3 ngày. Công chức sau đó được trở về nhiệm sở cũ, các quân nhân sau khi
học tập thì được phát cho một giấy chứng nhận cho phép họ đi tìm việc làm, và
được đặt dưới quyền kiểm soát của các trưởng khóm đã được thành lập trong mỗi
khu.. Một bản báo cáo sau đó được chuyển cho trưởng "công an khu
vực", nơi người binh sĩ được kiểm kê. Về sau nầy, anh trưởng công an đó sẽ
phát cho người quân nhân đó một giấy "phục hồi quyền công dân" nếu
xét thấy người đó có hạnh kiểm tốt. Trong hiện tại thì tất cả cựu quân nhân đều
được coi như "kẻ có tội" vì "các cây súng của Mỹ mà các anh đã
có trong tay, không phải tự nhiên mà nó đến tay các anh." đó là lời nói
của các ủy viên chánh trị phụ trách lớp hoc tập cải tạo đã nói với họ như vậy.
Trong khi chờ đợi được phục hồi quyền công dân thì các cựu quân nhân phải chịu
đói meo, vì tờ giấy cho phép đi tìm việc làm không giúp ích gì được cho họ cả.
Vì trên thực tế không một người nào được quyền thuê mướn người chưa có quyền
công dân.
Sau đợt các chánh trị gia và các quân nhân thì
đến lượt các thợ thuyền và các chú cai thợ. Lớp học tập cải tạo cho các chuyên
viên ở nhà máy điện được mở ra ở Dalat vào tháng 6, đã xảy ra nhiều vụ rắc rối
và nhiều phản đối. Bị bắt buộc phải mang theo 15.000 đồng (ba phần tư số lương
trong tháng của họ), sống xa vợ xa con, họ đã phản đối tập thể để yêu cầu Chánh
Phủ phải bảo đảm đời sống của gia đình họ vì thiếu thốn và không có ai lo. Họ
đe dọa là sẽ không làm việc trở lại nếu Chánh Phủ từ chối yêu sách nầy.Vì chánh
quyền cần phải có sự làm việc của họ nên đã chấp thuận một phụ cấp cho gia đình
họ.
Lúc mãn khóa học tập cải tạo, các ủy viên
chánh trị đã cố xác nhận với họ là "thời gian học tập cải tạo được kéo dài
trong 6 tuần lể mỗi năm". Trong suốt thời gian học tập không thấy có một
lời nào ám chỉ đến cái CPLTCHMN. Chỉ có hai đề tài duy nhất được khai triển:
- Nước Việt Nam từ đây sẽ là một quốc gia duy
nhất, độc lập và xã hội chủ nghĩa , gắn liền với di chúc của Bác Hồ (nguyên tác
:oncle Hô) từ cửa Trung Quốc (nguyên tác :porte de Chine) ở Lạng Sơn đến mũi Cà
Mau.
- "Ngụy quyền bù nhìn" - có nghĩa là
những kiểu suy luận, những lối sống thừa hưởng tử chế độ cũ và của đế quốc Mỹ-
là một "căn bệnh" mà đất nước phải loại bỏ. Phương thuốc duy nhất
được coi là hữu hiệu là cải tạo.
Lần lần bộ máy nặng nề và tỉ mỉ để nghiền nát
các bộ não đã được đặt xong.. và đã chạy đều.. vì nó đã chứng minh được ở Miền
Bắc rồi, ở đó nó đã được điều hành từ hơn 20 năm qua.. Công tác đóng khung dân
chúng được tiến hành rất có phương pháp.
- Giai đoạn thứ nhất: áp dụng kỹ thuật công an
cảnh sát mềm dẻo nhưng quyết liệt. Mỗi công dân phải điền hai văn bản in sẳn.
Một số câu hỏi chánh thức: lý lịch, trình độ học vấn, nơi cư trú trong những
năm chiến tranh, việc làm. Một số câu hỏi riêng tư liên quan đến tất cả những
người từ 18 đến 70 tuổi, đòi hỏi phải kê khai "tên của những người bạn tốt
nhất của mình, hay tên của những người mà mình chịu ảnh hưởng"; Và những
tên, địa chỉ của "những mối giao lưu tình cảm cũ" . Công tác kiểm kê
tất cả dân chúng ở Sài Gòn được tiến hành từng khóm một, từ khóm nầy sang khóm
khác... Khi đã kiểm kê xong, người nào muốn thay đổi địa chỉ thì phải xin phép
cơ quan chánh quyền khu vực mình đang ở và phải có sự chấp thuận của cơ quan
chánh quyền nơi mình muốn tới ở. Mỗi người xin như vậy phải có 2 nhân chứng
chịu trách nhiệm về lời khai không gian dối.
- Giai đoạn thứ hai: kỹ thuật gia nhập vào tập
thể và đề nghị một lý thuyết mới. Nghi lễ thật chu đáo đúng mức. Một Đức Chúa
nhân từ :Bác Hồ; Một lý thuyết: Mácxít; Các linh mục đọc thánh kinh: các ủy
viên chánh trị thánh ca: các bài hát cách mạng ; Các lời cầu nguyện :các khẩu
hiệu ; Các đám rước lễ: các cuộc diễn hành, các cờ hiệu và biểu ngữ , thợ
thuyền, sinh viên, các "bà nội trợ và trẻ con" ; Các cuộc "xưng
tội" : công khai.
Hình của Hồ chí Minh được treo dán khắp mọi
nơi, trên tường, trong các nhà máy, trong thành lính và cho tới các phòng khách
của các cộng đồng tôn giáo. Có lệnh cho tất cả dân chúng phải treo trước nhà lá
cờ đỏ sao vàng của Cộng Hòa Miền Bắc Việt Nam (nguyên tác : Républic du Nord
Việt Nam ) bên cạnh lá cờ của CPLTCHMN. vấn đề thi hành cũng phải lâu. Mua một
lá cờ thứ hai đối với nhiều người là một sự tốn kém không nhỏ. Những người
nghèo phải cắt xén vải và làm những lá cờ nhỏ hơn. Chánh quyền coi đó là một ác
ý. Tức thời có những chỉ dẫn đã phổ biến về cách treo "cho đúng" hai
"lá cờ anh em" với kích thước phải bằng nhau.
Các sinh viên rảnh rang từ khi nhà trường bị
đóng cửa, đã được thành lập thành "tiểu đoàn" và tham gia vào công
tác làm sạch sẽ thành phố.. Các học trò thì tham gia vào sinh hoạt cách mạng ở
khu vực với những em từ 8 tuổi. Các "liên đoàn thanh niên giải phóng"
đón nhận gái trai từ 10 tới 15 tuổi.
Mỗi ngày tờ nhật báo chánh thức "Sài Gòn
Giải Phóng" đưa ra những công tác của vài đại hội, của các văn sĩ, của các
nhà văn tiểu luận hay nghệ sĩ "giải phóng" và đăng những kiến nghị
của họ: những lời khen tán tụng cách mạng , những bài hát nhớ ơn bác Hồ và Đảng
Lao Động đã dẫn dắt nhân dân đến chiến thắng. "...
Phải chăng những người cộng sản Bắc Việt thật
sự hy vọng rằng bằng cách áp dụng những phương thức mà họ đã dùng ở Hà Nội vào
năm 1954 thì họ có thể tẩy não được dân chúng ở Miền Nam ? Đầu tiên nhìn vào,
thì hình như khó tin được .
Hà Nội là một thành phố được ngăn ra từng khu
vực thợ thuyền, công chức, và các công nhân tiểu công nghệ.. Đồng bằng sông
Hồng thì rất hẹp và có quá nhiều dân. Dân quê Miền Bắc còn dùng những chiếc cày
tay cổ lỗ mà họ đẩy được . Chiến tranh chống Pháp đã đẩy họ lên rừng hay vào
những làng mạc thu hẹp trong lũy tre xanh. Chiến tranh với người Mỹ lại đưa họ
thụt lùi lại trong thời quá khứ bằng những cuộc dội bom dày đặc, bắt họ phải
sống trong hang hoặc sống chui xuống đất trốn ở dưới hầm . Cầu đường bị phá,
nhà ga, nhà máy, phi trường đâu đâu cũng ăn bom làm cho dân chúng gần như trở
về thời kỳ đồ đá. Họ đã quen sống cách ly hẳn với thế giới bên ngoài, không có
một tờ báo nào gọi là đối lập, không xa hoa không có yếu tố nào để mà biết so
sánh, sống đoàn kết với nhau vì cảnh bất hạnh. họ không thể tranh cãi dễ dàng
với sự tuyên truyền nhồi nhét quá sơ đẳng và tập thể của các cán bộ..
Trong khi Sài Gòn là một thành phố của thương
gia, của các chủ tiệm chủ quán, của những nhà trí thức và những chuyên viên.
Đồng bằng sông Cửu Long rộng mênh mông, giàu có, mầu mỡ, mở cửa hằng mấy thế kỷ
nay ra biển cả, với hàng hải, với thương thuyềm, với ngoại quốc. Làng mạc ở đây
trải rộng ra dưới những hàng dừa, hàng cọ, và dọc theo sông rạch đầy phù sa phì
nhiêu, và là nơi dự trữ dồi dào và vô tận cho nghề đánh cá. Cuộc chiến tranh
chống Pháp đã bảo vệ cho Miền Nam . Cuộc chiến chống Mỹ dù có một số điều quá
mức, nhưng đã hiện đại hóa Miền Nam với một số trang thiết bị đến dư thừa.
Trong suốt thời gian 20 năm, mặc dầu có mất ít nhiều trật tự, có chiến trận, có
những chuyện ám sát, kinh tế khủng khoảng thường xuyên, và nhờ những chuyện đó
mà dân chúng Miền Nam đã có lối sống của người Tây Phương hoàn toàn. Họ khám
phá ra được máy móc, mô tô, xe hơi, phi cơ, trực thăng, điện thoại.... máy
tính, trăn-zi-to và truyền hình; máy cày đã thay thế chiếc cày tay, xe vận tải,
thuyền máy đã thay thế chiếc tam bản. Họ biết thưởng thức phim ảnh và các sách
ngoại quốc, thích nhạc jazz, và biết xài các vật dụng mới lạ, tối tân. Bất cứ
anh phu xe xích lô nào cũng đọc 2 tờ báo hằng ngày...
Như vậy thì làm sao tưởng tượng được là dân
chúng Miền Nam có thể buông xuôi chịu bước theo hướng đi nhỏ hẹp duy nhất và
một chiều mà Miền Bắc cố tình muốn áp đặt cho họ ? Hà Nội muốn thống nhất đất
nước và đưa nước Việt Nam vào con đường cộng sản dưới bàn tay sắt náu của họ. Hà
Nội có 3 yếu tố trong tay: sức mạnh, một ý chí chánh trị không lay chuyển , và
một lý thuyết mạnh. Nhưng những trở ngại cũng không phải ít. Đưa ra một phương
thức để mang ra thực hành, như thế cũng chưa đủ. Xác nhận một sự thật để biến
nó trở thành một chuyện hiển nhiên, như thế cũng chưa đủ. Đề nghị thống nhất
hai Miền của Hà Nội là một sự thống nhất trái với thiên nhiên đe dọa gây xáo
trộn đời sống của người dân. Miền Bắc và Miền Nam có thể là 2 Miền anh em,
nhưng đó là anh em thù địch. Họ đã từng đánh nhau trong suốt 300 năm trước khi
người Pháp đặt chân lên Đông Dương. Cuộc giết chóc trong 30 năm vừa qua chỉ có
làm tăng thêm sự rạn nứt trong quá khứ. Mỗi bên đều có ít nhất cả triệu người
bị giết và gần 2 triệu bị tàn phế. Hàng trăm ngàn trẻ mất cha ...mất mẹ. Hằng
triệu triệu người tản cư bị vứt ra ngoài đường. Nhiều thành phố bị tàn phá đến
điêu tàn, nhiều làng mạc bị đốt cháy....
Vĩ tuyến 17 chỉ là một gạch ngang trên bản đồ
năm 1954, được các thương thuyết gia hấp tấp gạch lên một cách vội vàng vì muốn
chấm dứt cho xong. .Một đường phi quân sự trừu tượng và hão huyền.. Hai chục
năm chiến trận khốc liệt đã biến nó thành một giới tuyến đầy máu.
Hòa giải cách nào đây ? để cho có được sự kết
hợp giữa hai Miền, giữa hai loại xã hội với hai trình độ khác nhau, hai nền
kinh tế khác nhau, hai tâm tính và tâm trạng khác nhau ? Giữa một Miền Bắc với
lý thuyết cộng sản khắc khổ và quá cứng đơ vì nguyên tắc, với một Miền Nam quá
tự do như vô chánh phủ, hoài nghi và thích hưởng thụ ?
Giữa một bên thì đang tự kiêu vì là kẻ chiến
thắng, và một bên thì đang nhục nhã vì là kẻ chiến bại và mất nước ? Các nhà
phân tách đã đơn giản hóa những bài toán nầy thành một sở đồ và nói rằng những
người Bắc Việt với đầu óc cứng rắn và với kỷ luật sắt của họ, sẽ đạp nhẹp Miền
Nam .
Tôi không tin ở sơ đồ. Con người không phải là
những con số để người ta đưa vào phương trình. Miền Nam không phải nguyên một
khối và hay cố chấp. Họ có niềm tin của họ và những tín ngưỡng riêng của họ. Họ
không để mất đi một cách dễ dàng đâu. Các Phật Tử, các Tín đồ Công Giáo, Phật
Giáo Hòa Hảo, và Cao Đài Giáo đều một lòng gắn bó với các chùa chiền, với các
nhà thờ và với các thánh thất của họ. Miền Bắc có thể đi tới đích mà họ muốn,
nhưng còn phải mất nhiều thời gian... và thời gian đôi khi rất thuận lợi cho kẻ
chiến bại....
Chú Thích:
(1) Chỉ vài tuần lễ sau đó, tướng Minh được bí
mật chuyển ra Hà Nội bằng phi cơ. Ở đó ông được các nhân vật lãnh đạo cộng sản
trong Chánh Trị Bộ thẩm vấn trong suốt 10 ngày về " tiến trình mưu toan
với thực dân Pháp để cướp chánh quyền chống lại quyền lợi của cách mạng "
. Khi được đưa trở lại Sài Gòn tướng Minh bị "quản chế tại gia", mỗi
ngày có một cán bộ của đảng cộng sản đến nhà để "cải tạo" ông"
(2) tướng Võ nguyên Giáp bị mắc một chứng bịnh
nan y (không chữa được) và phải nằm ở một bệnh viện bên Mạc tư Khoa một thời
gian dài.
(3) )(lời bàn của dịch giả: mảnh giấy nầy
không cháy mà vẫn còn nằm trong tay người tự thiêu để cho Ban Quân Quản lấy
được thì đó là cả một "phép lạ" của xã hội chủ nghĩa !)
(4) đó là đại tướng Vanuxem .
CHƯƠNG
25: SỰ HIỆN DIỆN CỦA NGƯỜI PHÁP?
Rồi đây số phận của cộng đồng người Pháp ở
Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao đây ? Những người "bi quan" trong đó có
tôi (tác giả) nghĩ rằng tất cả rồi sẽ giống như những gì đã từng xảy ra ở Bắc
Việt năm 1954. Nghĩa là cũng phải tới kỳ hạn mà cục "bướu" ngoại quốc
cuối cùng nầy cũng phải bị trục xuất. Những người "lạc quan" thì vẫn
còn tin rằng rồi cũng có khả năng cho một giải pháp thỏa hiệp nào đó.
Các sự việc xảy ra đã chấm dứt ngay cuộc tranh
luận nầy.
Những người Pháp từng được mến mộ vào những
ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ, không có một chút quyền lợi đặc biệt nào
sau khi Bắc Việt chiếm được thành phố. Còn trái ngược hẳn lại là khác!Những
người đầu tiên biết rõ được như vậy là những nhà báo đã bị kẹt lại Sài Gòn . Họ
không bị ngạc nhiên gì cả khi nhận thấy là họ được xếp sau hẳn, sau thật xa các
đồng nghiệp người Anh và người Nhật ... và cả người Mỹ, trên danh sách những
người được ra đi. Người Pháp được xếp vào loại "những người có quốc tịch
khác", gần như họ là nạn nhân của những nỗ lực sau cùng của Chánh Phủ Pháp
nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam . Nhưng chỉ có khoảng 50
nhà báo thôi..., và họ đeo theo chánh quyền mới với sự tò mò liên tục, với nỗi
lo âu muốn biết thêm tin tức, và vì sự hoài nghi của họ. Một chiếc phi cơ thôi
cũng đủ để dẹp gọn họ rồi. Khi họ đi rồi thì còn khoản 12.000 người Pháp ở lại
Việt Nam . Trong số đó có chừng 2.500 là người Pháp chánh gốc (cộng tác ở đây,
thương gia, nhà trồng tỉa, về hưu, nhân công các hãng xưởng Pháp..), trên lý
thuyết là những người có thể tùy hoàn cảnh hoặc sẽ rời khỏi đây sau khi quan hệ
bình thường được tái lập, hoặc sẽ ở lại nếu xí nghiệp của họ được phép tái hoạt
động.
Thật ra lý thuyết và thực hành không đi đôi
với nhau được : nhiều lắm là vài trăm người trong số nầy có thể ra đi. Những
đường liên lạc hàng không thật là rất bất thường và rất kỳ lạ. Đều đặn thường
có thông cáo dán trên một tấm bản đen trước cửa Bộ Ngoại Giao cũ hay trước sở
Di trú. Hôm đầu tuần, một ủy viên chánh trị nào đó đã lấy phấn viết lên tấm bản
đen đó rất rõ ràng như sau: " Sắp tới sẽ có chyến bay đi Vạn Tượng... Ngày
, giờ khởi hành sẽ được thông báo đúng lúc." Thấy vậy các anh đã có hộ
chiếu đều lo sửa soạn va li, nhảy lên tắc xi và chạy thẳng ra sân bay Tân sơn
Nhứt . Binh sĩ giữ an ninh ở đó đẩy họ ra. Không có một chuyến bay nào được dự
trù. Họ lại trở về thành phố. Lại chờ đợi... Vào cuối tuần một anh lính gác bôi
bỏ thông cáo nói trên, và sáng thứ hai, lại cũng anh ủy viên chánh trị đó, lại
viết lên bản đen những giòng thông báo cũ với một vẻ nghiêm trọng không kém
tuần trước .... cho đến khi cuối cùng có một chuyến bay cất cánh.
Chuyện nầy có nhiều lý do không giống nhau.
Các chuyến bay con thoi của Lào đã ngừng bay vì chánh quyền cộng sản ở Sài Gòn
lúc bán vé thì thu vào đồng đô la Mỹ, mà muốn trả cho hãng Hàng Không Lào bằng
tiền đồng của Việt Nam, một loại tiền tệ gần như chỉ có một giá trị nào đó ở
Sài Gòn mà thôi. Ngoài ra các chuyên viên của Miền Nam Việt Nam (truyền tin, ra
đa, điện tử, kỹ sư thông tin liên lạc v.v..) đều đã ra đi với người Mỹ và chánh
quyền cộng sản không có lấy một người để thay thế vào đó.
Có một số trở ngại khác, một phần dụng cụ của
Hàng Không Pháp (Air France) tối cần thiết cho công tác điều hành khi phi cơ
đến và đi (máy điện toán, máy truyền tin, tổng đài điện thoại, kho dụng cụ thay
thế, xe đẩy và kéo phi cơ, xe nâng hàng và tiếp tế xăng nhớt v.v..) đã mất hết
không còn một dấu vết nào cả. Kho hàng gởi đi gồm cả 8 tấn hàng quý giá ( trong
đó có 3 tấn ngọc thạch quý của một người buôn đồ cổ giàu có) đã không cánh mà
bay mất. Không biết người nào đã cướp sạch. Ban Giám Đốc Hàng Không "Air
France " của Pháp ở Ba Lê đã dề nghị với chánh quyền cộng sản để cho họ
đưa sang những toán chuyên viên và một số dụng cụ thay thế. Họ nghĩ rằng như
thế là họ có thể tái tục được các chuyến bay vào tuần lễ đầu của tháng 7. Ban
Quân Quản Sài Gòn đã không nói là "không", mà cho biết nhận xét của
cách mạng là hãng Hàng Không "Air France" của Pháp trong nhiều năm
qua đã không tỏ thiện chí trong việc tái thiết lập lại đường bay giữa Ba Lê và
Hà Nội.. Ngoài sự nguy hiểm mà đường bay nói trên được mở lại trong lúc Hoa Kỳ
đang dội bom Bắc Việt , đường bay nầy cũng không có lời. Dù muốn dù không thì
cả 3 hãng Hàng Không "Air France" và U.T.A của Pháp đã không có một
hoạt động nào từ khi Sài Gòn bị cộng sản chiếm cứ. Mà dường như là họ không thể
tìm lại một đường bay nào cả. Hàng Không Dân sự được Hà Nội trực tiếp quản lý.
Mặc dầu đã cố nài nỉ nhiều lần, đại diện của hãng "Air France" cũng
không được phép đến phi trường để xem xét các cơ sở của hãng để thiết lập một
bản kiểm kê chính xác về các phương tiện và vật dụng đã bị bị mất hết.
Và như thế là việc tái lập các đường bay đến
Sài Gòn coi như bị đình hoãn vô hạn định. Chỉ có một chuyến bay duy nhất là phi
cơ của Liên Hiệp Quốc. Như thế thì những người Pháp nào được bảo đảm là có
quyền ra đi.. trong một thời hạn nào đó, thì chỉ có kiên nhẫn nằm chờ. Vả lại,
những người Pháp bất cứ gốc gác thế nào, người Pháp chính cống hay là người có
quốc tịch Pháp cũng vậy, đều không chờ đợi được gì ờ Lãnh Sự Quán hay Đại Sứ
Quán của mình. Đại sứ Pháp, ông M. Mérillon không còn thấy ở đâu nữa cả, và ông
cũng không có tiếp ai hết. Tòa đại sứ Pháp có đầy đủ tiền bạc, lương thực, nước
uống .. không thiếu món chi, nên đã đóng kín cửa rào. Và Đại sứ, mà bổn phận
đầu tiên lẽ ra là phải đi thăm những người Pháp vốn đang ở trong cảnh khốn
quẫn, để an ủi họ, để cho họ yên tâm, vững lòng, để giúp họ vượt qua được tình
thế hay giải quyết những bài toán khó khăn mà họ đang gặp phải, để bênh vực quyền
lợi của người Pháp đối với chánh quyền mới.. nhưng ông không bao giờ bước ra
khỏi nhà. Ông ta chỉ có khuyên người Pháp không nên treo cờ Pháp quá nhiều , vì
theo ông, dù là chỉ treo tạm nhưng sự kiện treo quá nhiều cờ tam tài có thể
được coi là một sự "khêu khích".
Thế nhưng, người Pháp đã gặp rất nhiều khó
khăn...
Những người có biệt thự với đầy đủ tiện nghi
hoặc nhà thường thôi mà ở khu vực ngoại ô.. thì cũng bị đuổi đi hết. Lý do :
không bảo đảm được an ninh đầy đủ.
Tất cả các ngân hàng đều bị đóng cửa, các
chương mục bị khóa lại hết, các xí nghiệp phải ngưng hoạt động, các đồn điền
cao su và cơ sở kỹ nghệ của họ đều không xử dụng được vì đã bị hư hại nặng nề,
các bãi đậu xe bị "trưng dụng".. Ai cũng thiếu tiền. Các công chức
chưa được lãnh lương từ ngày 1 tháng 5, chỉ được nhận một số tiền ứng trước nào
đó thôi của lương mình.
Các ông chủ xí nghiệp nhỏ , dù đã ngưng hết
mọi hoạt động từ ngày có biến cố cộng sản , vẫn phải tiếp tục trả lương cho
nhân viên dù họ không làm việc. Các hãng xưởng lớn thì bị "ủy ban nhân dân
xí nghiệp" đòi hỏi phải bồi thường tiền phụ cấp nghỉ việc. Mỗi lần mà
những chủ nhân người Pháp muốn nói chuyện dàn xếp thì lại không thấy có một
người nào có đủ thẩm quyền. Các nhà trồng tỉa còn kẹt ở Cao Nguyên Trung Phần
mà muốn xuống Sài Gòn đều phải nộp đơn xin phép với ông ủy viên quân sự của
tỉnh. Những nhà trồng tỉa ở vùng Bảo Lộc đã bị bắt và tài sản của họ bị tạm
giữ. Những nhà truyền giáo trong nước không bị phiền nhiễu gì nhưng bị quản
thúc và đang lo sẽ bị trục xuất.
Khách sạn Continental thì vắng hoe từ lúc các
nhà báo ra đi hết .Tầng trệt của Trung tâm Văn Hóa bị ủy ban của khu vực chiếm
đóng.. Bệnh viện Grall phải thay lá cờ Pháp bằng lá cờ Hồng Thập Tự và cờ của
Chánh Phủ Lâm Thời. Thơ từ từ bên Pháp gởi sang được Hà Nội chuyển tiếp phải
đến rất trễ, mấy tuần lễ sau mới nhận được .Tờ báo "Tin Tức Viễn
Đông" một tờ nhật báo duy nhất bằng tiếng Pháp, tường thuật về tình hình
tài chánh, ghi lại tin tức của thông tấn xã A.F.P . và thường mô tả đời sống ở
Ba Lê ... đã bị đình bản như tất cả các tờ báo cũ của chánh quyền Miền Nam .
Nỗi lo âu của người Pháp đã trở thành nỗi bi
quan, vì ai cũng phải hoàn toàn tự lo cho mình. Sau một loạt sự việc không hay
xảy ra như :
- R ồi đây số phận của cộng đồng người Pháp ở
Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao đây ? Những người "bi quan" trong đó có
tôi (tác giả) nghĩ rằng tất cả rồi sẽ giống như những gì đã từng xảy ra ở Bắc
Việt năm 1954. Nghĩa là cũng phải tới kỳ hạn mà cục "bướu" ngoại quốc
cuối cùng nầy cũng phải bị trục xuất. Những người "lạc quan" thì vẫn
còn tin rằng rồi cũng có khả năng cho một giải pháp thỏa hiệp nào đó.
Các sự việc xảy ra đã chấm dứt ngay cuộc tranh
luận nầy.
Những người Pháp từng được mến mộ vào những
ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ, không có một chút quyền lợi đặc biệt nào
sau khi Bắc Việt chiếm được thành phố. Còn trái ngược hẳn lại là khác!Những
người đầu tiên biết rõ được như vậy là những nhà báo đã bị kẹt lại Sài Gòn . Họ
không bị ngạc nhiên gì cả khi nhận thấy là họ được xếp sau hẳn, sau thật xa các
đồng nghiệp người Anh và người Nhật ... và cả người Mỹ, trên danh sách những
người được ra đi. Người Pháp được xếp vào loại "những người có quốc tịch
khác", gần như họ là nạn nhân của những nỗ lực sau cùng của Chánh Phủ Pháp
nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam . Nhưng chỉ có khoảng 50
nhà báo thôi..., và họ đeo theo chánh quyền mới với sự tò mò liên tục, với nỗi
lo âu muốn biết thêm tin tức, và vì sự hoài nghi của họ. Một chiếc phi cơ thôi
cũng đủ để dẹp gọn họ rồi. Khi họ đi rồi thì còn khoản 12.000 người Pháp ở lại
Việt Nam . Trong số đó có chừng 2.500 là người Pháp chánh gốc (cộng tác ở đây,
thương gia, nhà trồng tỉa, về hưu, nhân công các hãng xưởng Pháp..), trên lý
thuyết là những người có thể tùy hoàn cảnh hoặc sẽ rời khỏi đây sau khi quan hệ
bình thường được tái lập, hoặc sẽ ở lại nếu xí nghiệp của họ được phép tái hoạt
động.
Thật ra lý thuyết và thực hành không đi đôi
với nhau được : nhiều lắm là vài trăm người trong số nầy có thể ra đi. Những
đường liên lạc hàng không thật là rất bất thường và rất kỳ lạ. Đều đặn thường
có thông cáo dán trên một tấm bản đen trước cửa Bộ Ngoại Giao cũ hay trước sở
Di trú. Hôm đầu tuần, một ủy viên chánh trị nào đó đã lấy phấn viết lên tấm bản
đen đó rất rõ ràng như sau: " Sắp tới sẽ có chyến bay đi Vạn Tượng... Ngày
, giờ khởi hành sẽ được thông báo đúng lúc." Thấy vậy các anh đã có hộ
chiếu đều lo sửa soạn va li, nhảy lên tắc xi và chạy thẳng ra sân bay Tân sơn
Nhứt . Binh sĩ giữ an ninh ở đó đẩy họ ra. Không có một chuyến bay nào được dự
trù. Họ lại trở về thành phố. Lại chờ đợi... Vào cuối tuần một anh lính gác bôi
bỏ thông cáo nói trên, và sáng thứ hai, lại cũng anh ủy viên chánh trị đó, lại
viết lên bản đen những giòng thông báo cũ với một vẻ nghiêm trọng không kém
tuần trước .... cho đến khi cuối cùng có một chuyến bay cất cánh.
Chuyện nầy có nhiều lý do không giống nhau.
Các chuyến bay con thoi của Lào đã ngừng bay vì chánh quyền cộng sản ở Sài Gòn
lúc bán vé thì thu vào đồng đô la Mỹ, mà muốn trả cho hãng Hàng Không Lào bằng
tiền đồng của Việt Nam, một loại tiền tệ gần như chỉ có một giá trị nào đó ở
Sài Gòn mà thôi. Ngoài ra các chuyên viên của Miền Nam Việt Nam (truyền tin, ra
đa, điện tử, kỹ sư thông tin liên lạc v.v..) đều đã ra đi với người Mỹ và chánh
quyền cộng sản không có lấy một người để thay thế vào đó.
Có một số trở ngại khác, một phần dụng cụ của
Hàng Không Pháp (Air France) tối cần thiết cho công tác điều hành khi phi cơ
đến và đi (máy điện toán, máy truyền tin, tổng đài điện thoại, kho dụng cụ thay
thế, xe đẩy và kéo phi cơ, xe nâng hàng và tiếp tế xăng nhớt v.v..) đã mất hết
không còn một dấu vết nào cả. Kho hàng gởi đi gồm cả 8 tấn hàng quý giá ( trong
đó có 3 tấn ngọc thạch quý của một người buôn đồ cổ giàu có) đã không cánh mà
bay mất. Không biết người nào đã cướp sạch. Ban Giám Đốc Hàng Không "Air
France " của Pháp ở Ba Lê đã dề nghị với chánh quyền cộng sản để cho họ
đưa sang những toán chuyên viên và một số dụng cụ thay thế. Họ nghĩ rằng như
thế là họ có thể tái tục được các chuyến bay vào tuần lễ đầu của tháng 7. Ban
Quân Quản Sài Gòn đã không nói là "không", mà cho biết nhận xét của
cách mạng là hãng Hàng Không "Air France" của Pháp trong nhiều năm
qua đã không tỏ thiện chí trong việc tái thiết lập lại đường bay giữa Ba Lê và
Hà Nội.. Ngoài sự nguy hiểm mà đường bay nói trên được mở lại trong lúc Hoa Kỳ
đang dội bom Bắc Việt , đường bay nầy cũng không có lời. Dù muốn dù không thì
cả 3 hãng Hàng Không "Air France" và U.T.A của Pháp đã không có một
hoạt động nào từ khi Sài Gòn bị cộng sản chiếm cứ. Mà dường như là họ không thể
tìm lại một đường bay nào cả. Hàng Không Dân sự được Hà Nội trực tiếp quản lý.
Mặc dầu đã cố nài nỉ nhiều lần, đại diện của hãng "Air France" cũng
không được phép đến phi trường để xem xét các cơ sở của hãng để thiết lập một
bản kiểm kê chính xác về các phương tiện và vật dụng đã bị bị mất hết.
Và như thế là việc tái lập các đường bay đến
Sài Gòn coi như bị đình hoãn vô hạn định. Chỉ có một chuyến bay duy nhất là phi
cơ của Liên Hiệp Quốc. Như thế thì những người Pháp nào được bảo đảm là có quyền
ra đi.. trong một thời hạn nào đó, thì chỉ có kiên nhẫn nằm chờ. Vả lại, những
người Pháp bất cứ gốc gác thế nào, người Pháp chính cống hay là người có quốc
tịch Pháp cũng vậy, đều không chờ đợi được gì ờ Lãnh Sự Quán hay Đại Sứ Quán
của mình. Đại sứ Pháp, ông M. Mérillon không còn thấy ở đâu nữa cả, và ông cũng
không có tiếp ai hết. Tòa đại sứ Pháp có đầy đủ tiền bạc, lương thực, nước uống
.. không thiếu món chi, nên đã đóng kín cửa rào. Và Đại sứ, mà bổn phận đầu
tiên lẽ ra là phải đi thăm những người Pháp vốn đang ở trong cảnh khốn quẫn, để
an ủi họ, để cho họ yên tâm, vững lòng, để giúp họ vượt qua được tình thế hay
giải quyết những bài toán khó khăn mà họ đang gặp phải, để bênh vực quyền lợi
của người Pháp đối với chánh quyền mới.. nhưng ông không bao giờ bước ra khỏi
nhà. Ông ta chỉ có khuyên người Pháp không nên treo cờ Pháp quá nhiều , vì theo
ông, dù là chỉ treo tạm nhưng sự kiện treo quá nhiều cờ tam tài có thể được coi
là một sự "khêu khích".
Thế nhưng, người Pháp đã gặp rất nhiều khó
khăn...
Những người có biệt thự với đầy đủ tiện nghi
hoặc nhà thường thôi mà ở khu vực ngoại ô.. thì cũng bị đuổi đi hết. Lý do :
không bảo đảm được an ninh đầy đủ.
Tất cả các ngân hàng đều bị đóng cửa, các
chương mục bị khóa lại hết, các xí nghiệp phải ngưng hoạt động, các đồn điền
cao su và cơ sở kỹ nghệ của họ đều không xử dụng được vì đã bị hư hại nặng nề,
các bãi đậu xe bị "trưng dụng".. Ai cũng thiếu tiền. Các công chức
chưa được lãnh lương từ ngày 1 tháng 5, chỉ được nhận một số tiền ứng trước nào
đó thôi của lương mình.
Các ông chủ xí nghiệp nhỏ , dù đã ngưng hết
mọi hoạt động từ ngày có biến cố cộng sản , vẫn phải tiếp tục trả lương cho
nhân viên dù họ không làm việc. Các hãng xưởng lớn thì bị "ủy ban nhân dân
xí nghiệp" đòi hỏi phải bồi thường tiền phụ cấp nghỉ việc. Mỗi lần mà
những chủ nhân người Pháp muốn nói chuyện dàn xếp thì lại không thấy có một
người nào có đủ thẩm quyền. Các nhà trồng tỉa còn kẹt ở Cao Nguyên Trung Phần
mà muốn xuống Sài Gòn đều phải nộp đơn xin phép với ông ủy viên quân sự của
tỉnh. Những nhà trồng tỉa ở vùng Bảo Lộc đã bị bắt và tài sản của họ bị tạm
giữ. Những nhà truyền giáo trong nước không bị phiền nhiễu gì nhưng bị quản
thúc và đang lo sẽ bị trục xuất.
Khách sạn Continental thì vắng hoe từ lúc các
nhà báo ra đi hết .Tầng trệt của Trung tâm Văn Hóa bị ủy ban của khu vực chiếm
đóng.. Bệnh viện Grall phải thay lá cờ Pháp bằng lá cờ Hồng Thập Tự và cờ của
Chánh Phủ Lâm Thời. Thơ từ từ bên Pháp gởi sang được Hà Nội chuyển tiếp phải
đến rất trễ, mấy tuần lễ sau mới nhận được .Tờ báo "Tin Tức Viễn
Đông" một tờ nhật báo duy nhất bằng tiếng Pháp, tường thuật về tình hình
tài chánh, ghi lại tin tức của thông tấn xã A.F.P . và thường mô tả đời sống ở
Ba Lê ... đã bị đình bản như tất cả các tờ báo cũ của chánh quyền Miền Nam .
Nỗi lo âu của người Pháp đã trở thành nỗi bi
quan, vì ai cũng phải hoàn toàn tự lo cho mình. Sau một loạt sự việc không hay
xảy ra như :
- việc đóng cửa hãng Citroen, và Giám Đốc đã
bị giam giữ vì không thể trả lương được cho nhân viên,
- như việc bắt ông Giám Đốc hãng Michelin phải
"nộp phạt", vì bị toán nhân viên có mang võ khí đe dọa , với sự có
mặt của các đại diện của ủy ban quân sự hành chánh , ông bị bắt buộc phải nộp
một khoản "bồi thường nghỉ việc rất lớn" cho tất cả nhân viên người
Việt Nam ở các văn phòng và các đồn điền cao su của hãng.
- như khách sạn Continental đã bị trưng dụng
để cho các cán bộ Bắc Việt đi công tác vào ở: sĩ quan cao cấp, chuyên viên kế
toán vào thanh lọc các chương mục ngân hàng và thanh tra hoạt động của tất cả
các xí nghiệp ngoại quốc.
- như "Câu lạc bộ thể thao" mất hẳn
quy chế của một câu lạc bộ tư nhân.Trước hết là một tiểu đoàn quân Bắc Việt vào
chiếm đóng, và từ đó được mở cửa cho nhân dân xử dụng.
- như "ga ra Charner", sau khi bị
một cuộc kiểm kê vật dụng tỉ mỉ cho đến tận những con bù lon, công ty nầy đã
nhận được một "lệnh cấm bán" dù đó là phụ tùng thay thế nhỏ.
- Có một số nhân viên người Pháp ở những đồn
điền cao su còn ở lại làm việc ở các nhiệm sở nằm trong vùng đã được cộng sản
kiểm soát. Có những người khác thì đã trở lại nhiệm sở sau khi Sài Gòn bị thất
thủ. Nhưnng tất cả hai loại người Pháp nầy cuối cùng đều phải chuẩn bị để rời
khỏi những nơi nầy.
- Nổi gian truân đã đến với nhân viên của đồn
điền S.I.P.H thì lại rất đặc biệt. Ngày 7 tháng 5, một tuần lễ sau khi Sài Gòn
bị thất thủ, những cán bộ trồng tỉa thuộc đồn điền S.I.P.H trở lên những vùng
mà họ đang khai thác nằm ở gần Xuân Lộc. Bộ đội chánh quy Bắc Việt đã chiếm
đóng tại đây rồi. Những binh sĩ trú đóng trong những dãy nhà thuộc Phòng Nghiên
Cứu Kỹ Thuật của đồn điền đã dùng các hồ sơ lưu trữ để đốt lửa nấu cơm. Giám
đốc đồn điền người Pháp (nói thông thạo tiếng Việt) đã báo động với một ủy viên
chánh trị Bắc Việt rằng:
- " Các anh "bộ đội của ông đã làm
một việc ngu xuẩn tày trời. Các hồ sơ mà họ xé nát hết để đốt đi có một giá trị
không lường được .Đó là kết quả của 50 năm làm việc, tìm tòi, nghiên cứu và
thực nghiệm về việc trồng tỉa cây cao su. Không phải tôi phản đối vì để bảo vệ
quyền lợi của sở tôi, mà bởi vì nếu sau nầy người Việt Nam muốn tiếp tục sản
xuất cao su cho đất nước mình và muốn nâng cao năng suất và sản lượng cao su,
thì những hồ sơ nầy có một giá trị hàng đầu cho đất nước. Tôi xin lưu ý với ông
là không có gì thay thế được cho các hồ sơ nầy."
Ông ủy viên nầy đã quở trách binh sĩ của mình
và cho lệnh họ không được đụng tới những tập hồ sơ nầy nữa. Nhưng từ ngày hôm
sau đó, các chú "bộ đội" lại tiếp tục dùng các tập hồ sơ quý giá đó
để nấu cơm nữa , và chỉ trong vài ngày sau họ thiêu hủy hết tất cả kết quả của
công tác nghiên cứu khoa học trong nửa thế kỷ đã được cập nhật hóa rất là công
phu và cẩn thận.
Về phần mình, người Pháp đã khai triển trở lại
mọi công việc trong đồn điền. Việc cạo mủ cao su đã trở lại nhịp độ bình
thường. Nhưng ngày 21 tháng 5, tất cả các công nhân người Việt, được Ủy Ban của
Đồn diền hướng dẫn đã nổi lên biểu tình tập thể và ép các nhà trồng tỉa người
Pháp phải rời ngay khỏi đồn điền, không cho họ kịp thu dọn các vật dụng cá nhân
của họ nữa.
Đó là tình hình của cộng đồng người Pháp khi
Đại Sứ M. Mérillon được "gọi về" Ba Lê, hồi đầu tháng 6. Một thông
cáo báo chí của Tổng Thống Phủ từ Ba Lê đã xác nhận:
- "Trái hẳn với những gì mà một vài thông
tấn báo chí đã dự đoán từ trước , sự ra đi của Đại sứ Mérillon không phải do
CPLTCHMN bắt buộc"
Quả nhiên điều nầy rõ ràng là rất đúng với sự
thật cũng giống như cái CPLTCHMN không bao giờ có mặt ở Sài Gòn vậy !
Thói quen nổi bật nhất của các nhà ngoại giao
là hay "chơi chữ", là chuyển đổi những điều "lăng nhục" ra
thành những sự "hiểu lầm" Nhưng sự kiện là sự kiện, không thể nào
biến thể nó một cách dễ dàng được . Ông đại sứ Jean Marie Mérillon đã rời khỏi
nước Việt Nam mà không bao giờ được tướng Trần văn Trà tiếp kiến. Tướng Trà là
chánh quyền duy nhất tại Sài Gòn . Người ta nói là ông Mérillon đã gặp một số
"cán bộ cách mạng ", trong khi người đồng nhiệm Bắc Việt của ông ở Ba
Lê lại danh dự được điện Élysée tiếp kiến. Một ngày trước khi ông rời khỏi Miền
Nam Việt Nam , ông được gọi tới Bộ Ngoại Giao. Ông đã gặp 3 nhân vật vô danh vì
đứng trước mặt ông họ không thèm xưng danh tánh, cấp bậc của họ. Họ "cám
ơn" ông về hoạt động của ông và thông báo cho ông biết là sẽ có "một
người nào đó thuộc ban nghi lễ" sẽ đợi ông ở phi trường để giúp ông khỏi
bị phiền phức về thủ tục khai báo với Công An và Quan Thuế. Đúng giờ, có một
công chức cũng vô danh đã đợi ông Đại Sứ Pháp để đưa ông đến tận phi cơ và cho
ông được ưu tiên lên phi cơ trước những hành khách khác. Đó cũng là một niềm an
ủi cho một chút tự ái mỏng mành cho một người Đại diện của một quốc gia đã từng
đóng góp "quá nhiều cho nền hòa bình" ! Tuy nhiên đức tánh bình dân
của ông Đại sứ Jean Marie Mérillon đã đặc biệt bị hạ quá thấp so với những
người Pháp ở Sài Gòn .
Có một số người đã nói ;
- " Ông Đại sứ đã thực hiện một tiết mục
lớn : Ông đã thúc hối cho ông Thiệu sớm rời khỏi chức vụ, và sau đó cả ông già
Hương nữa để đưa cho được tướng Dương văn Minh lên. Ông đã tưởng rằng như vậy
là đã đem lại hòa bình và một sự hòa hợp. Nhưng ông ta chỉ thành công trong
việc nhanh chóng làm tan rã nền chánh trị của Miền Nam và đưa Miền Nam đến một
sự đầu hàng không điều kiện mà thôi. Trước ngày mất thủ đô, người ta chỉ thấy
có một mình ông Đại Sứ Pháp. Nhưng sau đó thì ông đã biến thành một luổng
gió... Và giờ đây ông ra đi, để lại sau lưng ông trên mười ngàn con tin người
Pháp.....
Thật vậy, nước Pháp có quyền hy vọng một ân
huệ nào đó trong thái độ đối xử - để tưởng thưởng những nỗ lực của mình - Nhưng
trái lại nước Pháp chỉ nhận được những điều ức hiếp và lăng nhục !
Ngược lại, những Đại diện của Hà Nội và của
CPLTCHMN ở Ba Lê (có mặt thường hơn ở thủ đô Pháp hơn là ở thủ đô Miền Nam) lại
được hưởng một sự tự do phát biểu và tự do đi lại trong toàn lãnh thổ nước
Pháp. Vấn đề an ninh của họ được hoàn toàn bảo đảm. Họ được có những đoàn hộ
tống chánh thức. Báo chí và đài phát thanh đã giúp họ phổ biến những bản tuyên
bố và thông cáo báo chí. Họ lại được bênh vực luận cứ và quan điểm của họ trên
đài truyền hình. Chánh Phủ Pháp không hề gây cho họ bất cứ một khó khăn hay
phiền toái nào.
Phải chăng đó là một điều không hợp lý khi
phải đòi hỏi để đơn giản có được một sự đối xử tương ứng ?
Sự ra đi của Đại Sứ Pháp Jean-Marie Mérillon
khi ông chỉ thật sự là một nhân viên thừa hành trung thành với đường lối chánh
trị lệch lạc từ Bộ Ngoại Giao của ông ta , đã không giúp cải thiện được bao
nhiêu những mối giao hảo giữa "chánh quyền cách mạng" và các công dân
người Pháp của chúng tôi.
Trong đêm 16 rạng 17 tháng 6, bệnh biện Grall
bị các "bộ đội" với súng ống đầy đủ, vây kín. Các binh sĩ Bắc Việt và
các sĩ quan an ninh tràn vào lục soát khắp nơi : các phòng mổ, các tủ thuốc,
phòng của các bác sĩ và của những người bệnh. Họ đã nói là họ muốn "biết
chắc chắn là không có một vũ khí nào được cất dấu trong bệnh viện và không có
một người nào ở phòng bịnh nhân bị coi là trong tình trạng bất hợp lệ.
Đến sáng ngày 17 / 6 tờ "Sài Gòn Giải
Phóng loan báo là kể từ nay chỉ có một ngân hàng duy nhất ở Việt Nam .Tất cả
các ngân hàng khác, của quốc gia, của tư nhân hay của ngoại quốc đều phải đem
nộp hết sổ sách, chương mục, và bản kết toán cho ngân hàng quốc gia mới của
Việt Nam. Các biệt thự của nhân viên ngoại quốc đều bị sung công. Các thanh tra
phải vào tạm trú ở các cư xá thuộc 3 ngân hàng: Ngân Hàng Á Châu của Pháp, (tên
địa phương là Ngân Hàng Đông Dương) , Ngân Hàng Thương Mại Pháp và Ngân Hàng
B.N.P. Các ông giám đốc của ba ngân hàng nầy thảo một bản tuyên bố chung gởi
cho Ban Quân Quản, có đoạn kết như sau :
- " Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi
không thể nghĩ tới bất cứ một hình thức hợp tác kỹ
thuật nào và chúng tôi chỉ có một nguyện vọng:
được trở về Pháp càng sớm càng tốt."
Các hãng "Chargeurs Réunis" và
"Messageries Maritimes" từng phụ trách hầu hết dịch vụ chuyên chở
hàng hóa bằng đường biển đến Âu Châu đã nhận được lệnh phải ngừng hoạt động để
biến thành một công ty quốc doanh độc quyền của Nhà Nước .
Ba ngày sau khi ông Giám Đốc hãng thuốc lá
Đông Dương trở về Pháp thì hãng thuốc lá nầy bị chiếm giữ ngay. Hãng thuốc lá
Bastos và hãng bia và nước ngọt nước đá Đông Dương (Brasseries-Glacières
d'Indochine) chỉ sản xuất 30 % năng suất vì đã gặp nhiều khó khăn với các
"ủy ban của xí nghiệp"..
- Vì gia đình đã về Pháp từ tháng 4 nên các
giáo sư sống xa gia đình, (các trường học đều bị đóng cửa).; các bác sĩ quân y
mãn khế ước, các nhân viên xí nghiệp đang ngừng hoạt động, các thương gia không
có khách (tiệm tùng bị đóng cửa, các khách sạn bị trưng dụng) ... tất cả những
người nầy sống thu hẹp như một xã hội bị đóng kín trong sự tuyệt vọng và buồn
nản..Trong khi chờ đợi các đường hàng không có thể được cho mở lại, họ không có
việc gì làm, nên chạy đi chạy lại thăm nom nhau để giết thì giờ, rồi mang hết
những gì họ còn lại như rượu và thức ăn ra ăn nhậu cho hết. Nhưng sự bực dọc
của các anh "bộ đội" thường gây ra những chuyện rắc rối bực mình cho
những người Pháp nầy (như xét căn cước liên tục, viếng nhà bất thần và thường
xuyên, không cho di chuyển) vì họ cho là những người ngoại quốc nầy khinh
thường họ khi lái xe hay khi ngồi tán gẫu trên sân thượng , nên bất cứ một vi
phạm nhỏ nào họ cũng có thể bị đưa tới công an để được nghe những lời giáo huấn
hằng giờ... hoạc nghe thuyết về sự cần thiết phải thay đổi "tánh phản
động" của mình.
- Tất cả những đồn điền cao su lớn đặt dưới
quyền chỉ đạo của một "ủy ban cao su" hiện nay do nhân viên Việt Nam
quản lý, phối hợp với chánh quyền địa phương. Một số nhà trồng tỉa phải trở về
Sài Gòn và họ tuyên bố là lúc nào cũng sẵn sàng giữ một vai trò cố vấn kỹ thuật
, nếu chế độ mới đòi hỏi. Nhưng chánh quyền cộng sản đã cho họ biết là họ
"chỉ mong hợp tác với những người chưa bao giiờ làm việc ở Việt Nam trước
ngày chiến thắng của cách mạng". Họ đã chỉ rõ ràng cho thấy ví dụ như
"những linh mục, những chuyên viên hay những nhà ngoại giao" đã từng
có những quan hệ với chánh quyền bù nhìn của ông Thiệu trước khi ông nầy ra đi."
Những người Việt Nam có quốc tịch Pháp tiếp
tục vây quanh văn phòng Di trú và tòa Lãnh Sự Pháp (Sài Gòn giờ đây đã xuống
hàng thành phố cấp vùng nên chỉ được phép có một đại diện Lãnh sự, các tòa đại
sứ đều ở Hà Nội). Không một người nào được phép hồi hương vì là "công dân
da vàng". Ba Lê vẫn không thể làm gì được trong lúc nầy. Và các công chức
trong lãnh sự quán chỉ biết nói là sự di tản của tất cả người Pháp" nói
chung có thể đòi hỏi 2 tháng hoặc 2 năm". Những đồng bào Pháp nào đã ra đi
được sau một thời gian chờ đợi khá lâu đều phải giao chìa khóa nhà và chìa khóa
xe của họ cho chánh quyền mới để họ "quản lý giùm". Họ chỉ được quyền
mang theo "quần áo và giấy tờ cá nhân" mà thôi. Họ không được rút
tiền từ chương mục ngân hàng của họ. Họ không được phép nhờ một thân nhân hay
môt bạn thân nào coi sóc giùm căn phòng , biệt thự hay xe cộ của họ. Các tài
sản nầy không phải bị cưỡng đoạt mà chỉ bị di lý thôi để giao lại cho
"nhân dân quản lý" trong khi chờ đợi bị sung công... Và chờ thủ tục
bồi thường.
Trong ngắn hạn, dù sao thì sự có mặt một trăm
năm của người Pháp ở Việt Nam cũng đã được bôi xóa đi một cách quá nhanh chóng.
Sau ba mươi năm cách mạng và tranh đấu, không phải chỉ để dùng tên của bao
nhiêu những vị anh hùng mà kẻ chiến thắng không bao giờ thiếu, để thay thế vào
tên đường như tên của ông Pasteur chẳng hạn.
°
°
Trong tuần lễ thứ ba của tháng 7, một người
Pháp từ Sài Gòn về nước đã trao cho tôi một bức thơ của một ông bạn Việt Nam
của tôi, giáo sư T.. .mà ông đã viết từ lâu không gởi được . Bức thơ viết :
- " Anh Pierre thân mến,
Có quá nhiều biến cố đã xảy ra từ sau lần
chúng ta gặp nhau chỉ mới vào khoảng cuối tháng 4 đây thôi nhưng tôi có cảm
tưởng là chuyện đã xảy ra cả trăm năm trước và trong một thế giới khác không
bằng. Đứa con trai lớn của tôi, thằng Viên. là trung úy ở sư đoàn 18 bộ binh,
đã bị tử thương trên đường Long Thành ngày 29 tháng 4. Nó được 24 tuổi.
Nhưng ba đứa khác thì lại được đoàn ngũ hóa
vào những hội đoàn mới. Chúng nó đi vẽ biểu ngữ trên tường, và đi kiểm kê những
người dân tỵ nạn. Nổi buồn của chúng tôi không thể diễn tả ra bằng chữ được.
Tôi đã cố gắng gạn lọc những tư tưởng của tôi vì tôi có quá nhiều điều phải nói
với anh.. Nhưng trước hết tôi cố gắng cho anh biết qua một số tin tức hay hay.
- Tinh thần của quân đội Miền Bắc cả ở Sài Gòn
và ở Đồng Bằng sông Cửu Long, không có quá tốt như người ta đã tưởng đâu. Họ
đào ngũ quá nhiều . Đài phát thanh cộng sản và các bản thông cáo dán ở trên
tường thường xuyên cảnh giác dân chúng không được chứa chấp những binh sĩ đào
ngũ nếu không sẽ bị "nghiêm trị". Lúc họ vào Sài Gòn, các "bộ
đội và cán bộ có rất nhiều tiền đồng (của Miền Nam ) mà họ đã thu nhặt được
trong các cơ quan của chánh quyền ở các thành phố mà họ vừa chiếm được. Phần
đông đã dùng tiền nầy để mua đồng hồ tự động, quẹt máy và rất nhiều món khác mà
họ chưa từng thấy biết qua bao giờ. Hết tiền rồi họ trở lại tình trạng thật sự
như trước, nghĩa là không sáng sủa gì cả. Để giữ tinh thần họ, cấp chỉ huy đã
tăng gấp đôi phụ cấp gạo cho họ. Nhưng lương thì không tăng: 1200 $ hằng
tháng.Chỉ vừa đủ mua 4 bao thuốc lá. Có một số binh sĩ đã bị động viên nhiều
năm rồi rất là bất mãn vì không được phép trở lại gia đình. Theo ước tính của
họ thì họ nghĩ rằng họ còn sẽ bị lưu giữ lại ở Miền Nam từ hai năm tới hai năm
rưỡi nữa.. Nhiều đơn vị tác chiến vừa được thông báo là họ sẽ qua một khóa huấn
luyện đặc biệt trong thời gian 18 tháng để được chuyển thành "lực lượng
gìn giữ an ninh và trật tự".
-Trên phương diện kinh tế, chánh quyền cộng
sản chưa có một biện pháp nào thuyết phục hết. Một đội ngũ được gọi là chuyên
viên tài chánh (đúng hơn phải gọi họ là nhân viên kế toán ) đã từ Hà Nội vào
đây với những thùng "bàn toán" của Tàu (trong lúc tất cả ngân hàng và
các công ty xí nghiệp sẽ được họ kiểm soát đã và đang xử dụng máy điện toán).
Các "ông chuyên viên" nầy thường nhắc đi nhắc lại với những ai muốn
nghe là ưu tiên hàng đầu của họ là phải " đập tan bộ máy kinh tế bù
nhìn". Theo họ thì đời sống của người dân ở thử đô Sài Gòn quá dễ dàng là
nhờ viện trợ của Hoa Kỳ . Hầu hết dân chúng Sài Gòn chỉ là những con "ký
sinh trùng" sống ăn bám vào mưu mô thủ đoạn và sự đầu cơ. Tất cả những
tích trữ trong ngân hàng sẽ bị tịch thu hết.
- Tiền lương của tất cả những công chức và
chuyên viên được giữ lại trong nhiệm vụ của họ sẽ được trả phân nửa bằng gạo và
phân nửa bằng tiền. Lương thấp nhất được 10.000 đồng (khoản 120 quan Pháp) và
phụ cấp gạo: 10 kí lô cho mỗi người lớn và 5 kí lô cho trẻ con. Lương cao nhất
không được quá 25.000 đồng (tương đương 250 quan Pháp). Các cán bộ địa phương
của Mặt Trận khuyên những nhà buôn nên mua vàng và hàng vải hơn là tích trữ
tiền mặt. Có nhiều cuộc chuẩn bị cho thấy sắp sửa có đổi tiền cũ lấy tiền mới.
Chánh quyền sẽ hành động bất thần, không báo trước, và thời gian đổi tiền chỉ
trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Tiền mới đã được in rồi (1)
- Đời sống đã đổi thay khác hết. Không ai còn
tìm đâu được một giọt xăng. Tất cả đều phải đi xe đạp ( hãng L'U.C.I.A của
người Pháp đã gặt được một mẻ to vì đã bán hết số xe đạp còn tồn kho). Chánh
quyền cũng có cho mở lại vài trạm xăng, nhưng chỉ dành cho xe buýt và xe vận
tải công cộng. Cho đến những ngày đầu tháng 6, các chợ còn được tiếp tế khá đầy
đủ và giá cả còn được bình thường. Trừ ra cá, càng ngày càng ít đi và càng ngày
càng mắc. Cũng vì không có đủ xăng, 90 % tàu đánh cá không thể ra khơi được .
Vào tháng 6, gạo đã bắt đầu khan hiếm. Các chợ không nhận được gạo. Có kêu than
cũng vô ích thôi. Mà nếu như chợ có đầy đủ như trước kia ... thì chúng tôi cũng
không còn tiền.
-Những bạn bè từ Miền Trung vào đã nói với tôi
là hầu hết tất cả vùng ngoài đó đã bị cộng sản kiểm soát khá chặt chẻ, đến độ
chỉ có lá cờ đỏ sao vàng của Hà Nội được treo ở các quận lỵ của tỉnh. Cuộc
thanh trừng thật là khủng khiếp. Tất cà những sĩ quan trình diện đi học tập đã
được đưa đi các trại lao động khổ sai ở tận trên núi rừng. Họ phải mở những con
đường xuyên qua rừng rậm, để chở những mảng gổ to và những tảng đá nặng. Vì khí
hậu ở đó quá khắc nghiệt và không được trong lành, lại thiếu thuốc men, mặc
không đủ ấm, ăn không đủ no.. nên họ chết rất nhiều .Phần lớn các Cảnh Sát đã
bị hành quyết. Con gái hay những bà vợ góa của các quân nhân, của những người
tư bản và của những công chức cao cấp , bị gả ép cho các thương phế binh Bắc
Việt để vừa làm bạn vừa làm y tá cho họ.
- Trái lại, ở Vùng Đồng Bằng và ở Sài Gòn tình
trạng mất an ninh và vô trật tự càng ngày càng lớn. Trộm, cướp, và ám sát ngày
càng nhiều . Báo chí và đài phát thanh cộng sản quy trách cho binh sĩ của
"chế độ bù nhìn cũ đã dùng vũ khí của họ để hành động phá rối trị an"
. Chuyện đó còn phải chờ xem, vì từ ngày chấm dứt chiến trận, các cựu quân nhân
của quân đội chúng tôi sống vất vưởng không có một lợi tức nào cả. Họ đâu còn
lãnh lương, không có quyền lãnh một hột gạo và dĩ nhiên là thất nghiệp. Nhưng
không phải chỉ có những anh cựu quân nhân mà thôi. Còn có những anh "chiêu
hồi", những anh Việt Cộng đã trở về vời quân đội VNCH. Có khoản 200.000
người . Cộng sản Bắc Việt đã cho lệnh họ phải trở về với những đơn vị cũ của họ
trước kia. Khiếp sợ vì phải rơi trở lại vào tay của những người mà họ đã chối
bỏ và đã chống lại trước kia nên họ lẩn trốn và sống gần như ngoài pháp luật.
- Cộng sản cũng đã phạm nhiều lỗi lầm không
giải thích được .Trong tuần lễ đầu của tháng 5, họ đã mở cửa các khám và đã thả
ra tất cả tội phạm, kể cả những người mắc bệnh tâm thần ở bệnh viện Chợ
Quán.Tất cả những tội phạm đều không phải là tù nhân chánh trị , mà có cả ngàn
người trong số được thả ra là những tội phạm hình sự, phạm tội giết người và
trộm cướp chuyên nghiệp. Những bệnh nhân tâm thần ở Chợ Quán phần đông là những
người điên rất dữ dằn, rất nguy hiểm cho xã hội . Chuyện thả hết những tôi phạm
bất lương và những người điên chỉ làm cho tình hình trở nên trầm trọng thêm mà
thôi.
- Ở trung tâm Sài Gòn thì sự kiểm soát có phần
khá hơn, nhưng trong tất cả những khu vực đông dân và ở ngoại ô, thì ban đêm
thường có những sự đụng chạm. người ta thường nghe tiếng súng nổ. Trong những
khu vắng vẻ ở Phú Nhuận và Tân sơn Hòa, có những vụ trộm, những vụ ném lựu đạn,
và ám sát có khi xảy ra cả ban ngày.
Chúng tôi được biết là hiện nay có những chiến
khu ở nhiều nơi trong vùng Đồng Bằng, cũng như trong rừng và vùng đầm lầy ở
Miền Đông của Sài Gòn . Có một số binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến , biệt động quân
và lính Dù còn đầy dủ trang bị, di chuyễn gần như khắp nơi và phục kích. Ở Miền
Tây thì Hòa Hảo nổi dậy chống đối công khai. Họ tấn công các đoàn xe cộng sản ,
bắn phá các trung tâm đô thị, và phá hoại các đường dây liên lạc . Ở Cao
nguyên, có hàng chục ngàn đồng bào Thượng đốt bỏ làng rút vào rừng sâu. Về
những chuyện như thế chúng tôi biết nhiều chi tiết chính xác, nhưng nếu viết ra
đây thì quá dài. Bạn của anh là Paul Ph. biết rành các chuyện nầy. Chắc không
bao lâu nữa anh ta sẽ về Ba Lê, vì anh là công dân Pháp. Anh ta có liên lạc
được nhiều nơi, và đã đi lại khá tự do.
Tôi thích nói cho anh vài chi tiết về những
người công giáo. Những trận đánh cuối cùng, đẫm máu nhứt và khốc liệt nhứt
không phải do các đơn vị chánh quy của Miền Nam Việt Nam mà là do những anh dân
vệ công giáo ở Hố Nai. Có nhiều em chỉ mới vừa 15 tuổi đầu, do các linh mục chỉ
huy, cầm thánh giá và lá cờ vàng trắng của Đức Thánh Cha, đã chiến đấu dữ như
cọp . Họ đã phá hủy được 8 chiến xa T. 54 chỉ bằng lựu đạn và các chai xăng
"mô lô tốp (molotov) và đốt cháy nhiều xe vận tải chở đầy lính Bắc Việt .
Trận chiến đã kéo dài trong 2 ngày và hai đêm.. Lúc trước, khi quân đội chánh
quy Miền Nam đóng ở Hố Nai rút đi, lực lượng dân vệ ở đây đã giữ lại được mấy
khẩu pháo binh và đã xử dụng. Linh hồn của trận chiến là cha Sữu người mà anh
đã từng biết rõ. Ông đã bị tử thương. Các em dân vệ đã đem được ông vào nhà và
ở đó chiến đấu luôn mấy giờ. Những người sống sót, hầu hết đều bị thương, đã bị
cộng sản đem ra xử bắn hết...
Ở Sài Gòn , người công giáo trên nguyên tắc
không có gì lo lắng hết. Các nhà thờ đều mở cửa và các linh mục được phép làm
lễ. Các nhà thờ đều đầy nghẹt tín đồ. Nhưng cũng vẫn có nhiều chuyện rắc rối đã
xảy ra :
- Chuyên thứ nhất nhằm vào Đức Ông Le Maitre
đại diện của Tòa Thánh Vatican . Các tín đồ tiến bộ (cánh tả) đã tràn ngập vào
Tòa Đại diện của Tòa Thánh. Họ lôi Đức Ông và thơ ký của ông ra ngoài đường, ở
đó họ đang họp mết tinh để tố khổ. Đức Ông bị họ lên án là đã hỗ trợ cho hành
động của Chánh Phủ bù nhìn của ông Thiệu. Họ xô đẩy và la ó lớn tiếng với Ông.
Những người trong mết tình đã hạ lá cờ của Tòa Thánh Vatican xuống và thay vào
đó lá cờ của CPLTCHMN. Cảnh Sát đã đến can thiệp bằng cách bắn chỉ thiên vài
phát súng. Đức Ông được giải tỏa và được dẫn lên phòng của ông . Nhưng sau đó
Ban Quân Quản đã trao cho ông một quyết định trục xuất, với lý do :" sự
hiện diện của Ông sẽ làm xáo trộn trật tự công cộng" Và Đức Ông đã rời
khỏi nước Việt Nam
- Một chuyện rắc rối khác, quan trọng hơn
nhiều, được xảy ra vào đêm mồng 4 tháng 6, ở khu Trương minh Giảng mà như anh
đã biết đó là một địa bàn của những người công giáo cứng đầu, khó chịu nhất.
Ngày 3 tháng 6, có vài trăm tín đồ cánh tả đã biểu tình đòi Đức Cha Thuận phải
từ chức. Đức Giám Mục Ngyễn văn Thuận vốn là cháu của Tổng Thống Diệm và là
Giám mục của địa phận Nha Trang, mà Vatican vừa mới bổ nhiệm ông vào nhiệm vụ
Phụ Tá Đức Tổng Giám Mục Địa phận Sài Gòn .Đức Cha Thuận là người được mọi
người giáo dân thương mến và kính trọng, kể cả những người không phải là tín đồ
cũng vậy. Hàng ngàn tín đồ công giáo thuộc giáo khu Fatimah đã tổ chức một cuộc
xuống đường chống-biểu tình và hô to những khẩu hiệu chống cộng sản . Vì đã quá
giờ thiết quân luật, nên một đội tuần tiễu của "bộ đội" đã đến cánh
cáo họ phải giải tán. Các giáo dân đã giựt chuông inh ỏi ở các nhà thờ. Đám
biểu tình đã giải giới mấy anh "bộ đội" và đã đánh đập họ. Quân đội
đã đến can thiệp và có bắn vào đám đông. Có 2 người chết và 6 người bị thương.
Ngày hôm sau người ta tìm thấy xác của 3 chú "bộ đội" bị cắt cổ và
được treo ở thành cầu. Còn đức cha Thuận thì bị bắt buộc phải rời khỏi Tòa Giám
Mục và về sống ẩn cư ở Nhà Dòng lớn. Ở Miền Trung và các tỉnh ở Miền Nam , tất
cả cơ sở tôn giáo (trường học, nữ tu viện, cơ sở y tế lớn nhỏ...) đều bị sung
công và xử dụng làm trại lính.
- Trong khu vực của tôi, từ 5 ngày nay những
sự khám xét càng ngày càng tăng và lương thực càng ngày càng khan hiếm.. Là một
giáo sư về Luật, tôi không còn có việc làm nữa. Như thế là không có lợi tức.
Tuy vậy mà tôi cũng phải tham gia vào các"buổi họp tập của các luật
gia" để tự "cải tạo" mình Người ta chỉ bàn cãi về chánh trị .
Mọi người đều tranh đua nhau tưởng tượng để sáng chế ra những khẩu hiệu mới mẻ
theo chìu hướng " Pháp luật dính liền với chánh trị , đó là một công cụ
đấu tranh, một phương tiện để đạt tới mục tiêu cách mạng " . Đó là một
khẩu hiệu quá ngu xuẩn, nhưng khi người ta lập đi lập lại nhiều lần và viết đi
chép lại chừng ngàn lần, người ta không còn nhớ rõ tại sao người ta đã bắt đầu
phải học Luật . Thà là tôi chịu khó đi cuốc đất, xuống hàng cho các xe vận tải
hay cưa củi. Có thể người ta sẽ đưa tôi đi một trại lao động.
Tôi là một tín đồ Thiên Chúa giáo như anh
Pierre đã biết đó. Nhưng có đôi lúc tôi thấy Đức Chúa Trời ở xa Việt Nam quá !
Và tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi còn phải ở lâu lắm trong thế giiới cộng sản
."
°
°
Đầu tháng 8. sau 3 tháng thương lượng đầy gay
go và thất vọng, cuối cùng nước Pháp cũng mở được một cầu không vận với Sài
Gòn, để di tản trong thời gian hơn một tháng, 1600 công dân Pháp. Còn những
người khác thì sao ?
Chú thích :
(1).- Tiền mới đã được thực sự lưu hành trong
tuần lễ thứ hai của tháng : Tiền đồng (nặng) trị giá 500 đồng tiền cũ của Miền
Nam hay là 3 quan Pháp. Nhưng mỗi người chỉ đổi được có 200 đồng (tiền mới),
tất cả người Việt Nam và người ngoại quốc đều được lệnh phải đem nộp cho Ngân
Hàng Quốc Gia số tiền còn lại mà họ đang có. R ồi đây số phận của cộng đồng
người Pháp ở Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao đây ? Những người "bi quan"
trong đó có tôi (tác giả) nghĩ rằng tất cả rồi sẽ giống như những gì đã từng
xảy ra ở Bắc Việt năm 1954. Nghĩa là cũng phải tới kỳ hạn mà cục
"bướu" ngoại quốc cuối cùng nầy cũng phải bị trục xuất. Những người
"lạc quan" thì vẫn còn tin rằng rồi cũng có khả năng cho một giải
pháp thỏa hiệp nào đó.
Các sự việc xảy ra đã chấm dứt ngay cuộc tranh
luận nầy.
Những người Pháp từng được mến mộ vào những
ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ, không có một chút quyền lợi đặc biệt nào
sau khi Bắc Việt chiếm được thành phố. Còn trái ngược hẳn lại là khác!Những
người đầu tiên biết rõ được như vậy là những nhà báo đã bị kẹt lại Sài Gòn . Họ
không bị ngạc nhiên gì cả khi nhận thấy là họ được xếp sau hẳn, sau thật xa các
đồng nghiệp người Anh và người Nhật ... và cả người Mỹ, trên danh sách những
người được ra đi. Người Pháp được xếp vào loại "những người có quốc tịch
khác", gần như họ là nạn nhân của những nỗ lực sau cùng của Chánh Phủ Pháp
nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam . Nhưng chỉ có khoảng 50
nhà báo thôi..., và họ đeo theo chánh quyền mới với sự tò mò liên tục, với nỗi
lo âu muốn biết thêm tin tức, và vì sự hoài nghi của họ. Một chiếc phi cơ thôi
cũng đủ để dẹp gọn họ rồi. Khi họ đi rồi thì còn khoản 12.000 người Pháp ở lại
Việt Nam . Trong số đó có chừng 2.500 là người Pháp chánh gốc (cộng tác ở đây,
thương gia, nhà trồng tỉa, về hưu, nhân công các hãng xưởng Pháp..), trên lý
thuyết là những người có thể tùy hoàn cảnh hoặc sẽ rời khỏi đây sau khi quan hệ
bình thường được tái lập, hoặc sẽ ở lại nếu xí nghiệp của họ được phép tái hoạt
động.
Thật ra lý thuyết và thực hành không đi đôi
với nhau được : nhiều lắm là vài trăm người trong số nầy có thể ra đi. Những
đường liên lạc hàng không thật là rất bất thường và rất kỳ lạ. Đều đặn thường
có thông cáo dán trên một tấm bản đen trước cửa Bộ Ngoại Giao cũ hay trước sở
Di trú. Hôm đầu tuần, một ủy viên chánh trị nào đó đã lấy phấn viết lên tấm bản
đen đó rất rõ ràng như sau: " Sắp tới sẽ có chyến bay đi Vạn Tượng... Ngày
, giờ khởi hành sẽ được thông báo đúng lúc." Thấy vậy các anh đã có hộ
chiếu đều lo sửa soạn va li, nhảy lên tắc xi và chạy thẳng ra sân bay Tân sơn
Nhứt . Binh sĩ giữ an ninh ở đó đẩy họ ra. Không có một chuyến bay nào được dự
trù. Họ lại trở về thành phố. Lại chờ đợi... Vào cuối tuần một anh lính gác bôi
bỏ thông cáo nói trên, và sáng thứ hai, lại cũng anh ủy viên chánh trị đó, lại
viết lên bản đen những giòng thông báo cũ với một vẻ nghiêm trọng không kém
tuần trước .... cho đến khi cuối cùng có một chuyến bay cất cánh.
Chuyện nầy có nhiều lý do không giống nhau.
Các chuyến bay con thoi của Lào đã ngừng bay vì chánh quyền cộng sản ở Sài Gòn
lúc bán vé thì thu vào đồng đô la Mỹ, mà muốn trả cho hãng Hàng Không Lào bằng
tiền đồng của Việt Nam, một loại tiền tệ gần như chỉ có một giá trị nào đó ở
Sài Gòn mà thôi. Ngoài ra các chuyên viên của Miền Nam Việt Nam (truyền tin, ra
đa, điện tử, kỹ sư thông tin liên lạc v.v..) đều đã ra đi với người Mỹ và chánh
quyền cộng sản không có lấy một người để thay thế vào đó.
Có một số trở ngại khác, một phần dụng cụ của Hàng
Không Pháp (Air France) tối cần thiết cho công tác điều hành khi phi cơ đến và
đi (máy điện toán, máy truyền tin, tổng đài điện thoại, kho dụng cụ thay thế,
xe đẩy và kéo phi cơ, xe nâng hàng và tiếp tế xăng nhớt v.v..) đã mất hết không
còn một dấu vết nào cả. Kho hàng gởi đi gồm cả 8 tấn hàng quý giá ( trong đó có
3 tấn ngọc thạch quý của một người buôn đồ cổ giàu có) đã không cánh mà bay
mất. Không biết người nào đã cướp sạch. Ban Giám Đốc Hàng Không "Air
France " của Pháp ở Ba Lê đã dề nghị với chánh quyền cộng sản để cho họ
đưa sang những toán chuyên viên và một số dụng cụ thay thế. Họ nghĩ rằng như
thế là họ có thể tái tục được các chuyến bay vào tuần lễ đầu của tháng 7. Ban
Quân Quản Sài Gòn đã không nói là "không", mà cho biết nhận xét của
cách mạng là hãng Hàng Không "Air France" của Pháp trong nhiều năm
qua đã không tỏ thiện chí trong việc tái thiết lập lại đường bay giữa Ba Lê và
Hà Nội.. Ngoài sự nguy hiểm mà đường bay nói trên được mở lại trong lúc Hoa Kỳ
đang dội bom Bắc Việt , đường bay nầy cũng không có lời. Dù muốn dù không thì
cả 3 hãng Hàng Không "Air France" và U.T.A của Pháp đã không có một
hoạt động nào từ khi Sài Gòn bị cộng sản chiếm cứ. Mà dường như là họ không thể
tìm lại một đường bay nào cả. Hàng Không Dân sự được Hà Nội trực tiếp quản lý.
Mặc dầu đã cố nài nỉ nhiều lần, đại diện của hãng "Air France" cũng
không được phép đến phi trường để xem xét các cơ sở của hãng để thiết lập một
bản kiểm kê chính xác về các phương tiện và vật dụng đã bị bị mất hết.
Và như thế là việc tái lập các đường bay đến
Sài Gòn coi như bị đình hoãn vô hạn định. Chỉ có một chuyến bay duy nhất là phi
cơ của Liên Hiệp Quốc. Như thế thì những người Pháp nào được bảo đảm là có
quyền ra đi.. trong một thời hạn nào đó, thì chỉ có kiên nhẫn nằm chờ. Vả lại,
những người Pháp bất cứ gốc gác thế nào, người Pháp chính cống hay là người có
quốc tịch Pháp cũng vậy, đều không chờ đợi được gì ờ Lãnh Sự Quán hay Đại Sứ
Quán của mình. Đại sứ Pháp, ông M. Mérillon không còn thấy ở đâu nữa cả, và ông
cũng không có tiếp ai hết. Tòa đại sứ Pháp có đầy đủ tiền bạc, lương thực, nước
uống .. không thiếu món chi, nên đã đóng kín cửa rào. Và Đại sứ, mà bổn phận
đầu tiên lẽ ra là phải đi thăm những người Pháp vốn đang ở trong cảnh khốn
quẫn, để an ủi họ, để cho họ yên tâm, vững lòng, để giúp họ vượt qua được tình
thế hay giải quyết những bài toán khó khăn mà họ đang gặp phải, để bênh vực
quyền lợi của người Pháp đối với chánh quyền mới.. nhưng ông không bao giờ bước
ra khỏi nhà. Ông ta chỉ có khuyên người Pháp không nên treo cờ Pháp quá nhiều ,
vì theo ông, dù là chỉ treo tạm nhưng sự kiện treo quá nhiều cờ tam tài có thể
được coi là một sự "khêu khích".
Thế nhưng, người Pháp đã gặp rất nhiều khó
khăn...
Những người có biệt thự với đầy đủ tiện nghi
hoặc nhà thường thôi mà ở khu vực ngoại ô.. thì cũng bị đuổi đi hết. Lý do :
không bảo đảm được an ninh đầy đủ.
Tất cả các ngân hàng đều bị đóng cửa, các
chương mục bị khóa lại hết, các xí nghiệp phải ngưng hoạt động, các đồn điền
cao su và cơ sở kỹ nghệ của họ đều không xử dụng được vì đã bị hư hại nặng nề,
các bãi đậu xe bị "trưng dụng".. Ai cũng thiếu tiền. Các công chức
chưa được lãnh lương từ ngày 1 tháng 5, chỉ được nhận một số tiền ứng trước nào
đó thôi của lương mình.
Các ông chủ xí nghiệp nhỏ , dù đã ngưng hết
mọi hoạt động từ ngày có biến cố cộng sản , vẫn phải tiếp tục trả lương cho
nhân viên dù họ không làm việc. Các hãng xưởng lớn thì bị "ủy ban nhân dân
xí nghiệp" đòi hỏi phải bồi thường tiền phụ cấp nghỉ việc. Mỗi lần mà
những chủ nhân người Pháp muốn nói chuyện dàn xếp thì lại không thấy có một
người nào có đủ thẩm quyền. Các nhà trồng tỉa còn kẹt ở Cao Nguyên Trung Phần
mà muốn xuống Sài Gòn đều phải nộp đơn xin phép với ông ủy viên quân sự của tỉnh.
Những nhà trồng tỉa ở vùng Bảo Lộc đã bị bắt và tài sản của họ bị tạm giữ.
Những nhà truyền giáo trong nước không bị phiền nhiễu gì nhưng bị quản thúc và
đang lo sẽ bị trục xuất.
Khách sạn Continental thì vắng hoe từ lúc các
nhà báo ra đi hết .Tầng trệt của Trung tâm Văn Hóa bị ủy ban của khu vực chiếm
đóng.. Bệnh viện Grall phải thay lá cờ Pháp bằng lá cờ Hồng Thập Tự và cờ của
Chánh Phủ Lâm Thời. Thơ từ từ bên Pháp gởi sang được Hà Nội chuyển tiếp phải
đến rất trễ, mấy tuần lễ sau mới nhận được .Tờ báo "Tin Tức Viễn
Đông" một tờ nhật báo duy nhất bằng tiếng Pháp, tường thuật về tình hình
tài chánh, ghi lại tin tức của thông tấn xã A.F.P . và thường mô tả đời sống ở
Ba Lê ... đã bị đình bản như tất cả các tờ báo cũ của chánh quyền Miền Nam .
Nỗi lo âu của người Pháp đã trở thành nỗi bi
quan, vì ai cũng phải hoàn toàn tự lo cho mình. Sau một loạt sự việc không hay
xảy ra như :
- việc đóng cửa hãng Citroen, và Giám Đốc đã
bị giam giữ vì không thể trả lương được cho nhân viên,
- như việc bắt ông Giám Đốc hãng Michelin phải
"nộp phạt", vì bị toán nhân viên có mang võ khí đe dọa , với sự có
mặt của các đại diện của ủy ban quân sự hành chánh , ông bị bắt buộc phải nộp
một khoản "bồi thường nghỉ việc rất lớn" cho tất cả nhân viên người
Việt Nam ở các văn phòng và các đồn điền cao su của hãng.
- như khách sạn Continental đã bị trưng dụng
để cho các cán bộ Bắc Việt đi công tác vào ở: sĩ quan cao cấp, chuyên viên kế
toán vào thanh lọc các chương mục ngân hàng và thanh tra hoạt động của tất cả
các xí nghiệp ngoại quốc.
- như "Câu lạc bộ thể thao" mất hẳn
quy chế của một câu lạc bộ tư nhân.Trước hết là một tiểu đoàn quân Bắc Việt vào
chiếm đóng, và từ đó được mở cửa cho nhân dân xử dụng.
- như "ga ra Charner", sau khi bị
một cuộc kiểm kê vật dụng tỉ mỉ cho đến tận những con bù lon, công ty nầy đã
nhận được một "lệnh cấm bán" dù đó là phụ tùng thay thế nhỏ.
- Có một số nhân viên người Pháp ở những đồn
điền cao su còn ở lại làm việc ở các nhiệm sở nằm trong vùng đã được cộng sản
kiểm soát. Có những người khác thì đã trở lại nhiệm sở sau khi Sài Gòn bị thất
thủ. Nhưnng tất cả hai loại người Pháp nầy cuối cùng đều phải chuẩn bị để rời
khỏi những nơi nầy.
- Nổi gian truân đã đến với nhân viên của đồn
điền S.I.P.H thì lại rất đặc biệt. Ngày 7 tháng 5, một tuần lễ sau khi Sài Gòn
bị thất thủ, những cán bộ trồng tỉa thuộc đồn điền S.I.P.H trở lên những vùng
mà họ đang khai thác nằm ở gần Xuân Lộc. Bộ đội chánh quy Bắc Việt đã chiếm
đóng tại đây rồi. Những binh sĩ trú đóng trong những dãy nhà thuộc Phòng Nghiên
Cứu Kỹ Thuật của đồn điền đã dùng các hồ sơ lưu trữ để đốt lửa nấu cơm. Giám
đốc đồn điền người Pháp (nói thông thạo tiếng Việt) đã báo động với một ủy viên
chánh trị Bắc Việt rằng:
- " Các anh "bộ đội của ông đã làm
một việc ngu xuẩn tày trời. Các hồ sơ mà họ xé nát hết để đốt đi có một giá trị
không lường được .Đó là kết quả của 50 năm làm việc, tìm tòi, nghiên cứu và
thực nghiệm về việc trồng tỉa cây cao su. Không phải tôi phản đối vì để bảo vệ
quyền lợi của sở tôi, mà bởi vì nếu sau nầy người Việt Nam muốn tiếp tục sản xuất
cao su cho đất nước mình và muốn nâng cao năng suất và sản lượng cao su, thì
những hồ sơ nầy có một giá trị hàng đầu cho đất nước. Tôi xin lưu ý với ông là
không có gì thay thế được cho các hồ sơ nầy."
Ông ủy viên nầy đã quở trách binh sĩ của mình
và cho lệnh họ không được đụng tới những tập hồ sơ nầy nữa. Nhưng từ ngày hôm
sau đó, các chú "bộ đội" lại tiếp tục dùng các tập hồ sơ quý giá đó
để nấu cơm nữa , và chỉ trong vài ngày sau họ thiêu hủy hết tất cả kết quả của
công tác nghiên cứu khoa học trong nửa thế kỷ đã được cập nhật hóa rất là công
phu và cẩn thận.
Về phần mình, người Pháp đã khai triển trở lại
mọi công việc trong đồn điền. Việc cạo mủ cao su đã trở lại nhịp độ bình
thường. Nhưng ngày 21 tháng 5, tất cả các công nhân người Việt, được Ủy Ban của
Đồn diền hướng dẫn đã nổi lên biểu tình tập thể và ép các nhà trồng tỉa người
Pháp phải rời ngay khỏi đồn điền, không cho họ kịp thu dọn các vật dụng cá nhân
của họ nữa.
Đó là tình hình của cộng đồng người Pháp khi
Đại Sứ M. Mérillon được "gọi về" Ba Lê, hồi đầu tháng 6. Một thông
cáo báo chí của Tổng Thống Phủ từ Ba Lê đã xác nhận:
- "Trái hẳn với những gì mà một vài thông
tấn báo chí đã dự đoán từ trước , sự ra đi của Đại sứ Mérillon không phải do
CPLTCHMN bắt buộc"
Quả nhiên điều nầy rõ ràng là rất đúng với sự
thật cũng giống như cái CPLTCHMN không bao giờ có mặt ở Sài Gòn vậy !
Thói quen nổi bật nhất của các nhà ngoại giao
là hay "chơi chữ", là chuyển đổi những điều "lăng nhục" ra
thành những sự "hiểu lầm" Nhưng sự kiện là sự kiện, không thể nào
biến thể nó một cách dễ dàng được . Ông đại sứ Jean Marie Mérillon đã rời khỏi
nước Việt Nam mà không bao giờ được tướng Trần văn Trà tiếp kiến. Tướng Trà là
chánh quyền duy nhất tại Sài Gòn . Người ta nói là ông Mérillon đã gặp một số
"cán bộ cách mạng ", trong khi người đồng nhiệm Bắc Việt của ông ở Ba
Lê lại danh dự được điện Élysée tiếp kiến. Một ngày trước khi ông rời khỏi Miền
Nam Việt Nam , ông được gọi tới Bộ Ngoại Giao. Ông đã gặp 3 nhân vật vô danh vì
đứng trước mặt ông họ không thèm xưng danh tánh, cấp bậc của họ. Họ "cám
ơn" ông về hoạt động của ông và thông báo cho ông biết là sẽ có "một
người nào đó thuộc ban nghi lễ" sẽ đợi ông ở phi trường để giúp ông khỏi
bị phiền phức về thủ tục khai báo với Công An và Quan Thuế. Đúng giờ, có một
công chức cũng vô danh đã đợi ông Đại Sứ Pháp để đưa ông đến tận phi cơ và cho
ông được ưu tiên lên phi cơ trước những hành khách khác. Đó cũng là một niềm an
ủi cho một chút tự ái mỏng mành cho một người Đại diện của một quốc gia đã từng
đóng góp "quá nhiều cho nền hòa bình" ! Tuy nhiên đức tánh bình dân
của ông Đại sứ Jean Marie Mérillon đã đặc biệt bị hạ quá thấp so với những
người Pháp ở Sài Gòn .
Có một số người đã nói ;
- " Ông Đại sứ đã thực hiện một tiết mục
lớn : Ông đã thúc hối cho ông Thiệu sớm rời khỏi chức vụ, và sau đó cả ông già
Hương nữa để đưa cho được tướng Dương văn Minh lên. Ông đã tưởng rằng như vậy
là đã đem lại hòa bình và một sự hòa hợp. Nhưng ông ta chỉ thành công trong
việc nhanh chóng làm tan rã nền chánh trị của Miền Nam và đưa Miền Nam đến một sự
đầu hàng không điều kiện mà thôi. Trước ngày mất thủ đô, người ta chỉ thấy có
một mình ông Đại Sứ Pháp. Nhưng sau đó thì ông đã biến thành một luổng gió...
Và giờ đây ông ra đi, để lại sau lưng ông trên mười ngàn con tin người
Pháp.....
Thật vậy, nước Pháp có quyền hy vọng một ân
huệ nào đó trong thái độ đối xử - để tưởng thưởng những nỗ lực của mình - Nhưng
trái lại nước Pháp chỉ nhận được những điều ức hiếp và lăng nhục !
Ngược lại, những Đại diện của Hà Nội và của
CPLTCHMN ở Ba Lê (có mặt thường hơn ở thủ đô Pháp hơn là ở thủ đô Miền Nam) lại
được hưởng một sự tự do phát biểu và tự do đi lại trong toàn lãnh thổ nước
Pháp. Vấn đề an ninh của họ được hoàn toàn bảo đảm. Họ được có những đoàn hộ
tống chánh thức. Báo chí và đài phát thanh đã giúp họ phổ biến những bản tuyên
bố và thông cáo báo chí. Họ lại được bênh vực luận cứ và quan điểm của họ trên
đài truyền hình. Chánh Phủ Pháp không hề gây cho họ bất cứ một khó khăn hay
phiền toái nào.
Phải chăng đó là một điều không hợp lý khi
phải đòi hỏi để đơn giản có được một sự đối xử tương ứng ?
Sự ra đi của Đại Sứ Pháp Jean-Marie Mérillon
khi ông chỉ thật sự là một nhân viên thừa hành trung thành với đường lối chánh
trị lệch lạc từ Bộ Ngoại Giao của ông ta , đã không giúp cải thiện được bao
nhiêu những mối giao hảo giữa "chánh quyền cách mạng" và các công dân
người Pháp của chúng tôi.
Trong đêm 16 rạng 17 tháng 6, bệnh biện Grall
bị các "bộ đội" với súng ống đầy đủ, vây kín. Các binh sĩ Bắc Việt và
các sĩ quan an ninh tràn vào lục soát khắp nơi : các phòng mổ, các tủ thuốc,
phòng của các bác sĩ và của những người bệnh. Họ đã nói là họ muốn "biết
chắc chắn là không có một vũ khí nào được cất dấu trong bệnh viện và không có
một người nào ở phòng bịnh nhân bị coi là trong tình trạng bất hợp lệ.
Đến sáng ngày 17 / 6 tờ "Sài Gòn Giải
Phóng loan báo là kể từ nay chỉ có một ngân hàng duy nhất ở Việt Nam .Tất cả
các ngân hàng khác, của quốc gia, của tư nhân hay của ngoại quốc đều phải đem
nộp hết sổ sách, chương mục, và bản kết toán cho ngân hàng quốc gia mới của
Việt Nam. Các biệt thự của nhân viên ngoại quốc đều bị sung công. Các thanh tra
phải vào tạm trú ở các cư xá thuộc 3 ngân hàng: Ngân Hàng Á Châu của Pháp, (tên
địa phương là Ngân Hàng Đông Dương) , Ngân Hàng Thương Mại Pháp và Ngân Hàng
B.N.P. Các ông giám đốc của ba ngân hàng nầy thảo một bản tuyên bố chung gởi
cho Ban Quân Quản, có đoạn kết như sau :
- " Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi
không thể nghĩ tới bất cứ một hình thức hợp tác kỹ
thuật nào và chúng tôi chỉ có một nguyện vọng:
được trở về Pháp càng sớm càng tốt."
Các hãng "Chargeurs Réunis" và
"Messageries Maritimes" từng phụ trách hầu hết dịch vụ chuyên chở
hàng hóa bằng đường biển đến Âu Châu đã nhận được lệnh phải ngừng hoạt động để
biến thành một công ty quốc doanh độc quyền của Nhà Nước .
Ba ngày sau khi ông Giám Đốc hãng thuốc lá
Đông Dương trở về Pháp thì hãng thuốc lá nầy bị chiếm giữ ngay. Hãng thuốc lá
Bastos và hãng bia và nước ngọt nước đá Đông Dương (Brasseries-Glacières
d'Indochine) chỉ sản xuất 30 % năng suất vì đã gặp nhiều khó khăn với các
"ủy ban của xí nghiệp"..
- Vì gia đình đã về Pháp từ tháng 4 nên các
giáo sư sống xa gia đình, (các trường học đều bị đóng cửa).; các bác sĩ quân y
mãn khế ước, các nhân viên xí nghiệp đang ngừng hoạt động, các thương gia không
có khách (tiệm tùng bị đóng cửa, các khách sạn bị trưng dụng) ... tất cả những
người nầy sống thu hẹp như một xã hội bị đóng kín trong sự tuyệt vọng và buồn
nản..Trong khi chờ đợi các đường hàng không có thể được cho mở lại, họ không có
việc gì làm, nên chạy đi chạy lại thăm nom nhau để giết thì giờ, rồi mang hết
những gì họ còn lại như rượu và thức ăn ra ăn nhậu cho hết. Nhưng sự bực dọc
của các anh "bộ đội" thường gây ra những chuyện rắc rối bực mình cho
những người Pháp nầy (như xét căn cước liên tục, viếng nhà bất thần và thường
xuyên, không cho di chuyển) vì họ cho là những người ngoại quốc nầy khinh
thường họ khi lái xe hay khi ngồi tán gẫu trên sân thượng , nên bất cứ một vi
phạm nhỏ nào họ cũng có thể bị đưa tới công an để được nghe những lời giáo huấn
hằng giờ... hoạc nghe thuyết về sự cần thiết phải thay đổi "tánh phản
động" của mình.
- Tất cả những đồn điền cao su lớn đặt dưới
quyền chỉ đạo của một "ủy ban cao su" hiện nay do nhân viên Việt Nam
quản lý, phối hợp với chánh quyền địa phương. Một số nhà trồng tỉa phải trở về
Sài Gòn và họ tuyên bố là lúc nào cũng sẵn sàng giữ một vai trò cố vấn kỹ thuật
, nếu chế độ mới đòi hỏi. Nhưng chánh quyền cộng sản đã cho họ biết là họ
"chỉ mong hợp tác với những người chưa bao giiờ làm việc ở Việt Nam trước
ngày chiến thắng của cách mạng". Họ đã chỉ rõ ràng cho thấy ví dụ như
"những linh mục, những chuyên viên hay những nhà ngoại giao" đã từng
có những quan hệ với chánh quyền bù nhìn của ông Thiệu trước khi ông nầy ra
đi."
Những người Việt Nam có quốc tịch Pháp tiếp tục
vây quanh văn phòng Di trú và tòa Lãnh Sự Pháp (Sài Gòn giờ đây đã xuống hàng
thành phố cấp vùng nên chỉ được phép có một đại diện Lãnh sự, các tòa đại sứ
đều ở Hà Nội). Không một người nào được phép hồi hương vì là "công dân da
vàng". Ba Lê vẫn không thể làm gì được trong lúc nầy. Và các công chức
trong lãnh sự quán chỉ biết nói là sự di tản của tất cả người Pháp" nói
chung có thể đòi hỏi 2 tháng hoặc 2 năm". Những đồng bào Pháp nào đã ra đi
được sau một thời gian chờ đợi khá lâu đều phải giao chìa khóa nhà và chìa khóa
xe của họ cho chánh quyền mới để họ "quản lý giùm". Họ chỉ được quyền
mang theo "quần áo và giấy tờ cá nhân" mà thôi. Họ không được rút
tiền từ chương mục ngân hàng của họ. Họ không được phép nhờ một thân nhân hay
môt bạn thân nào coi sóc giùm căn phòng , biệt thự hay xe cộ của họ. Các tài
sản nầy không phải bị cưỡng đoạt mà chỉ bị di lý thôi để giao lại cho
"nhân dân quản lý" trong khi chờ đợi bị sung công... Và chờ thủ tục
bồi thường.
Trong ngắn hạn, dù sao thì sự có mặt một trăm
năm của người Pháp ở Việt Nam cũng đã được bôi xóa đi một cách quá nhanh chóng.
Sau ba mươi năm cách mạng và tranh đấu, không phải chỉ để dùng tên của bao
nhiêu những vị anh hùng mà kẻ chiến thắng không bao giờ thiếu, để thay thế vào
tên đường như tên của ông Pasteur chẳng hạn.
°
°
Trong tuần lễ thứ ba của tháng 7, một người
Pháp từ Sài Gòn về nước đã trao cho tôi một bức thơ của một ông bạn Việt Nam
của tôi, giáo sư T.. .mà ông đã viết từ lâu không gởi được . Bức thơ viết :
- " Anh Pierre thân mến,
Có quá nhiều biến cố đã xảy ra từ sau lần
chúng ta gặp nhau chỉ mới vào khoảng cuối tháng 4 đây thôi nhưng tôi có cảm
tưởng là chuyện đã xảy ra cả trăm năm trước và trong một thế giới khác không
bằng. Đứa con trai lớn của tôi, thằng Viên. là trung úy ở sư đoàn 18 bộ binh,
đã bị tử thương trên đường Long Thành ngày 29 tháng 4. Nó được 24 tuổi.
Nhưng ba đứa khác thì lại được đoàn ngũ hóa
vào những hội đoàn mới. Chúng nó đi vẽ biểu ngữ trên tường, và đi kiểm kê những
người dân tỵ nạn. Nổi buồn của chúng tôi không thể diễn tả ra bằng chữ được.
Tôi đã cố gắng gạn lọc những tư tưởng của tôi vì tôi có quá nhiều điều phải nói
với anh.. Nhưng trước hết tôi cố gắng cho anh biết qua một số tin tức hay hay.
- Tinh thần của quân đội Miền Bắc cả ở Sài Gòn
và ở Đồng Bằng sông Cửu Long, không có quá tốt như người ta đã tưởng đâu. Họ
đào ngũ quá nhiều . Đài phát thanh cộng sản và các bản thông cáo dán ở trên
tường thường xuyên cảnh giác dân chúng không được chứa chấp những binh sĩ đào
ngũ nếu không sẽ bị "nghiêm trị". Lúc họ vào Sài Gòn, các "bộ
đội và cán bộ có rất nhiều tiền đồng (của Miền Nam ) mà họ đã thu nhặt được
trong các cơ quan của chánh quyền ở các thành phố mà họ vừa chiếm được. Phần
đông đã dùng tiền nầy để mua đồng hồ tự động, quẹt máy và rất nhiều món khác mà
họ chưa từng thấy biết qua bao giờ. Hết tiền rồi họ trở lại tình trạng thật sự
như trước, nghĩa là không sáng sủa gì cả. Để giữ tinh thần họ, cấp chỉ huy đã
tăng gấp đôi phụ cấp gạo cho họ. Nhưng lương thì không tăng: 1200 $ hằng
tháng.Chỉ vừa đủ mua 4 bao thuốc lá. Có một số binh sĩ đã bị động viên nhiều
năm rồi rất là bất mãn vì không được phép trở lại gia đình. Theo ước tính của
họ thì họ nghĩ rằng họ còn sẽ bị lưu giữ lại ở Miền Nam từ hai năm tới hai năm
rưỡi nữa.. Nhiều đơn vị tác chiến vừa được thông báo là họ sẽ qua một khóa huấn
luyện đặc biệt trong thời gian 18 tháng để được chuyển thành "lực lượng
gìn giữ an ninh và trật tự".
-Trên phương diện kinh tế, chánh quyền cộng
sản chưa có một biện pháp nào thuyết phục hết. Một đội ngũ được gọi là chuyên
viên tài chánh (đúng hơn phải gọi họ là nhân viên kế toán ) đã từ Hà Nội vào
đây với những thùng "bàn toán" của Tàu (trong lúc tất cả ngân hàng và
các công ty xí nghiệp sẽ được họ kiểm soát đã và đang xử dụng máy điện toán).
Các "ông chuyên viên" nầy thường nhắc đi nhắc lại với những ai muốn
nghe là ưu tiên hàng đầu của họ là phải " đập tan bộ máy kinh tế bù
nhìn". Theo họ thì đời sống của người dân ở thử đô Sài Gòn quá dễ dàng là
nhờ viện trợ của Hoa Kỳ . Hầu hết dân chúng Sài Gòn chỉ là những con "ký
sinh trùng" sống ăn bám vào mưu mô thủ đoạn và sự đầu cơ. Tất cả những
tích trữ trong ngân hàng sẽ bị tịch thu hết.
- Tiền lương của tất cả những công chức và
chuyên viên được giữ lại trong nhiệm vụ của họ sẽ được trả phân nửa bằng gạo và
phân nửa bằng tiền. Lương thấp nhất được 10.000 đồng (khoản 120 quan Pháp) và
phụ cấp gạo: 10 kí lô cho mỗi người lớn và 5 kí lô cho trẻ con. Lương cao nhất
không được quá 25.000 đồng (tương đương 250 quan Pháp). Các cán bộ địa phương
của Mặt Trận khuyên những nhà buôn nên mua vàng và hàng vải hơn là tích trữ
tiền mặt. Có nhiều cuộc chuẩn bị cho thấy sắp sửa có đổi tiền cũ lấy tiền mới.
Chánh quyền sẽ hành động bất thần, không báo trước, và thời gian đổi tiền chỉ
trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Tiền mới đã được in rồi (1)
- Đời sống đã đổi thay khác hết. Không ai còn
tìm đâu được một giọt xăng. Tất cả đều phải đi xe đạp ( hãng L'U.C.I.A của
người Pháp đã gặt được một mẻ to vì đã bán hết số xe đạp còn tồn kho). Chánh
quyền cũng có cho mở lại vài trạm xăng, nhưng chỉ dành cho xe buýt và xe vận
tải công cộng. Cho đến những ngày đầu tháng 6, các chợ còn được tiếp tế khá đầy
đủ và giá cả còn được bình thường. Trừ ra cá, càng ngày càng ít đi và càng ngày
càng mắc. Cũng vì không có đủ xăng, 90 % tàu đánh cá không thể ra khơi được .
Vào tháng 6, gạo đã bắt đầu khan hiếm. Các chợ không nhận được gạo. Có kêu than
cũng vô ích thôi. Mà nếu như chợ có đầy đủ như trước kia ... thì chúng tôi cũng
không còn tiền.
-Những bạn bè từ Miền Trung vào đã nói với tôi
là hầu hết tất cả vùng ngoài đó đã bị cộng sản kiểm soát khá chặt chẻ, đến độ
chỉ có lá cờ đỏ sao vàng của Hà Nội được treo ở các quận lỵ của tỉnh. Cuộc
thanh trừng thật là khủng khiếp. Tất cà những sĩ quan trình diện đi học tập đã
được đưa đi các trại lao động khổ sai ở tận trên núi rừng. Họ phải mở những con
đường xuyên qua rừng rậm, để chở những mảng gổ to và những tảng đá nặng. Vì khí
hậu ở đó quá khắc nghiệt và không được trong lành, lại thiếu thuốc men, mặc
không đủ ấm, ăn không đủ no.. nên họ chết rất nhiều .Phần lớn các Cảnh Sát đã
bị hành quyết. Con gái hay những bà vợ góa của các quân nhân, của những người
tư bản và của những công chức cao cấp , bị gả ép cho các thương phế binh Bắc
Việt để vừa làm bạn vừa làm y tá cho họ.
- Trái lại, ở Vùng Đồng Bằng và ở Sài Gòn tình
trạng mất an ninh và vô trật tự càng ngày càng lớn. Trộm, cướp, và ám sát ngày
càng nhiều . Báo chí và đài phát thanh cộng sản quy trách cho binh sĩ của
"chế độ bù nhìn cũ đã dùng vũ khí của họ để hành động phá rối trị an"
. Chuyện đó còn phải chờ xem, vì từ ngày chấm dứt chiến trận, các cựu quân nhân
của quân đội chúng tôi sống vất vưởng không có một lợi tức nào cả. Họ đâu còn
lãnh lương, không có quyền lãnh một hột gạo và dĩ nhiên là thất nghiệp. Nhưng
không phải chỉ có những anh cựu quân nhân mà thôi. Còn có những anh "chiêu
hồi", những anh Việt Cộng đã trở về vời quân đội VNCH. Có khoản 200.000
người . Cộng sản Bắc Việt đã cho lệnh họ phải trở về với những đơn vị cũ của họ
trước kia. Khiếp sợ vì phải rơi trở lại vào tay của những người mà họ đã chối
bỏ và đã chống lại trước kia nên họ lẩn trốn và sống gần như ngoài pháp luật.
- Cộng sản cũng đã phạm nhiều lỗi lầm không
giải thích được .Trong tuần lễ đầu của tháng 5, họ đã mở cửa các khám và đã thả
ra tất cả tội phạm, kể cả những người mắc bệnh tâm thần ở bệnh viện Chợ
Quán.Tất cả những tội phạm đều không phải là tù nhân chánh trị , mà có cả ngàn
người trong số được thả ra là những tội phạm hình sự, phạm tội giết người và
trộm cướp chuyên nghiệp. Những bệnh nhân tâm thần ở Chợ Quán phần đông là những
người điên rất dữ dằn, rất nguy hiểm cho xã hội . Chuyện thả hết những tôi phạm
bất lương và những người điên chỉ làm cho tình hình trở nên trầm trọng thêm mà
thôi.
- Ở trung tâm Sài Gòn thì sự kiểm soát có phần
khá hơn, nhưng trong tất cả những khu vực đông dân và ở ngoại ô, thì ban đêm
thường có những sự đụng chạm. người ta thường nghe tiếng súng nổ. Trong những
khu vắng vẻ ở Phú Nhuận và Tân sơn Hòa, có những vụ trộm, những vụ ném lựu đạn,
và ám sát có khi xảy ra cả ban ngày.
Chúng tôi được biết là hiện nay có những chiến
khu ở nhiều nơi trong vùng Đồng Bằng, cũng như trong rừng và vùng đầm lầy ở
Miền Đông của Sài Gòn . Có một số binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến , biệt động quân
và lính Dù còn đầy dủ trang bị, di chuyễn gần như khắp nơi và phục kích. Ở Miền
Tây thì Hòa Hảo nổi dậy chống đối công khai. Họ tấn công các đoàn xe cộng sản ,
bắn phá các trung tâm đô thị, và phá hoại các đường dây liên lạc . Ở Cao
nguyên, có hàng chục ngàn đồng bào Thượng đốt bỏ làng rút vào rừng sâu. Về
những chuyện như thế chúng tôi biết nhiều chi tiết chính xác, nhưng nếu viết ra
đây thì quá dài. Bạn của anh là Paul Ph. biết rành các chuyện nầy. Chắc không
bao lâu nữa anh ta sẽ về Ba Lê, vì anh là công dân Pháp. Anh ta có liên lạc
được nhiều nơi, và đã đi lại khá tự do.
Tôi thích nói cho anh vài chi tiết về những
người công giáo. Những trận đánh cuối cùng, đẫm máu nhứt và khốc liệt nhứt
không phải do các đơn vị chánh quy của Miền Nam Việt Nam mà là do những anh dân
vệ công giáo ở Hố Nai. Có nhiều em chỉ mới vừa 15 tuổi đầu, do các linh mục chỉ
huy, cầm thánh giá và lá cờ vàng trắng của Đức Thánh Cha, đã chiến đấu dữ như
cọp . Họ đã phá hủy được 8 chiến xa T. 54 chỉ bằng lựu đạn và các chai xăng
"mô lô tốp (molotov) và đốt cháy nhiều xe vận tải chở đầy lính Bắc Việt .
Trận chiến đã kéo dài trong 2 ngày và hai đêm.. Lúc trước, khi quân đội chánh
quy Miền Nam đóng ở Hố Nai rút đi, lực lượng dân vệ ở đây đã giữ lại được mấy
khẩu pháo binh và đã xử dụng. Linh hồn của trận chiến là cha Sữu người mà anh
đã từng biết rõ. Ông đã bị tử thương. Các em dân vệ đã đem được ông vào nhà và ở
đó chiến đấu luôn mấy giờ. Những người sống sót, hầu hết đều bị thương, đã bị
cộng sản đem ra xử bắn hết...
Ở Sài Gòn , người công giáo trên nguyên tắc
không có gì lo lắng hết. Các nhà thờ đều mở cửa và các linh mục được phép làm
lễ. Các nhà thờ đều đầy nghẹt tín đồ. Nhưng cũng vẫn có nhiều chuyện rắc rối đã
xảy ra :
- Chuyên thứ nhất nhằm vào Đức Ông Le Maitre
đại diện của Tòa Thánh Vatican . Các tín đồ tiến bộ (cánh tả) đã tràn ngập vào
Tòa Đại diện của Tòa Thánh. Họ lôi Đức Ông và thơ ký của ông ra ngoài đường, ở
đó họ đang họp mết tinh để tố khổ. Đức Ông bị họ lên án là đã hỗ trợ cho hành
động của Chánh Phủ bù nhìn của ông Thiệu. Họ xô đẩy và la ó lớn tiếng với Ông.
Những người trong mết tình đã hạ lá cờ của Tòa Thánh Vatican xuống và thay vào
đó lá cờ của CPLTCHMN. Cảnh Sát đã đến can thiệp bằng cách bắn chỉ thiên vài
phát súng. Đức Ông được giải tỏa và được dẫn lên phòng của ông . Nhưng sau đó
Ban Quân Quản đã trao cho ông một quyết định trục xuất, với lý do :" sự
hiện diện của Ông sẽ làm xáo trộn trật tự công cộng" Và Đức Ông đã rời
khỏi nước Việt Nam
- Một chuyện rắc rối khác, quan trọng hơn
nhiều, được xảy ra vào đêm mồng 4 tháng 6, ở khu Trương minh Giảng mà như anh
đã biết đó là một địa bàn của những người công giáo cứng đầu, khó chịu nhất.
Ngày 3 tháng 6, có vài trăm tín đồ cánh tả đã biểu tình đòi Đức Cha Thuận phải
từ chức. Đức Giám Mục Ngyễn văn Thuận vốn là cháu của Tổng Thống Diệm và là
Giám mục của địa phận Nha Trang, mà Vatican vừa mới bổ nhiệm ông vào nhiệm vụ
Phụ Tá Đức Tổng Giám Mục Địa phận Sài Gòn .Đức Cha Thuận là người được mọi
người giáo dân thương mến và kính trọng, kể cả những người không phải là tín đồ
cũng vậy. Hàng ngàn tín đồ công giáo thuộc giáo khu Fatimah đã tổ chức một cuộc
xuống đường chống-biểu tình và hô to những khẩu hiệu chống cộng sản . Vì đã quá
giờ thiết quân luật, nên một đội tuần tiễu của "bộ đội" đã đến cánh
cáo họ phải giải tán. Các giáo dân đã giựt chuông inh ỏi ở các nhà thờ. Đám
biểu tình đã giải giới mấy anh "bộ đội" và đã đánh đập họ. Quân đội
đã đến can thiệp và có bắn vào đám đông. Có 2 người chết và 6 người bị thương.
Ngày hôm sau người ta tìm thấy xác của 3 chú "bộ đội" bị cắt cổ và
được treo ở thành cầu. Còn đức cha Thuận thì bị bắt buộc phải rời khỏi Tòa Giám
Mục và về sống ẩn cư ở Nhà Dòng lớn. Ở Miền Trung và các tỉnh ở Miền Nam , tất
cả cơ sở tôn giáo (trường học, nữ tu viện, cơ sở y tế lớn nhỏ...) đều bị sung
công và xử dụng làm trại lính.
- Trong khu vực của tôi, từ 5 ngày nay những
sự khám xét càng ngày càng tăng và lương thực càng ngày càng khan hiếm.. Là một
giáo sư về Luật, tôi không còn có việc làm nữa. Như thế là không có lợi tức.
Tuy vậy mà tôi cũng phải tham gia vào các"buổi họp tập của các luật
gia" để tự "cải tạo" mình Người ta chỉ bàn cãi về chánh trị .
Mọi người đều tranh đua nhau tưởng tượng để sáng chế ra những khẩu hiệu mới mẻ
theo chìu hướng " Pháp luật dính liền với chánh trị , đó là một công cụ
đấu tranh, một phương tiện để đạt tới mục tiêu cách mạng " . Đó là một
khẩu hiệu quá ngu xuẩn, nhưng khi người ta lập đi lập lại nhiều lần và viết đi
chép lại chừng ngàn lần, người ta không còn nhớ rõ tại sao người ta đã bắt đầu
phải học Luật . Thà là tôi chịu khó đi cuốc đất, xuống hàng cho các xe vận tải
hay cưa củi. Có thể người ta sẽ đưa tôi đi một trại lao động.
Tôi là một tín đồ Thiên Chúa giáo như anh
Pierre đã biết đó. Nhưng có đôi lúc tôi thấy Đức Chúa Trời ở xa Việt Nam quá !
Và tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi còn phải ở lâu lắm trong thế giiới cộng sản
."
°
°
Đầu tháng 8. sau 3 tháng thương lượng đầy gay
go và thất vọng, cuối cùng nước Pháp cũng mở được một cầu không vận với Sài
Gòn, để di tản trong thời gian hơn một tháng, 1600 công dân Pháp. Còn những
người khác thì sao ?
Chú thích :
(1).- Tiền mới đã được thực sự lưu hành trong
tuần lễ thứ hai của tháng : Tiền đồng (nặng) trị giá 500 đồng tiền cũ của Miền
Nam hay là 3 quan Pháp. Nhưng mỗi người chỉ đổi được có 200 đồng (tiền mới),
tất cả người Việt Nam và người ngoại quốc đều được lệnh phải đem nộp cho Ngân
Hàng Quốc Gia số tiền còn lại mà họ đang có.Việc đóng cửa hãng Citroen, và Giám
Đốc đã bị giam giữ vì không thể trả lương được cho nhân viên,
- như việc bắt ông Giám Đốc hãng Michelin phải
"nộp phạt", vì bị toán nhân viên có mang võ khí đe dọa , với sự có
mặt của các đại diện của ủy ban quân sự hành chánh , ông bị bắt buộc phải nộp
một khoản "bồi thường nghỉ việc rất lớn" cho tất cả nhân viên người
Việt Nam ở các văn phòng và các đồn điền cao su của hãng.
- như khách sạn Continental đã bị trưng dụng
để cho các cán bộ Bắc Việt đi công tác vào ở: sĩ quan cao cấp, chuyên viên kế
toán vào thanh lọc các chương mục ngân hàng và thanh tra hoạt động của tất cả
các xí nghiệp ngoại quốc.
- như "Câu lạc bộ thể thao" mất hẳn
quy chế của một câu lạc bộ tư nhân.Trước hết là một tiểu đoàn quân Bắc Việt vào
chiếm đóng, và từ đó được mở cửa cho nhân dân xử dụng.
- như "ga ra Charner", sau khi bị
một cuộc kiểm kê vật dụng tỉ mỉ cho đến tận những con bù lon, công ty nầy đã
nhận được một "lệnh cấm bán" dù đó là phụ tùng thay thế nhỏ.
- Có một số nhân viên người Pháp ở những đồn
điền cao su còn ở lại làm việc ở các nhiệm sở nằm trong vùng đã được cộng sản kiểm
soát. Có những người khác thì đã trở lại nhiệm sở sau khi Sài Gòn bị thất thủ.
Nhưnng tất cả hai loại người Pháp nầy cuối cùng đều phải chuẩn bị để rời khỏi
những nơi nầy.
- Nổi gian truân đã đến với nhân viên của đồn
điền S.I.P.H thì lại rất đặc biệt. Ngày 7 tháng 5, một tuần lễ sau khi Sài Gòn
bị thất thủ, những cán bộ trồng tỉa thuộc đồn điền S.I.P.H trở lên những vùng
mà họ đang khai thác nằm ở gần Xuân Lộc. Bộ đội chánh quy Bắc Việt đã chiếm
đóng tại đây rồi. Những binh sĩ trú đóng trong những dãy nhà thuộc Phòng Nghiên
Cứu Kỹ Thuật của đồn điền đã dùng các hồ sơ lưu trữ để đốt lửa nấu cơm. Giám
đốc đồn điền người Pháp (nói thông thạo tiếng Việt) đã báo động với một ủy viên
chánh trị Bắc Việt rằng:
- " Các anh "bộ đội của ông đã làm
một việc ngu xuẩn tày trời. Các hồ sơ mà họ xé nát hết để đốt đi có một giá trị
không lường được .Đó là kết quả của 50 năm làm việc, tìm tòi, nghiên cứu và
thực nghiệm về việc trồng tỉa cây cao su. Không phải tôi phản đối vì để bảo vệ
quyền lợi của sở tôi, mà bởi vì nếu sau nầy người Việt Nam muốn tiếp tục sản
xuất cao su cho đất nước mình và muốn nâng cao năng suất và sản lượng cao su,
thì những hồ sơ nầy có một giá trị hàng đầu cho đất nước. Tôi xin lưu ý với ông
là không có gì thay thế được cho các hồ sơ nầy."
Ông ủy viên nầy đã quở trách binh sĩ của mình
và cho lệnh họ không được đụng tới những tập hồ sơ nầy nữa. Nhưng từ ngày hôm
sau đó, các chú "bộ đội" lại tiếp tục dùng các tập hồ sơ quý giá đó
để nấu cơm nữa , và chỉ trong vài ngày sau họ thiêu hủy hết tất cả kết quả của
công tác nghiên cứu khoa học trong nửa thế kỷ đã được cập nhật hóa rất là công
phu và cẩn thận.
Về phần mình, người Pháp đã khai triển trở lại
mọi công việc trong đồn điền. Việc cạo mủ cao su đã trở lại nhịp độ bình
thường. Nhưng ngày 21 tháng 5, tất cả các công nhân người Việt, được Ủy Ban của
Đồn diền hướng dẫn đã nổi lên biểu tình tập thể và ép các nhà trồng tỉa người
Pháp phải rời ngay khỏi đồn điền, không cho họ kịp thu dọn các vật dụng cá nhân
của họ nữa.
Đó là tình hình của cộng đồng người Pháp khi
Đại Sứ M. Mérillon được "gọi về" Ba Lê, hồi đầu tháng 6. Một thông
cáo báo chí của Tổng Thống Phủ từ Ba Lê đã xác nhận:
- "Trái hẳn với những gì mà một vài thông
tấn báo chí đã dự đoán từ trước , sự ra đi của Đại sứ Mérillon không phải do
CPLTCHMN bắt buộc"
Quả nhiên điều nầy rõ ràng là rất đúng với sự
thật cũng giống như cái CPLTCHMN không bao giờ có mặt ở Sài Gòn vậy !
Thói quen nổi bật nhất của các nhà ngoại giao
là hay "chơi chữ", là chuyển đổi những điều "lăng nhục" ra
thành những sự "hiểu lầm" Nhưng sự kiện là sự kiện, không thể nào
biến thể nó một cách dễ dàng được . Ông đại sứ Jean Marie Mérillon đã rời khỏi
nước Việt Nam mà không bao giờ được tướng Trần văn Trà tiếp kiến. Tướng Trà là
chánh quyền duy nhất tại Sài Gòn . Người ta nói là ông Mérillon đã gặp một số
"cán bộ cách mạng ", trong khi người đồng nhiệm Bắc Việt của ông ở Ba
Lê lại danh dự được điện Élysée tiếp kiến. Một ngày trước khi ông rời khỏi Miền
Nam Việt Nam , ông được gọi tới Bộ Ngoại Giao. Ông đã gặp 3 nhân vật vô danh vì
đứng trước mặt ông họ không thèm xưng danh tánh, cấp bậc của họ. Họ "cám
ơn" ông về hoạt động của ông và thông báo cho ông biết là sẽ có "một
người nào đó thuộc ban nghi lễ" sẽ đợi ông ở phi trường để giúp ông khỏi
bị phiền phức về thủ tục khai báo với Công An và Quan Thuế. Đúng giờ, có một
công chức cũng vô danh đã đợi ông Đại Sứ Pháp để đưa ông đến tận phi cơ và cho
ông được ưu tiên lên phi cơ trước những hành khách khác. Đó cũng là một niềm an
ủi cho một chút tự ái mỏng mành cho một người Đại diện của một quốc gia đã từng
đóng góp "quá nhiều cho nền hòa bình" ! Tuy nhiên đức tánh bình dân
của ông Đại sứ Jean Marie Mérillon đã đặc biệt bị hạ quá thấp so với những
người Pháp ở Sài Gòn .
Có một số người đã nói ;
- " Ông Đại sứ đã thực hiện một tiết mục
lớn : Ông đã thúc hối cho ông Thiệu sớm rời khỏi chức vụ, và sau đó cả ông già
Hương nữa để đưa cho được tướng Dương văn Minh lên. Ông đã tưởng rằng như vậy
là đã đem lại hòa bình và một sự hòa hợp. Nhưng ông ta chỉ thành công trong
việc nhanh chóng làm tan rã nền chánh trị của Miền Nam và đưa Miền Nam đến một
sự đầu hàng không điều kiện mà thôi. Trước ngày mất thủ đô, người ta chỉ thấy
có một mình ông Đại Sứ Pháp. Nhưng sau đó thì ông đã biến thành một luổng
gió... Và giờ đây ông ra đi, để lại sau lưng ông trên mười ngàn con tin người
Pháp.....
Thật vậy, nước Pháp có quyền hy vọng một ân
huệ nào đó trong thái độ đối xử - để tưởng thưởng những nỗ lực của mình - Nhưng
trái lại nước Pháp chỉ nhận được những điều ức hiếp và lăng nhục !
Ngược lại, những Đại diện của Hà Nội và của
CPLTCHMN ở Ba Lê (có mặt thường hơn ở thủ đô Pháp hơn là ở thủ đô Miền Nam) lại
được hưởng một sự tự do phát biểu và tự do đi lại trong toàn lãnh thổ nước
Pháp. Vấn đề an ninh của họ được hoàn toàn bảo đảm. Họ được có những đoàn hộ
tống chánh thức. Báo chí và đài phát thanh đã giúp họ phổ biến những bản tuyên
bố và thông cáo báo chí. Họ lại được bênh vực luận cứ và quan điểm của họ trên
đài truyền hình. Chánh Phủ Pháp không hề gây cho họ bất cứ một khó khăn hay
phiền toái nào.
Phải chăng đó là một điều không hợp lý khi
phải đòi hỏi để đơn giản có được một sự đối xử tương ứng ?
Sự ra đi của Đại Sứ Pháp Jean-Marie Mérillon
khi ông chỉ thật sự là một nhân viên thừa hành trung thành với đường lối chánh
trị lệch lạc từ Bộ Ngoại Giao của ông ta , đã không giúp cải thiện được bao
nhiêu những mối giao hảo giữa "chánh quyền cách mạng" và các công dân
người Pháp của chúng tôi.
Trong đêm 16 rạng 17 tháng 6, bệnh biện Grall
bị các "bộ đội" với súng ống đầy đủ, vây kín. Các binh sĩ Bắc Việt và
các sĩ quan an ninh tràn vào lục soát khắp nơi : các phòng mổ, các tủ thuốc,
phòng của các bác sĩ và của những người bệnh. Họ đã nói là họ muốn "biết
chắc chắn là không có một vũ khí nào được cất dấu trong bệnh viện và không có
một người nào ở phòng bịnh nhân bị coi là trong tình trạng bất hợp lệ.
Đến sáng ngày 17 / 6 tờ "Sài Gòn Giải
Phóng loan báo là kể từ nay chỉ có một ngân hàng duy nhất ở Việt Nam .Tất cả
các ngân hàng khác, của quốc gia, của tư nhân hay của ngoại quốc đều phải đem
nộp hết sổ sách, chương mục, và bản kết toán cho ngân hàng quốc gia mới của
Việt Nam. Các biệt thự của nhân viên ngoại quốc đều bị sung công. Các thanh tra
phải vào tạm trú ở các cư xá thuộc 3 ngân hàng: Ngân Hàng Á Châu của Pháp, (tên
địa phương là Ngân Hàng Đông Dương) , Ngân Hàng Thương Mại Pháp và Ngân Hàng
B.N.P. Các ông giám đốc của ba ngân hàng nầy thảo một bản tuyên bố chung gởi
cho Ban Quân Quản, có đoạn kết như sau :
- " Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi
không thể nghĩ tới bất cứ một hình thức hợp tác kỹ
thuật nào và chúng tôi chỉ có một nguyện vọng:
được trở về Pháp càng sớm càng tốt."
Các hãng "Chargeurs Réunis" và
"Messageries Maritimes" từng phụ trách hầu hết dịch vụ chuyên chở
hàng hóa bằng đường biển đến Âu Châu đã nhận được lệnh phải ngừng hoạt động để
biến thành một công ty quốc doanh độc quyền của Nhà Nước .
Ba ngày sau khi ông Giám Đốc hãng thuốc lá
Đông Dương trở về Pháp thì hãng thuốc lá nầy bị chiếm giữ ngay. Hãng thuốc lá
Bastos và hãng bia và nước ngọt nước đá Đông Dương (Brasseries-Glacières
d'Indochine) chỉ sản xuất 30 % năng suất vì đã gặp nhiều khó khăn với các
"ủy ban của xí nghiệp"..
- Vì gia đình đã về Pháp từ tháng 4 nên các
giáo sư sống xa gia đình, (các trường học đều bị đóng cửa).; các bác sĩ quân y
mãn khế ước, các nhân viên xí nghiệp đang ngừng hoạt động, các thương gia không
có khách (tiệm tùng bị đóng cửa, các khách sạn bị trưng dụng) ... tất cả những
người nầy sống thu hẹp như một xã hội bị đóng kín trong sự tuyệt vọng và buồn
nản..Trong khi chờ đợi các đường hàng không có thể được cho mở lại, họ không có
việc gì làm, nên chạy đi chạy lại thăm nom nhau để giết thì giờ, rồi mang hết
những gì họ còn lại như rượu và thức ăn ra ăn nhậu cho hết. Nhưng sự bực dọc
của các anh "bộ đội" thường gây ra những chuyện rắc rối bực mình cho
những người Pháp nầy (như xét căn cước liên tục, viếng nhà bất thần và thường
xuyên, không cho di chuyển) vì họ cho là những người ngoại quốc nầy khinh thường
họ khi lái xe hay khi ngồi tán gẫu trên sân thượng , nên bất cứ một vi phạm nhỏ
nào họ cũng có thể bị đưa tới công an để được nghe những lời giáo huấn hằng
giờ... hoạc nghe thuyết về sự cần thiết phải thay đổi "tánh phản
động" của mình.
- Tất cả những đồn điền cao su lớn đặt dưới
quyền chỉ đạo của một "ủy ban cao su" hiện nay do nhân viên Việt Nam
quản lý, phối hợp với chánh quyền địa phương. Một số nhà trồng tỉa phải trở về
Sài Gòn và họ tuyên bố là lúc nào cũng sẵn sàng giữ một vai trò cố vấn kỹ thuật
, nếu chế độ mới đòi hỏi. Nhưng chánh quyền cộng sản đã cho họ biết là họ
"chỉ mong hợp tác với những người chưa bao giiờ làm việc ở Việt Nam trước
ngày chiến thắng của cách mạng". Họ đã chỉ rõ ràng cho thấy ví dụ như
"những linh mục, những chuyên viên hay những nhà ngoại giao" đã từng
có những quan hệ với chánh quyền bù nhìn của ông Thiệu trước khi ông nầy ra
đi."
Những người Việt Nam có quốc tịch Pháp tiếp
tục vây quanh văn phòng Di trú và tòa Lãnh Sự Pháp (Sài Gòn giờ đây đã xuống
hàng thành phố cấp vùng nên chỉ được phép có một đại diện Lãnh sự, các tòa đại
sứ đều ở Hà Nội). Không một người nào được phép hồi hương vì là "công dân
da vàng". Ba Lê vẫn không thể làm gì được trong lúc nầy. Và các công chức
trong lãnh sự quán chỉ biết nói là sự di tản của tất cả người Pháp" nói
chung có thể đòi hỏi 2 tháng hoặc 2 năm". Những đồng bào Pháp nào đã ra đi
được sau một thời gian chờ đợi khá lâu đều phải giao chìa khóa nhà và chìa khóa
xe của họ cho chánh quyền mới để họ "quản lý giùm". Họ chỉ được quyền
mang theo "quần áo và giấy tờ cá nhân" mà thôi. Họ không được rút
tiền từ chương mục ngân hàng của họ. Họ không được phép nhờ một thân nhân hay
môt bạn thân nào coi sóc giùm căn phòng , biệt thự hay xe cộ của họ. Các tài
sản nầy không phải bị cưỡng đoạt mà chỉ bị di lý thôi để giao lại cho
"nhân dân quản lý" trong khi chờ đợi bị sung công... Và chờ thủ tục
bồi thường.
Trong ngắn hạn, dù sao thì sự có mặt một trăm
năm của người Pháp ở Việt Nam cũng đã được bôi xóa đi một cách quá nhanh chóng.
Sau ba mươi năm cách mạng và tranh đấu, không phải chỉ để dùng tên của bao
nhiêu những vị anh hùng mà kẻ chiến thắng không bao giờ thiếu, để thay thế vào
tên đường như tên của ông Pasteur chẳng hạn.
°
°
Trong tuần lễ thứ ba của tháng 7, một người
Pháp từ Sài Gòn về nước đã trao cho tôi một bức thơ của một ông bạn Việt Nam
của tôi, giáo sư T.. .mà ông đã viết từ lâu không gởi được . Bức thơ viết :
- " Anh Pierre thân mến,
Có quá nhiều biến cố đã xảy ra từ sau lần
chúng ta gặp nhau chỉ mới vào khoảng cuối tháng 4 đây thôi nhưng tôi có cảm
tưởng là chuyện đã xảy ra cả trăm năm trước và trong một thế giới khác không
bằng. Đứa con trai lớn của tôi, thằng Viên. là trung úy ở sư đoàn 18 bộ binh,
đã bị tử thương trên đường Long Thành ngày 29 tháng 4. Nó được 24 tuổi.
Nhưng ba đứa khác thì lại được đoàn ngũ hóa
vào những hội đoàn mới. Chúng nó đi vẽ biểu ngữ trên tường, và đi kiểm kê những
người dân tỵ nạn. Nổi buồn của chúng tôi không thể diễn tả ra bằng chữ được.
Tôi đã cố gắng gạn lọc những tư tưởng của tôi vì tôi có quá nhiều điều phải nói
với anh.. Nhưng trước hết tôi cố gắng cho anh biết qua một số tin tức hay hay.
- Tinh thần của quân đội Miền Bắc cả ở Sài Gòn
và ở Đồng Bằng sông Cửu Long, không có quá tốt như người ta đã tưởng đâu. Họ
đào ngũ quá nhiều . Đài phát thanh cộng sản và các bản thông cáo dán ở trên
tường thường xuyên cảnh giác dân chúng không được chứa chấp những binh sĩ đào
ngũ nếu không sẽ bị "nghiêm trị". Lúc họ vào Sài Gòn, các "bộ
đội và cán bộ có rất nhiều tiền đồng (của Miền Nam ) mà họ đã thu nhặt được
trong các cơ quan của chánh quyền ở các thành phố mà họ vừa chiếm được. Phần
đông đã dùng tiền nầy để mua đồng hồ tự động, quẹt máy và rất nhiều món khác mà
họ chưa từng thấy biết qua bao giờ. Hết tiền rồi họ trở lại tình trạng thật sự
như trước, nghĩa là không sáng sủa gì cả. Để giữ tinh thần họ, cấp chỉ huy đã
tăng gấp đôi phụ cấp gạo cho họ. Nhưng lương thì không tăng: 1200 $ hằng
tháng.Chỉ vừa đủ mua 4 bao thuốc lá. Có một số binh sĩ đã bị động viên nhiều
năm rồi rất là bất mãn vì không được phép trở lại gia đình. Theo ước tính của
họ thì họ nghĩ rằng họ còn sẽ bị lưu giữ lại ở Miền Nam từ hai năm tới hai năm
rưỡi nữa.. Nhiều đơn vị tác chiến vừa được thông báo là họ sẽ qua một khóa huấn
luyện đặc biệt trong thời gian 18 tháng để được chuyển thành "lực lượng gìn
giữ an ninh và trật tự".
-Trên phương diện kinh tế, chánh quyền cộng
sản chưa có một biện pháp nào thuyết phục hết. Một đội ngũ được gọi là chuyên
viên tài chánh (đúng hơn phải gọi họ là nhân viên kế toán ) đã từ Hà Nội vào
đây với những thùng "bàn toán" của Tàu (trong lúc tất cả ngân hàng và
các công ty xí nghiệp sẽ được họ kiểm soát đã và đang xử dụng máy điện toán).
Các "ông chuyên viên" nầy thường nhắc đi nhắc lại với những ai muốn
nghe là ưu tiên hàng đầu của họ là phải " đập tan bộ máy kinh tế bù
nhìn". Theo họ thì đời sống của người dân ở thử đô Sài Gòn quá dễ dàng là
nhờ viện trợ của Hoa Kỳ . Hầu hết dân chúng Sài Gòn chỉ là những con "ký
sinh trùng" sống ăn bám vào mưu mô thủ đoạn và sự đầu cơ. Tất cả những
tích trữ trong ngân hàng sẽ bị tịch thu hết.
- Tiền lương của tất cả những công chức và
chuyên viên được giữ lại trong nhiệm vụ của họ sẽ được trả phân nửa bằng gạo và
phân nửa bằng tiền. Lương thấp nhất được 10.000 đồng (khoản 120 quan Pháp) và
phụ cấp gạo: 10 kí lô cho mỗi người lớn và 5 kí lô cho trẻ con. Lương cao nhất
không được quá 25.000 đồng (tương đương 250 quan Pháp). Các cán bộ địa phương
của Mặt Trận khuyên những nhà buôn nên mua vàng và hàng vải hơn là tích trữ
tiền mặt. Có nhiều cuộc chuẩn bị cho thấy sắp sửa có đổi tiền cũ lấy tiền mới.
Chánh quyền sẽ hành động bất thần, không báo trước, và thời gian đổi tiền chỉ
trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Tiền mới đã được in rồi (1)
- Đời sống đã đổi thay khác hết. Không ai còn
tìm đâu được một giọt xăng. Tất cả đều phải đi xe đạp ( hãng L'U.C.I.A của người
Pháp đã gặt được một mẻ to vì đã bán hết số xe đạp còn tồn kho). Chánh quyền
cũng có cho mở lại vài trạm xăng, nhưng chỉ dành cho xe buýt và xe vận tải công
cộng. Cho đến những ngày đầu tháng 6, các chợ còn được tiếp tế khá đầy đủ và
giá cả còn được bình thường. Trừ ra cá, càng ngày càng ít đi và càng ngày càng
mắc. Cũng vì không có đủ xăng, 90 % tàu đánh cá không thể ra khơi được . Vào
tháng 6, gạo đã bắt đầu khan hiếm. Các chợ không nhận được gạo. Có kêu than
cũng vô ích thôi. Mà nếu như chợ có đầy đủ như trước kia ... thì chúng tôi cũng
không còn tiền.
-Những bạn bè từ Miền Trung vào đã nói với tôi
là hầu hết tất cả vùng ngoài đó đã bị cộng sản kiểm soát khá chặt chẻ, đến độ
chỉ có lá cờ đỏ sao vàng của Hà Nội được treo ở các quận lỵ của tỉnh. Cuộc thanh
trừng thật là khủng khiếp. Tất cà những sĩ quan trình diện đi học tập đã được
đưa đi các trại lao động khổ sai ở tận trên núi rừng. Họ phải mở những con
đường xuyên qua rừng rậm, để chở những mảng gổ to và những tảng đá nặng. Vì khí
hậu ở đó quá khắc nghiệt và không được trong lành, lại thiếu thuốc men, mặc
không đủ ấm, ăn không đủ no.. nên họ chết rất nhiều .Phần lớn các Cảnh Sát đã
bị hành quyết. Con gái hay những bà vợ góa của các quân nhân, của những người
tư bản và của những công chức cao cấp , bị gả ép cho các thương phế binh Bắc
Việt để vừa làm bạn vừa làm y tá cho họ.
- Trái lại, ở Vùng Đồng Bằng và ở Sài Gòn tình
trạng mất an ninh và vô trật tự càng ngày càng lớn. Trộm, cướp, và ám sát ngày
càng nhiều . Báo chí và đài phát thanh cộng sản quy trách cho binh sĩ của
"chế độ bù nhìn cũ đã dùng vũ khí của họ để hành động phá rối trị an"
. Chuyện đó còn phải chờ xem, vì từ ngày chấm dứt chiến trận, các cựu quân nhân
của quân đội chúng tôi sống vất vưởng không có một lợi tức nào cả. Họ đâu còn
lãnh lương, không có quyền lãnh một hột gạo và dĩ nhiên là thất nghiệp. Nhưng
không phải chỉ có những anh cựu quân nhân mà thôi. Còn có những anh "chiêu
hồi", những anh Việt Cộng đã trở về vời quân đội VNCH. Có khoản 200.000
người . Cộng sản Bắc Việt đã cho lệnh họ phải trở về với những đơn vị cũ của họ
trước kia. Khiếp sợ vì phải rơi trở lại vào tay của những người mà họ đã chối
bỏ và đã chống lại trước kia nên họ lẩn trốn và sống gần như ngoài pháp luật.
- Cộng sản cũng đã phạm nhiều lỗi lầm không
giải thích được .Trong tuần lễ đầu của tháng 5, họ đã mở cửa các khám và đã thả
ra tất cả tội phạm, kể cả những người mắc bệnh tâm thần ở bệnh viện Chợ
Quán.Tất cả những tội phạm đều không phải là tù nhân chánh trị , mà có cả ngàn
người trong số được thả ra là những tội phạm hình sự, phạm tội giết người và
trộm cướp chuyên nghiệp. Những bệnh nhân tâm thần ở Chợ Quán phần đông là những
người điên rất dữ dằn, rất nguy hiểm cho xã hội . Chuyện thả hết những tôi phạm
bất lương và những người điên chỉ làm cho tình hình trở nên trầm trọng thêm mà
thôi.
- Ở trung tâm Sài Gòn thì sự kiểm soát có phần
khá hơn, nhưng trong tất cả những khu vực đông dân và ở ngoại ô, thì ban đêm
thường có những sự đụng chạm. người ta thường nghe tiếng súng nổ. Trong những
khu vắng vẻ ở Phú Nhuận và Tân sơn Hòa, có những vụ trộm, những vụ ném lựu đạn,
và ám sát có khi xảy ra cả ban ngày.
Chúng tôi được biết là hiện nay có những chiến
khu ở nhiều nơi trong vùng Đồng Bằng, cũng như trong rừng và vùng đầm lầy ở
Miền Đông của Sài Gòn . Có một số binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến , biệt động quân
và lính Dù còn đầy dủ trang bị, di chuyễn gần như khắp nơi và phục kích. Ở Miền
Tây thì Hòa Hảo nổi dậy chống đối công khai. Họ tấn công các đoàn xe cộng sản ,
bắn phá các trung tâm đô thị, và phá hoại các đường dây liên lạc . Ở Cao
nguyên, có hàng chục ngàn đồng bào Thượng đốt bỏ làng rút vào rừng sâu. Về
những chuyện như thế chúng tôi biết nhiều chi tiết chính xác, nhưng nếu viết ra
đây thì quá dài. Bạn của anh là Paul Ph. biết rành các chuyện nầy. Chắc không
bao lâu nữa anh ta sẽ về Ba Lê, vì anh là công dân Pháp. Anh ta có liên lạc
được nhiều nơi, và đã đi lại khá tự do.
Tôi thích nói cho anh vài chi tiết về những
người công giáo. Những trận đánh cuối cùng, đẫm máu nhứt và khốc liệt nhứt
không phải do các đơn vị chánh quy của Miền Nam Việt Nam mà là do những anh dân
vệ công giáo ở Hố Nai. Có nhiều em chỉ mới vừa 15 tuổi đầu, do các linh mục chỉ
huy, cầm thánh giá và lá cờ vàng trắng của Đức Thánh Cha, đã chiến đấu dữ như
cọp . Họ đã phá hủy được 8 chiến xa T. 54 chỉ bằng lựu đạn và các chai xăng
"mô lô tốp (molotov) và đốt cháy nhiều xe vận tải chở đầy lính Bắc Việt .
Trận chiến đã kéo dài trong 2 ngày và hai đêm.. Lúc trước, khi quân đội chánh
quy Miền Nam đóng ở Hố Nai rút đi, lực lượng dân vệ ở đây đã giữ lại được mấy khẩu
pháo binh và đã xử dụng. Linh hồn của trận chiến là cha Sữu người mà anh đã
từng biết rõ. Ông đã bị tử thương. Các em dân vệ đã đem được ông vào nhà và ở
đó chiến đấu luôn mấy giờ. Những người sống sót, hầu hết đều bị thương, đã bị
cộng sản đem ra xử bắn hết...
Ở Sài Gòn , người công giáo trên nguyên tắc
không có gì lo lắng hết. Các nhà thờ đều mở cửa và các linh mục được phép làm
lễ. Các nhà thờ đều đầy nghẹt tín đồ. Nhưng cũng vẫn có nhiều chuyện rắc rối đã
xảy ra :
- Chuyên thứ nhất nhằm vào Đức Ông Le Maitre
đại diện của Tòa Thánh Vatican . Các tín đồ tiến bộ (cánh tả) đã tràn ngập vào
Tòa Đại diện của Tòa Thánh. Họ lôi Đức Ông và thơ ký của ông ra ngoài đường, ở
đó họ đang họp mết tinh để tố khổ. Đức Ông bị họ lên án là đã hỗ trợ cho hành
động của Chánh Phủ bù nhìn của ông Thiệu. Họ xô đẩy và la ó lớn tiếng với Ông.
Những người trong mết tình đã hạ lá cờ của Tòa Thánh Vatican xuống và thay vào
đó lá cờ của CPLTCHMN. Cảnh Sát đã đến can thiệp bằng cách bắn chỉ thiên vài
phát súng. Đức Ông được giải tỏa và được dẫn lên phòng của ông . Nhưng sau đó
Ban Quân Quản đã trao cho ông một quyết định trục xuất, với lý do :" sự
hiện diện của Ông sẽ làm xáo trộn trật tự công cộng" Và Đức Ông đã rời
khỏi nước Việt Nam
- Một chuyện rắc rối khác, quan trọng hơn
nhiều, được xảy ra vào đêm mồng 4 tháng 6, ở khu Trương minh Giảng mà như anh
đã biết đó là một địa bàn của những người công giáo cứng đầu, khó chịu nhất.
Ngày 3 tháng 6, có vài trăm tín đồ cánh tả đã biểu tình đòi Đức Cha Thuận phải
từ chức. Đức Giám Mục Ngyễn văn Thuận vốn là cháu của Tổng Thống Diệm và là
Giám mục của địa phận Nha Trang, mà Vatican vừa mới bổ nhiệm ông vào nhiệm vụ
Phụ Tá Đức Tổng Giám Mục Địa phận Sài Gòn .Đức Cha Thuận là người được mọi
người giáo dân thương mến và kính trọng, kể cả những người không phải là tín đồ
cũng vậy. Hàng ngàn tín đồ công giáo thuộc giáo khu Fatimah đã tổ chức một cuộc
xuống đường chống-biểu tình và hô to những khẩu hiệu chống cộng sản . Vì đã quá
giờ thiết quân luật, nên một đội tuần tiễu của "bộ đội" đã đến cánh
cáo họ phải giải tán. Các giáo dân đã giựt chuông inh ỏi ở các nhà thờ. Đám
biểu tình đã giải giới mấy anh "bộ đội" và đã đánh đập họ. Quân đội
đã đến can thiệp và có bắn vào đám đông. Có 2 người chết và 6 người bị thương. Ngày
hôm sau người ta tìm thấy xác của 3 chú "bộ đội" bị cắt cổ và được
treo ở thành cầu. Còn đức cha Thuận thì bị bắt buộc phải rời khỏi Tòa Giám Mục
và về sống ẩn cư ở Nhà Dòng lớn. Ở Miền Trung và các tỉnh ở Miền Nam , tất cả
cơ sở tôn giáo (trường học, nữ tu viện, cơ sở y tế lớn nhỏ...) đều bị sung công
và xử dụng làm trại lính.
- Trong khu vực của tôi, từ 5 ngày nay những
sự khám xét càng ngày càng tăng và lương thực càng ngày càng khan hiếm.. Là một
giáo sư về Luật, tôi không còn có việc làm nữa. Như thế là không có lợi tức.
Tuy vậy mà tôi cũng phải tham gia vào các"buổi họp tập của các luật
gia" để tự "cải tạo" mình Người ta chỉ bàn cãi về chánh trị .
Mọi người đều tranh đua nhau tưởng tượng để sáng chế ra những khẩu hiệu mới mẻ theo
chìu hướng " Pháp luật dính liền với chánh trị , đó là một công cụ đấu
tranh, một phương tiện để đạt tới mục tiêu cách mạng " . Đó là một khẩu
hiệu quá ngu xuẩn, nhưng khi người ta lập đi lập lại nhiều lần và viết đi chép
lại chừng ngàn lần, người ta không còn nhớ rõ tại sao người ta đã bắt đầu phải
học Luật . Thà là tôi chịu khó đi cuốc đất, xuống hàng cho các xe vận tải hay
cưa củi. Có thể người ta sẽ đưa tôi đi một trại lao động.
Tôi là một tín đồ Thiên Chúa giáo như anh
Pierre đã biết đó. Nhưng có đôi lúc tôi thấy Đức Chúa Trời ở xa Việt Nam quá !
Và tôi có cảm tưởng rằng chúng tôi còn phải ở lâu lắm trong thế giiới cộng sản
."
°
°
Đầu tháng 8. sau 3 tháng thương lượng đầy gay
go và thất vọng, cuối cùng nước Pháp cũng mở được một cầu không vận với Sài
Gòn, để di tản trong thời gian hơn một tháng, 1600 công dân Pháp. Còn những
người khác thì sao ?
Chú thích :
(1).- Tiền mới đã được thực sự lưu hành
trong tuần lễ thứ hai của tháng : Tiền đồng (nặng) trị giá 500 đồng tiền cũ của
Miền Nam hay là 3 quan Pháp. Nhưng mỗi người chỉ đổi được có 200 đồng (tiền
mới), tất cả người Việt Nam và người ngoại quốc đều được lệnh phải đem nộp cho
Ngân Hàng Quốc Gia số tiền còn lại mà họ đang có.
CHƯƠNG
26: THẬT CHUA CHÁT THAY CHO CÁI GỌI LÀ
"GIẢI PHÓNG"!!!
Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 9, anh Phạm, một người bạn của
tôi, cuối cùng được một chỗ trên chuyến bay về Pháp. Khi vừa đến Ba Lê, anh
điện thoại cho tôi ngay tại phi trường Roissy:
- " Tôi phải đi gặp anh liền, để cho anh biết, để cho anh
nói với tờ báo của anh những gì đã xảy ra ở Sài Gòn . Trầm trọng lắm !"
Anh bạn tôi có vẻ bị quá căng thẳng , bị kích thích quá độ như
một người vừa bị một cú sốc nặng, muốn phản đối và kêu cứu vậy . Đó không phải
là thói quen của anh.
Anh Phạm là một người Việt Nam , người Miền Tây, đặc biệt rất
cứng cỏi và rất bình tĩnh. Anh là một sĩ quan thiết giáp, tỵ nạn chánh trị ở
Pháp từ năm 1955, sau đó anh đã tiếp tục học và đã giật được bằng kỹ sư điện toán
và cử nhân hóa học một cách vẻ vang.. Anh ta có một chỗ đứng vững chắc trong
một công ty viễn thông lớn từ hai mươi năm nay. Vào dân Pháp năm 1958, anh chưa
về Việt Nam lần nào từ hai mươi năm nay. Hôm 2 tháng 4 vừa rồi anh trở về Sài
Gòn để thăm gia đình anh, và bị kẹt lại đó trong 4 tháng. Tôi phải gấp rút đi
gặp anh bạn tôi mới được.
Tôi gặp lại bạn tôi, lúc nầy người trông quá gầy, vẻ mặt mệt
mỏi, với cặp mắt lo lắng bồn chồn. Anh nắm tay tôi trong hai bàn tay của anh
thật chặt và nói với tôi một hơi
-" Anh Pierre ơi, ở Sài Gòn chỉ còn có một sự đói rách khốn
khổ, một nỗi thất vọng, một sự chống đối và một cái chết mà thôi. Con người
đáng ghét nhất đáng khinh nhất ở Miền Nam ngày nay không phải là ông Thiệu,
cũng không phải tướng Trần văn Trà, mà là tướng Dương văn Minh. Chẳng những ông
ta đã bán đứng Miền Nam mà ông ta đã cúi đầu quy lụy trước những người cộng sản
Bắc Việt .
- "Hãy bình tĩnh đi ông bạn ơi, Anh hãy cố gắng sắp xếp
những ý của anh cho có thứ tự một chút đi...
Anh Phạm nhìn tôi như một người mộng du, đang tập trung vào một
thế giới nào đó mà chỉ có riêng một mình anh biết thôi, rồi mới nói:
- "Anh không thể nào hiểu được cái gì đã xảy ra bên đó đâu.
Anh không thể nào tưởng tượng nổi là tất cả đều đã thay đổi hết. Và cả một sự
thù hận !....
Anh ta ngưng một lúc, lấy tay dụi cặp mắt như một người ngủ vừa
mới thức dậy, một người vừa mới qua một giấc mơ hãi hùng, rút từ trong túi ra
một cuốn sổ tay màu đen, lật qua lật lại vài tờ rồi nói:
- " Tôi giữ được cuốn sổ tay nầy qua cuộc khám xét.
Tôi có ghi lại rất đầy đủ, tất cả những gì tôi đã thấy, đã nghe và đã hiểu được
.Trong suốt hai mươi năm qua, tôi gác bỏ chánh trị ra ngoài tai. Đến tháng 3
năm nay, khi tôi nằm rất thoải mái ở ghế phô tơi để xem truyền hình ở Ba Lê,
cũng như tất cả những người Pháp khác, tôi tưởng người Việt Nam chạy trốn chiến
tranh hoặc là họ đã bị sự tuyên truyền chống cộng đầu độc. Anh biết không, thật
sự tôi đã lầm ! Bây giờ tôi mới hiểu là tại sao người Việt Nam đã chạy trốn đầy
đường. Không phải họ chỉ chạy trốn đạn pháo và các đơn vị cộng sản Bắc Việt .
Mà họ thật sự chạy trốn bộ máy ở phía đằng sau bộ đội cộng sản đó anh Pierre !
Các loa phóng thanh, các sự tố giác và lên án, mọi sự chuyển đổi bắt buộc của
đời sống, những trại tập trung cải tạo, những tòa án nhân dân, và những
"cán bộ" vừa cuồng tín vừa cuồng nhiệt không mệt mỏi, mặt lạnh như
tiền, ngoan cố và khắt khe còn hơn các thầy tu của Tòa án Dị giáo. Những tên
cán bộ nầy khi họ nắm được anh rồi, họ không bao giờ buông tha anh ra cho đến
khi nào anh phải tưởng tượng tìm ra được những trọng tội của mình để mà tự thú
tội mới xong . có nghĩa là cho tới khi nào anh phải tự nhận là anh có phạm tội
dù đó là một tội trạng do anh tưởng tượng ra, nghĩa là cho tới khi nào anh chối
bỏ tất cả, chối bỏ tín ngưỡng của anh, chối bỏ bạn bè của anh, gia đình của
anh, cho tới khi nào anh hội nhập vào giáo hội của họ, vào lý thuyết của họ,
vào lối sống của họ... dĩ nhiên là đi ngược lại hết với đời sống cũ...
Anh Phạm ngừng một vài giây rồi lại tiếp tục:
- " Tôi đã nhìn thấy bộ máy đó điều hành rồi, nó núp kỹ ở
đàng sau các "bộ đội" ngây ngô từ Miền Bắc đi vào Miền Nam . Nó rất
là khủng khiếp. Tôi sẽ cố gắng giải thích cho anh, cố gắng kể cho anh nghe
những gì tôi đã thấy.
Tất cả binh sĩ vào chiếm Sài Gòn đều cầm là cờ của Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam.mà họ gọi là "lá cờ của C PLT CHMN". Dân chúng Miền
Nam đều nghĩ rằng: "giữa người Miền Nam với nhau, cuối cùng rồi người ta
cũng có thể thỏa thuận được với nhau, để có được một giải pháp". Nhưng làm
gì có người Miền Nam ? Chỉ có toàn là "bộ đội" người Bắc . (nguyên
tác :des Tonkinois), những chú "nhà quê" chỉ thích mua những chiếc
đồng hồ có chỉ ngày tháng mà từ ngày cha sanh mẹ đẻ họ mới được thấy lần đầu
tiên và họ gọi là "đồng hồ có cửa sổ", và họ thích chụp ảnh với các
anh phó nhòm chuyên chụp dạo ở ngoài đường phố. Người dân Sài Gòn bắt đầu gọi
họ là "những con ếch" vì họ mặc quân phục màu xanh lá cây và thường
"đi hai hàng". Cũng không có gì quá đáng lắm đâu. Chỉ châm biếm chơi
thôi. Và các sĩ quan thì vào ở khách sạn. Họ chưa từng được thấy thang máy bao
giờ. Một ngày nọ, ở khách sạn Palace, tôi được chứng kiến một cảnh đặc biệt lạ
lùng. Một bà cụ già dùng thang máy đi lên lầu ba. Một cô gái còn trẻ cũng dùng
chiếc thang máy đó để đi trở xuống, khi cửa mở cô gái bước ra và đi về phía
trước. Một anh sĩ quan người Bắc đang đứng ở tầng trệt, bước lui lại mấy bước
và kinh ngạc la lên: "Đây là máy móc gì đây ? kỳ lạ vậy ? Một bà cụ vừa
bước vào đây đi lên, bà ta rất già, nhưng lúc trở xuống thì bà ta trẻ lại gần
50 năm !" Nghe tôi nói như vậy chắc có người cho là tôi kể chuyện lịch sử
của thành phố Marseille hồi xa xưa phải không anh? Nhưng không, đây là một
chuyện thực, một chuyện sống ! Còn nhiều chi tiết nữa lắm. Anh có muốn tôi kể
thêm cho anh nghe không? Họ cũng không bao giờ thấy biết những phòng tắm nữa.
Họ lấy nước trong những cầu tiểu của mấy bà để rửa mặt. Có một buổi chiều các
thương gia và mấy ông "Bang" Tàu vừa "hiến" cho quân đội
giải phóng một bệnh viện tư lớn nhất ở Chợ Lớn và đã mở tiệc khoản đãi các sĩ
quan cao cấp của họ. Tối đến, người Tàu cho gọi mấy nhiếp ảnh viên tới để chụp
ảnh . Họ chụp ảnh bằng đèn . Khi ánh đèn chớp của máy ảnh vừa lóe lên, các sĩ
quan đều đứng bật ngay dậy và cùng rút súng lục ra. Họ tưởng đó là một cuộc mưu
sát. Tất cả những giai thoại nầy cả Sài Gòn ai cũng biết hết cả. Người dân ở
thành phố cười riễu. ! Họ không thể nào hiểu được là những người mà họ đang khi
dể nầy chỉ biết có những làng mạc nghèo khổ, những trại huấn luyện, núi rừng và
chiến tranh. Một thế giới mà không hề có một chiếc tủ lạnh, hoặc một máy ghi
âm, cũng không có khách sạn, không có đèn chớp để thu hình ban đêm. Khi người
ta cười là người ta tưởng là mình che dấu cái lo sợ của mình.
Nhưng dân chúng Sài Gòn đã nhanh chóng hiểu rằng "họ cười
là sai" . Đã có những chuyện rắc rối xảy ra.. Các chú "bộ đội"
đã bắt gặp kẻ trộm đang chuyển xăng trong nón sắt của họ, và kẻ trộm đã bị bắt
buộc phải uống hết những gì họ chứa trong nón sắt của họ. Họ đã bắt được những
anh móc túi, và họ đã dùng súng lục bắn vào hai bàn tay của những người nầy
trước khi thả cho họ đi. Sau đó họ cũng sẽ cho thấy là họ cũng xử binh sĩ của
họ y như vậy.
Một anh tài xế xe Molotova đã cán chết một em bé ở Gia Định. Bà
mẹ la lên, đám đông tựu lại đòi phải được sửa chữa. Anh trưởng xa đề nghị bồi
thường ba bao gạo. người mẹ từ chối hẳn và nói lớn :"Anh ta giết chết con
tôi, tôi muốn anh ta đền mạng". Nghe vậy, người trưởng xa lập tức lấy cây
súng của một "bộ đội" gần đó và cho ngay một phát đạn vào đầu anh tài
xế. Và về sau đó đã có những cuộc xử tại chỗ các phạm nhân bị trói tay và được
cột vào hai miếng gỗ, ngay trên đường phố, như vậy gọi là để làm gương . Kể từ
đó dân chúng Sài Gòn mới thấy sợ và họ bắt đầu nói là "Họ còn độc ác hơn
bọn Nhật nhiều !"
Nghỉ một chút để hút thuốc, anh Phạm kéo một hơi dài thật ngon
rồi lại tiếp tục kể :
- " Kỷ luật sắt và sự tàn ác của mấy chú "bộ đội"
đã gây xúc động cho người dân Miền Nam . Nhưng họ còn chưa biết bọn "cán
bộ" đảng viên của đảng cộng sản . Bọn nầy không có mặc quân phục xanh như
"bộ đội". Họ thường mặc quần dài màu xám hay màu sậm hơn và một áo sơ
mi trắng không bao giờ ủi và bỏ ra ngoài. Đó mới thật sự là chủ nhân ông. Họ
không ồn ào nhưng có mặt khắp mọi nơi. Họ quan sát, đặt câu hỏi, ghi vào sổ
tay, tìm hiểu, nghiên cứu và quyết định. Họ là những người hướng dẫn các lớp
học tập cải tạo. Lúc ban đầu, người dân Sài Gòn thấy mình tiến bộ nhưng còn
hoài nghi . Họ đã theo các buổi học tập cải tạo nầy với cảm nghĩ là mình đang ở
một lớp mẫu giáo dành cho những em bé chậm tiến. Họ hát theo những gì người ta
bắt phải hát, họ cũng vỗ tay , cũng lập lại những gì họ bảo phải lập lại . Khi
bước ra khỏi lớp họ cười khẩy.Và sau đó một lần nữa là họ hết cười nổi, họ hết
còn cười khẩy được nữa. Bởi vì "cán bộ" bắt họ phải viết đi viết lại
10 lần, 20 lần những lời tự thú của họ. Không một người nào trong dân chúng
thấy mình có phạm tội, và như thế là coi như tất cả đều thấy sai hết. Đây nhé:
- ác tiệm buôn đã bán thuốc ngừa cho Mỹ để họ ngủ với các cô gái
: là có tội;
- Người thợ ở cơ xưởng đã đóng góp vào nỗ lực chiến tranh : là
có tội;
- Thương gia người Tàu đã mua lại chiến cụ phế thải: là có tội;
- Cô gái ăn sương đã làm mất danh dự dân tộc khi bán mình cho
người ngoại quốc: là có tội;
- Anh sinh viên đã có cả một bộ sưu tập các đĩa nhạc giật gân...
là có tội
Tất cả mọi người mọi giới đều đã, đang hay sẽ là kẻ phạm tội
hết.
Như vậy là phải biết tội của mình, phải biết sửa mình, phải biết
bắt buộc cha mẹ mình, con cháu mình, bạn bè mình phải sửa chữa, cải tạo; phải
biết "vạch trần" có nghĩa là phải tố giác những người nào từ chối
không chịu thay đổi.
Và kế tiếp sau đó là bắt đầu có những cuộc ruồng bắt, những cuộc
khám xét. Các công an mật vụ đến nhà ban đêm, lục lọi khắp mọi nơi, gõ vào tường,
tháo hết bàn ghế, các vật dụng trong nhà, khám xét hết quần áo, có khi mở tung
những chỗ khâu vá ra xem. Chỉ cần có một quyển sách nhỏ chống cộng nào đó, một
bức tranh ảnh nào đó của Mỹ, hay một hình ảnh nào đó của ông Thiệu còn bỏ quên
trong ngăn kéo, là người chủ nhà sẽ bị bắt mang đi.
Buổi sáng thật sớm người ta có khi người ta gặp những hàng người
tay bị trói quặt ra sau lưng, bị binh sĩ mặt lạnh như đồng dẫn đi. Có đôi lúc
các bà vợ chạy theo sau vừa la vừa khóc. Các anh "bộ đội" đuổi họ đi
bằng báng súng... Và như thế là người ta quây mặt đi không ai dám nhìn vào cảnh
nầy.
Không phải họ chỉ bắt người mà họ còn tịch thu, trưng dụng nhà
cửa nữa. Tất cả những ai có nhà rộng rãi, nghĩa là có hơn hai phòng cho cả gia
đình, thì phải cho một số "bộ đội' vào cư trú, phải giặt giũ cho họ, nấu
cơm cho họ. Các sĩ quan thì ở biệt thự. Những anh nhà giàu nào đã bị tịch thu
chương mục trong ngân hàng thì phải giao nộp tất cả đồ mỹ nghệ, sổ sách và hàng
sơn mài cho các ủy viên tài chánh. Còn lại món nào thì họ đem bán lần bán hồi
để mà sống. Đến khi không còn gì để bán được nữa thì họ tự tử. Sài Gòn là một
thành phố tuyệt vọng mà các tủ ở đầu giường có đầy đủ hóa chất hay những viên
thuốc giết người đủ màu, trắng, hường và xanh. Người nào không có thuốc thì cạo
diêm sanh ở các vỏ quẹt để uống.
Tất cả mọi chuyện đều nhằm dồn con người vào con đường cùng của
thất vọng.
Các cuộc điều tra thẩm vấn, các cuộc bắt bớ, nhất là tình cảnh
khốn khổ và sự đói rách. Có trên một triệu người không có việc làm và không có
gì để ăn, đólà chỉ mới tính riêng cho Sài Gòn mà thôi đó. Chánh quyền cộng sản
đã loan báo trên đài phát thanh là họ đã phát không sáu ngàn sáu trăm (6.600)
tấn gạo cho một triệu ba trăm ngàn (1.300.000) dân nghèo ở đô thành trong 2
tháng 5 và tháng 6. Như vậy tính ra bổ đồng chỉ có chưa tới 100 gram gạo cho
một người mỗi ngày.
Con đường Tự Do thì đã vắng ngắt, tất cả các tiệm đều đóng cửa.
Trên vỉa hè đường Charner, người ta bày bán đủ mọi thứ trên các tấm vải dù, nào
là quạt máy, dao muỗng, thượng vàng hạ cám, bán với giá thật rẻ mạt. Người bán
ăn mặc rất tươm tất nhưng quá gầy. Với một nắm bạc chỉ mua được vài kí gạo. có
nhiều người còn đem bán cả bàn thờ ông bà. Tôi đã chứng kiến được rất nhiều
chuyện rắc rối. Ở khu vực Chợ Cũ, đằng sau Kho Bạc, một người trạc năm chục
tuổi đã giựt một túi xách của một bà qua đường.Bà ta la lên. Một đội tuần tiễu
đã đến kịp và bắt kẻ cướp giựt, Anh ta đứng thẳng người lên và cao giọng nói
lớn lên với "bộ đội":
- Đúng vậy, tôi là một kẻ trộm . Các anh hãy làm giùm tôi một
việc : hãy đi tìm giùm vợ và 5 đứa con tôi lại đây và hãy bắn hết chúng tôi
giùm tại đây trước mặt mọi người , bởi vì chúng tôi không còn gì để ăn hết.
"
Cũng có những cô gái còn tiếp tục mặc quần áo kiểu Tây Phương.
Lúc đầu thì cộng sản còn châm chước cho. Nhưng bây giờ thì bị cấm hẳn. Các anh
"bộ đội" dùng kéo lớn cắt bớt mấy chiếc quần quá rộng. Tôi đã chứng
kiến tận mắt một cô gái giận dữ vì người ta xé quần Gin của cô. Cô tức giận xé
cả áo cánh và cởi luôn nịt vú của cô ta ra, cầm ném vào mặt của "Bộ
đội" và đưa bộ ngực trần ra nói với họ :"Sẵn các anh ở đây thôi thì
hãy cắt giùm cặp vú của tôi luôn giùm đi !" Cô nầy không phải là một cô
gái ăn sương. Đài phát thanh đã loan báo là trong vài tuần lễ nữa, mọi người
dân "nam cũng như nữ" đều phải mặc một loại quần áo như nhau: áo quần
bằng vải thô nhẹ nhuộm củ nâu, màu đỏ nâu.
Anh Phạm nhăn mặt, nhíu mày có vẽ hơi buồn cười, ngưng giây lát,
xong lại tiếp tục nói nữa:
-" Anh Pierre biết không ? bọn cộng sản cũng dùng
nhiều trò tiểu xảo nhưng rất là đơn sơ và người ta cũng mắc bẫy như thường.Tôi
sẽ kể cho anh nghe một giai thoại không quan trọng lắm, nhưng biểu lộ được cái
cách của họ gạt gẫm những người chưa được cảnh giác. Một tháng sau khi Sài Gòn
bị chiếm, một giờ trước khi thiết quân luật, tôi cùng một ông bạn giáo sư đi
dạo cách rạp chiếu bóng Casino không bao xa. Thình lình chúng tôi nhận thấy
hàng đèn trước quán rượu "Đêm Đông Phương" đã được bật cháy sáng và
từ trong tiệm có tiếng nhạc xập xình vọng ra ngoài. Bạn tôi vừa cười vừa nói ;
"Có thể họ đã mở cửa hộp đêm trở lại. Chúng ta hãy vào đây uống một ly cho
nó bớt căng thẳng. Chúng tôi đẩy cửa bước vào. Có nhiều cặp đang nhảy trên sàn
và ban nhạc đang chơi một bản nhạc giật gân. Quầy rượu cũng được thấp sáng, và
có một số vũ nữ đang ngồi uống trên ghế cao trước quầy.Chúng tôi đang đi đến
một cái bàn. Hai "bộ đội" đột nhiên xuất hiện từ phía sau một cây
cột, chĩa súng vào chúng tôi và đẩy chúng tôi ra cửa , chẳng nói chẳng rằng.
Ngày hôm sau chúng tôi được nghe một cô gái nhảy của tiệm Las Végas cũ giải
thích câu chuyện đó như sau:" Chúng tôi hơn một chục người cả nam lẫn nữ
đã được gọi tới một "sân khấu", là cái hộp đêm nầy, được trả cho mỗi
người 1000 đồng và được đãi một bữa cơm. Bù lại chúng tôi phải nhảy với nhau
suốt hai tiếng đồng hồ, "như hồi còn chế độ bù nhìn" vậy. Có những
chuyên viên quay phim chiếu bóng của những nước cộng sản ở Âu Châu đến thu hình
chúng tôi, và sau đó thì các anh bộ đội đã đưa chúng tôi về nhà bằng xe quân
vận. Cuốn phim đó nghe nói sẽ được dùng để tuyên truyền ở ngoại quốc, để cho
người ta thấy là chế độ mới thật sự đã quá dễ dãi.
Một tuần lễ sau đó, họ lại làm y như vậy một lần nữa ờ nhà hàng
"Arc en Ciel" trong Chợ Lớn, với những người khách ăn mặc sang trọng,
với mọi thức ăn bày trên "búp phê" thịnh soạn, từ món heo quay vàng
cháy, thịt heo ghim nướng, đủ thứ trái cây, rượu vang, rượu khai vị v.v.. nhưng
tất cả khách hàng đều là đóng trò hết, họ được đãi ăn vì nhu cầu dàn dựng để
quay phim. Cảnh phim được quay để nhằm cho thấy Sài Gòn không thiếu món gì, bởi
vì các nhà hàng sang trọng vẫn tiếp tục được tiếp tế đầy đủ và thường xuyên.
(1)
- Và cái gọi là CPLTCHMN thì ra sao rồi ? trong tất cả những
chuyện đó ?
- Các tổng bộ trưởng của cái Chánh Phủ đó đã ở Sài Gòn nhưng
không có gì để điều hành.
Họ được ở trong những dãy nhà thuộc Bộ Tổng Tham Mưu cũ của Miền
Nam, gần sân bay Tân sơn Nhứt . Có lính gác chung quanh doanh trại, súng ống
hẳn hòi. Công an chánh trị Bắc Việt không rời họ nửa bước và họ không tiếp một
ông khách nào. Các thành viên của "Ủy Ban Lãnh Đạo" thì ở trong thành
phố, trong những khách sạn hạng nhì mà có nơi không có nổi một cái điện thoại.
Thỉnh thoảng họ cũng có mặt trên khán đài. Lâu lâu từng định kỳ đài phát thanh
và báo chí cũng có loan báo những bản tuyên bố hay đăng những bài nói về các
"nhân vật của Miền Nam và của Miền Bắc", hay nói về đường lối chánh
trị "không liên kết" của Miền Nam . Nhưng cũng không dối gạt được ai.
Các sĩ quan Bắc Việt đồn trú đều mang phù hiệu của C PLT CHMN trên nón cối. Tôi
đã có trò chuyện với một trong những sĩ quan nầy, một đại tá thuộc sư đoàn 320
B.
Anh ta vừa nhún vai vừa nói với tôi:
- "Chỉ là một phù hiệu thôi mà, cũng như những lá cờ vậy.
Những dấu hiệu tượng trưng cần thiết để tiến hành "chiến dịch Hồ chí
Minh" thôi. Phải cho có một sự tin tưởng đó là bộ đội của CPLTCHMN đang
giải phóng Miền Nam . Sự thật thì chúng tôi đều là quân đội Miền Bắc và do Hà
Nội chỉ huy"
Những gì mà đại tá đó đã nói với tôi đều được chứng thực bằng sự
kiện.. Những người Bắc thì chiếm hết các biệt thự và nhà đẹp, các khách sạn hảo
hạng, các cơ quan công cộng. Chỉ có họ mới được xử dụng các xe du lịch loại tớn
của người Mỹ bỏ lại. Những những lãnh đạo cách mạng Miền Nam được chia ra làm
hai thành phần: thứ nhứt là những người "tập kết", những người đã
chọn lựa đi ra Miền Bắc hồi năm 1954, và thứ hai là những kháng chiến quân của
Mặt Trận Giải Phóng. Cả hai thành phần đều chống người Bắc
(nguyên tác :anti-Tonkinois).Họ bị đối xử như những người anh em nghèo và thực
sự không được có một trách nhiệm nào rõ ràng hết, mặc dầu họ được gán cho những
danh vị chánh thức. Tôi đã có trò chuyện với nhiều người trong số những anh
"tập kết". Họ nói : "Ở ngoài Bắc, chúng tôi không phải là người
ngoại quốc. Nhưng bây giờ thì chúng tôi đã về nhà chúng tôi rồi, chết sống gì
chúng tôi cũng ở đây, chúng tôi không trở ra ngoài đó nữa đâu." Tình cảm
của người dân Miền Nam mạnh hơn bao giờ hết. Cách xử sự của những người Miền
Bắc trong tư thế chiếm đóng đã giúp cho người dân Miền Nam gắn bó với nhau hơn.
Dân chúng Miền Nam không biết cười nữa rồi mà vẫn gọi người Bắc là bọn
"xâm lăng" (nguyên tác:les "xam-lang" ), những kẻ xâm lược,
hoặc những " cá rô cây" (nguyên tác : "caro-cay"). Danh từ
khinh bỉ nầy muốn nói ra nhiều điều lắm. Con cá rô là loại cá mà người dân
nghèo thường ăn. Vì có một số người Bắc đã làm những con cá rô bằng cây bỏ vào
chén nước mắm để lúc nhìn thoáng qua cũng thấy họ có ăn cá, nhưng thực sự là họ
chỉ có ăn cơm không mà thôi. Danh từ "cá rô cây" cũng đồng nghĩa với
"đói nghèo mà kiêu căng".
- "Anh có nghe nói gì về kháng chiến hay là chiến khu gì
không ?
-" Dĩ nhiên rồi. Chỉ cần đi một chút thôi, nghe đài
phát thanh, đọc báo chí hay những thông cáo dán ở tường, thì thấy ngay bằng
chứng. Tại Sài Gòn thiết quân luật đã được tái lập lại. Và đó không phải là
chuyện đùa đâu. Về đêm "bộ đội" hễ thấy cái gì nhúc nhích là họ bắn
liền. Đài phát thanh kêu gọi dân chúng hãy "tố cáo những người phản động
nào còn lẩn trốn". Báo chí thường loan báo nhiều lần hàng tuần là
"lực lượng an ninh đã bao vây và hạ sát những toán phản động còn ngoan cố
giữ vũ khí đạn dược". Lúc đầu thì "bộ đội" bị đâm bằng dao găm,
hay bị siết cổ. Đó là những hành động lẻ tẻ, do những phản ứng tức giận của một
vài sĩ quan lạc lõng. Bây giờ thì đã có nhiều hệ thống, bắt đầu có tổ chức và
những vụ ám sát có lựa chọn. Người ta thường nhắm vào các cán bộ và công an.
Người ta làm giấy căn cước giả mạo. Có truyền đơn được rải trong trường học kêu
gọi sinh viên ra chiến khu.Tất cả các sinh viên đâu có đễ bảo đâu. Có lần họ đã
đánh một ủy viên của đại học. Vào cuối tháng 6, đã có một sự nhen nhúm biểu
tình. Một cán bộ đã bị đập chết bằng búa. Người cầm đầu đã bị bắt và bị xử bắn
ngay. Cái chết nầy đã làm cho sinh viên hoang mang.. Vào tuần lễ đầu của tháng
7, lại có xảy ra một chuyện rắc rối nữa trầm trọng hơn.. Sáu trăm sĩ quan thuộc
QLV NCH (600) đi trình diện hồi tháng 5 đã bị đưa đi đến một trại tù khổ sai ở
giữa rừng, ở vùng núi Bà Đen cách Sài Gòn khoảng hơn 100 cây số về hướng Bắc.
Tình trạng sinh sống của họ rất là vô nhân đạo. Hằng ngày họ chỉ được phát có
hai nắm cơm với muối và phải đốn cây to với những chiếc rìu thường, từ sáng cho
đến chiều.. Một buổi sáng nọ vào cuối tháng 6, các "bộ đội" giữ họ
(chỉ có chừng 100 chú) đã tập hợp họ lại và nói : "Các anh đông quá, nên
vì lý do an ninh, chúng tôi sẽ cột các anh lại từng cặp hai người một".
Các sĩ quan nầy phản đối :"Chúng tôi không có làm gì sai trái, chúng tôi
làm việc như trâu rồi mà mấy anh còn muốn cột chúng lại như súc vật ? Chúng tôi
không thể nào làm việc cặp đôi như vậy được, cũng không thể đi vệ sinh riêng rẽ
được nữa." Các chú "bộ đội không cần biết và bắt đầu cột họ lại từng
cặp với nhau. Bấy giờ các sĩ quan tù nhân mới chơi xả láng. Họ ùa vào tấn công
các bộ đội giữ tù. Dĩ nhiên bộ đội đã nổ súng và có hơn 100 sĩ quan bị tử
thương, nhưng những người khác đã tước được khí giới của bộ đội và đã tàn sát
hết toàn bộ . Cộng sản đã đưa nhiều xe binh sĩ đến tăng cường và cuộc trấn áp
thật là rất tàn nhẫn. Chỉ có một nhúm sĩ quan đã chạy trốn được vào rừng có
mang theo vũ khí. Vài ngày sau, Bộ Nội Vụ đã loan báo trong một bản thông cáo
báo chí là :" có vài trăm phản động đã chết trong một tai nạn trên đường
Tây Ninh." Ngay sau khi được biết tin nầy, hàng trăm vợ con của những sĩ
quan đã tụ tập trước Bộ Nội Vụ gần Nhà Thờ Chánh Tòa. Họ yêu cầu phải giải
thích, họ đã xô đẩy các lính gác và chửi người phát ngôn viên của Chánh Phủ :
- "Chúng tôi không tin. Không thể nào có đến hàng trăm
người chết trong một tai nạn trên quốc lộ. hãy trả thây của chồng con của chúng
tôi và chúng tôi sẽ thấy biết tại sao họ chết." . Họ quá bị khích động gần
như cuồng loạn. Nhưng môt giờ sau đó, tất cả khu vực nầy được bộ đội đến bao
vây, họ chĩa súng và lên cò súng liên thanh nghe răng rắc và các bà bị giải tán
bằng báng súng. Đó là những gì đã xảy ra ở Sài Gòn , anh Pierre . Độc tài và
chỉ có độc tài !
- Và đã có những gì đã xảy ra ở các tỉnh ?
- Trong các thành phố ở Miền Tây, vì không có báo chí để có thể
thấy được những gì đã xảy ra trong những ngày đầu của việc cưỡng chiếm, thật là
đẫm máu. Công tác tái lập tình hình "đạo đức" thật là vừa tàn bạo vừa
vụng về. Các cô gái và các bà còn trẻ bị buộc tội vì ăn mặc "lố
lăng". Các buổi họp có nhảy đầm bị binh sĩ "công phẫn" giải tán,
nhạc cụ bị tịch thâu vì đàn guy ta điện và cả bình điện là của đế quốc. Tòa án
"nhân dân", cho hành quyết ngay. Cảnh Sát và cán bộ của tỉnh bị gán
tội "tham nhũng". Quân đội Miền Nam không có hành động chống đối sau
khi Sài Gòn bị chiếm.. Nhưng các đơn vị được phân tán và mới bắt đầu có những
vụ đánh úp, sau đó vài tuần. Có mấy trung đoàn thuộc sư đoàn 21 bộ binh (một
trong 3 sư đoàn đồn trú ở Tây Nam Sài Gòn ) đã đi vào vùng ly khai của Hòa Hảo.
Như anh đã biết , Phật Giáo Hòa Hảo là một giáo phái địa phương chống cộng sản
dữ dằn nhất và cũng được ghi nhận là không tùng phục chánh quyền trung ương. Họ
vẫn có một lực lượng bán quân sự . Giáo phái nầy có mặt khắp trong số 11 tỉnh
và có gần mấy triệu tín đồ. Vùng kháng chiến mạnh nhất của họ nằm gần biên giới
Cam Bốt, trong tam giác Long Xuyên - Châu Đốc - Tân Châu, một vùng giàu có với
nhiều sông rạch và ruộng lúa, một vùng chằng chịt đầy đường nước, dễ dáng chăng
bẩy, dính liền với vùng núi Thất Sơn, Tôi đã dùng giấy tờ của anh tôi để đi
xuống được Miền Tây thăm gia đình. Các trục lộ giao thông chính và các trung
tâm thành phố đều được quân đội chánh quy Bắc Việt trấn giữ. Nhưng có vẻ như họ
không được nghỉ ngơi theo kiểu dưỡng quân: thường xuyên có các đội tuần tiễu
bằng chiến xa và binh sĩ luôn luôn để tay vào cò súng, còn pháo binh thì ở tư
thế sẳn sàng tác xạ.. Các trục giao thông phụ và các đường nước thì không được
họ kiểm soát. Có rất nhiều sông rạch, với nhiều nhánh tua tủa và nhiều bờ đê.
Bây giờ thì ngược lại hết, đến lượt cộng sản bị phá rối, cộng sản phải gác và
giữ cầu và phải duy trì trật tự.. Trong hiện tại thì họ không làm xuể. Cũng có
nhiều nhóm dân quân tự xưng họ là người của Mặt Trận và họ không chịu nghe lệnh
người khác. Có nhiều cuộc biểu tình và nhiều cuộc chống biểu tình. Kiểu như
tình trạng vô Chánh Phủ giống như thời kỳ khởi nghĩa hồi 1945 vậy. Lực lượng
phản loạn của Miền Nam táo bạo lắm, họ nã bách kích pháo, họ đặt mìn các cầu,
kho xăng và kho đạn. Tại Cần Thơ, một trung tâm chính buôn bán lúa gạo của các
tỉnh Miền Tây và là một giang cảng chính của Vùng Đồng Bằng, lệnh thiết quân
luật được áp dụng rất nghiêm túc từ 6 giờ chiều đến 6 giờ sáng. Đã có nhiều
đường dây vượt biên ra ngoại quốc. Nhưng phần nhiều là người Trung Hoa. Vì
trước hết là các tàu đánh cá và các tàu hàng hải đã lấy tiền quá mắc : mười
triệu đồng mỗi người cho một chuyến vượt biên. Và sau nữa là khi họ tới Mã Lai,
Singapore, hay Thái Lan, thì ngay lập tức họ được cộng đồng người Trung Hoa ở
quốc gia đó giấu kín, và có trách nhiệm làm giấy tờ hợp pháp cho họ. Trong khi
người Việt Nam thì không có một tổ chức nào tiếp đón họ nên thường bị đuổi về.
- Cộng sản họ không thể ngăn chặn được chuyện đó sao ?
- Đâu có dễ dàng. Họ không có bao nhiêu tàu chiến. (Hải Quân
Miền Nam đã đưa được hết tất cả tàu chiến loại đi biển về hết ở đảo Guam ). Bờ
biển Miền Nam đã được phát triển tối đa và những người dân chài thuộc lòng hết
từng chi tiết nhỏ của các sông ngòi từ những ngõ ngách cho đến các vịnh nho nhỏ.
Tất cả những gì người cộng sản có thể làm được chỉ là tăng cường kiểm soát
đường sông, bắt buộc hành khách nào đi đến các thành phố ở ven biển đều phải đi
bằng các đoàn tàu có hộ tống.
Ngoài ra cũng có một số chiến khu khác không phải ở Miền Tây.
Thí dụ như ở vùng Đông Bắc của Sài Gòn, giữa Xuân Lộc và Phan Thiết, dọc theo
Rừng Lá, có một số binh sĩ Dù thường chận xe đò rồi dẫn hành khách vào rừng để
họ tuyên truyền chống cộng.. Các quân xa cộng sản cũng thường cán phải mìn. Một
ông đại tá cựu tư lệnh lực lượng Đặc Biệt của Nha Trang và Biên Hòa đang chỉ
huy hết vùng kháng chiến nầy. Ông đã tập trung được một lực lượng rất có kỷ
luật khoảng vài ngàn người gồm có Dù, biệt động quân Thủy Quân Lục Chiến và
những người chạy thoát được của sư đoàn 18 bộ binh . Họ chỉ chiến đấu về đêm.
Trên vùng Cao Nguyên thì có lực lượng Fulro (Mặt Trận Thống Nhứt
của các sắc tộc bị áp bức), một lực lượng đã từng không nhìn nhận chánh quyền
của Tổng ThốngThiệu mà cũng đã bị cộng sản làm cho thất vọng. Họ vào chiến khu
với khoảng 4 tiểu đoàn chuyên tác chiến vùng rừng rậm . Đặc công của họ đã tấn
công Pleiku 2 lần.
Trong vùng Hố Nai, những trận đụng độ đã tiếp tục xảy ra giữa
những người công giáo và lính chánh quy Bắc Việt . Đã có gần 300 chú "bộ
đội" đã bị giết từ sau ngày Sài Gòn bị chiếm. Con đường đi Dalat và đi
Vũng Tàu bị cắt đứt nhiều lần.
Ở về hướng Bắc của Sài Gòn có nhiều binh sĩ thuộc giáo phái Cao
Đài đã vào rừng ở vùng Núi Bà Đen.
- Có một Bộ Tham Mưu bí mật nào khả dĩ đủ khả năng để phối hợp
thành một hành động chung giữa các lực lượng đó không ?
- Tôi không có một chi tiết nào khác ngoài những gì mà tôi đã
nói với anh. Các truyền đơn mà các lực lượng nầy rải ra có mang chữ ký của
tướng Lạc, cựu Giám đốc Nha Chiến Tranh Chánh trị , của tướng Trưởng, cựu Tư
Lệnh Vùng I , và của tướng Bùi thế Lân, cựu Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến .
- Thế mà người ta nói là cả 3 tướng nầy đều đang ở Hoa Kỳ.
- Cũng có thể lắm. Ai cũng biết là họ rất bình dân và anh em cựu
quân nhân Miền Nam không biết là họ đã được người Mỹ bốc đi. Có thể là những sĩ
quan chỉ huy các lực lượng kháng chiến đã dùng tên tuổi và uy tín của mấy tướng
lãnh nầy để dễ kêu gọi và mộ thân binh cũng nên. Dù muốn dù không thì dân chúng
ủng hộ những người kháng chiến mới nầy, tiếp tế cho họ và không tố giác họ.
Anh Phạm lau mồ hôi trán và lại tiếp tục nói:
- " Nầy anh Darcourt, tôi cũng cần phải nói với anh về
người bạn của anh, Đức cha Thuận đó. Ngày 14 tháng 8 vừa qua, Đức Tổng Giám Mục
Bình và Đức Phó Tổng Giám Mục của ông là Đức Giám Mục Thuận được gọi tới Dinh
Độc Lập, nơi làm việc của Ban Quân Quản. Khi đến nơi thì người ta cách ly hai
người ra. Đức Cha Bình phải ngồi nghe một bài diễn văn dài của chánh quyền .
Người ta nói nhiệm vụ của ông là giữ gìn an ninh và trật tự trong cộng đồng
giáo dân và theo dõi sát cộng đồng để họ thi hành nghiêm chỉnh luật lệ cách
mạng . Vào cuối buổi nói chuyện, Đức Cha Bình yêu cầu họ giao hoàn lại cho ông
Đức Phó Tổng Giám Mục . Người ta đã trả lời cho ông là :
-"Đức Giám Mục Thuận đã được xe công an đưa trở về địa phận
của ông ta ở Nha Trang. Sự có mặt của ông ở đây làm rối loạn trật tự công
cộng"
Giờ đây Đức Cha Thuận bị quản thúc trong một ngôi làng nhỏ cách
thành phố Nha Trang vài chục cây số về phía Nam . Ông sống trong một căn nhà
lá, mỗi ngày được lãnh 100 $ (tương đương với 50 xu đủ để ông mua vài món rau
cải.) và 200 gram gạo (Khẩu phần hằng ngày của một trẻ em 6 tuổi), và không
được tiếp bất cứ ai. Vả lại không phải chỉ có các linh mục công giáo là đáng
cho mình lo lắng.
Thượng tọa Thích trí Quang của chùa Ấn Quang, người đã góp công
trong việc hạ bệ chế độ của Tổng Thống Diệm năm 1963 với chiến dịch tự thiêu
của các sư sãi,, và là người chống đối tới cùng Tổng Thống Thiệu... đã bị bắt
ngày 12 tháng 8 và bị giam vào phòng tối ở khám Chí Hòa. Từ lâu rồi Thượng tọa
Thích trí Quang đã được coi như là người của cộng sản. Nhưng, từ sau ngày Sài
Gòn bị chiếm, và cho tới khi ông bị bắt, ông không ngớt kêu gọi các tu sĩ của
ông " thay vì tự thiêu thì hãy chết trong chiến đấu". Ngày 6 tháng 8,
ông đã có một buổi họp ở sân chùa Ấn Quang và cực lực tố cáo "Các Ban Quân
Quản Bắc Việt đã cho lệnh hành quyết quá nhiều người bằng vũ khí thô sơ".
Chỉ vài ngày sau đó là công an mật đã đến bắt ông .
Anh Phạm đến ngồi sát vào tôi, ôm cứng vai tôi và với một giọng
gần như vừa thịnh nộ vừa tuyệt vọng anh nói :
- " Thật là một thảm kịch. Tất cả mọi người ai cũng đã
tưởng rằng sau khi Sài Gòn bị chiếm là phải có "hòa bình" và
"hòa giải", và như thế là dân chúng Miền Nam không còn gì để mà lo sợ
nữa. Thật là cả một sự điên rồ ! Nỗi lo sợ của ngày hôm nay còn tệ hơn nỗi lo
sợ bị bom và đạn pháo nữa. Bởi vì nó không có thuốc chữa. Đây là một chứng bệnh
nan y.. Những người không chịu bỏ súng xuống sẽ chịu đựng được bao lâu nữa ?
hai năm ? ba năm ? nhưng cuối cùng rồi họ cũng sẽ bị tiêu diệt, nếu không có một
người nào giúp họ. Nếy Hoa Kỳ muốn...
- Không bao giờ , anh Phạm ơi ! Hoa Kỳ không có muốn nữa đâu. Họ
sẽ không làm gì nữa cả.
- Như vậy là sẽ có một cuộc nổi loạn. Một cuộc nổi dậy đầy tuyệt
vọng của dân chúng Miền Nam . Anh cũng biết là cộng sản đã thả hết tù trong
khám ra ? như thế là các khám đường sẽ không có trống lâu nữa đâu. Không bao
lâu nữa nó sẽ đầy ấp tù nhân trở lại. Và chưa kể tất cả những trại cải tạo đã
có trong rừng núi... đã làm chết dần chết mòn không biết bao nhiêu người, mà
không có một nhân chứng...
Tôi từ giã anh Phạm, bạn tôi, với lòng se thắt lại. Tôi biết rõ
hệ thống tù đày mà anh vừa nói với tôi. Tôi đã từng là tù nhân của người Bắc
Việt. Không có một sự nhân đạo nào được tách rời khỏi những mục tiêu mà người
cộng sản đã nhắm vào. Phương pháp của họ, đặt trên nền tảng bí mật và tuyệt đối
khắc nghiệt, là bất di bất dịch. Miền Nam Việt Nam đang bị biến đổi tận gốc rễ.
Nếu cho là còn quá sớm để có thể đoán được kết quả sau cùng, thì lúc nào người
ta cũng có thể dựa vào các biện pháp mà họ đang thực hiện để nhận định được
đường hướng của sự biến đổi đó.
Kể từ lúc Sài Gòn bị chiếm , và từ khi chế độ cũ bị sụp đổ ngày
30 tháng 4, trên phương diện hành chánh, Miền Nam Việt Nam đã bị đặt dưới quyền
cai trị của các Ban Quân Quản ở trung ương Sài Gòn hay ở các tỉnh, trên thực tế
không có liên lạc gì với nhau cả. Vấn đề được đặt ra là "một Chánh Phủ dân
sự" trong tương lai sẽ được thành lập ở Sài Gòn ; nếu không có thực quyền
thì Chánh Phủ nầy sẽ chỉ là một phái bộ đại diện của Chánh Phủ Hà Nội trong
những lãnh thổ bị chiếm đóng mà thôi..
Các cơ quan hành chánh và quân sự sẽ bị ám ảnh vì những vấn đề
chánh trị và những bài toán về an ninh; nhiệm vụ chủ yếu của họ là chuyển đổi
tâm trạng và tinh thần của dân chúng Miền Nam cách nào để họ có thể chấp nhận
một cuộc thống nhất nhanh chóng hai Miền Nam Bắc Việt Nam . Nỗ lực trước tiên
là phải tiến tới việc đặt một nền tảng chánh trị và một cơ cấu hành chánh mới,
nhằm bảo đảm cho dân chúng có được một môi trường vững chắc hầu tránh mọi lệch
lạc về tư tưởng cũng như về hành động. Đồng thời cũng phải có nỗ lực về sự tổ
chức và điều hành các trại tập trung cải tạo trong đó hầu hết các cựu cán bộ
quân cán chánh phải chịu qua một thời gian tùy theo sự tiến bộ của các tù nhân
theo như báo chí của Chánh Phủ đã loan báo.
Các vấn đề kinh tế chỉ là hàng thứ yếu và không phải là mối bận
tâm của chánh quyền mới. Không có gì gấp rút phải làm cho bộ máy kinh tế chạy
lại, và một sự trì hoãn như vậy ở Miền Nam được giữ cùng lúc với sự hạ thấp mức
sống của người dân sẽ giúp thống nhất dễ dàng hơn với Miền Bắc vốn đã nghèo đói
sẳn từ lâu rồi. Ngoài ra vì con số thất nghiệp tăng lên quá nhanh, một phần dân
chúng Miền Nam bị đói; hành động phát gạo cho các gia đình không có lợi tức, và
cho thợ thuyền của nhiều xí nghiệp, đã tập cho dân chúng Miền Nam thói quen nhờ
vả vào chánh quyền .
Một hành động quan trọng khác được tiến hành để buộc những người
dân lánh nạn, những người không có công ăn việc làm và tất cả những người
"vô ích" phải rời khỏi thành phố để trở về nguyên quán, hoặc đi định
cư trong những vùng ít dân cư mà chánh quyền đã quyết định nâng lên hàng có giá
trị. Chủ tịch Huỳnh tấn Phát vừa tuyên bố là 3 triệu rưởi người phải rời khỏi
thành phố ( trong số đó chỉ riêng thành phố Sài Gòn đã có 1 triệu rưởi). Mặc
dầu có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền và kích thích về vật chất, dân
chúng chỉ trở lại ruộng rẫy của mình hết sức chậm chạp.
Nền kinh tế Miền Nam đang xuống dốc vì nạn lạm phát phi mã do
không có thu nhập công cộng, do vì nền hành chánh cũ đã biến mất, do vì sự ngưng
trệ gần như hoàn toàn của mọi hoạt động kinh tế . Từ ngày 1 tháng 5 đến 1 tháng
8, giá cả đã tăng vụt, lên 70%. Từ những lời tuyên bố của những đại biểu đến từ
Hà Nội, người ta suy ra là Miền Bắc có khuynh hướng về kỹ nghệ, và Miền Nam thì
có khuynh hướng về nông nghiệp.. Do đó mới có nhu cầu chuyển số lớn dân chúng
từ thành thị về thôn quê, và chuyển cơ sở kỹ nghệ từ Miền Nam ra Miền Bắc .
Chương trình của CPLTCHMN đã có ghi rõ là tài sản của tư nhân sẽ
được giữ lại và đời sống cũng như tài sản của người ngoại quốc sẽ được bảo vệ.
Tuy nhiên có nhiều tin tức có thẩm quyền từ Hà Nội và đặc biệt
là bài báo được đăng ngày 28 tháng 5 trong tờ Nhân Dân, một bộ phận của đảng
cộng sản, đã cho thấy nhiều hạn chế trầm trọng trong bản tuyên bố của CPLTCHMN
, như : Chỉ có tài sản của tư nhân thuộc các xí nghiệp nào không có cộng tác
với đế quốc hay với chánh quyền phản động cũ thì mới được bảo đảm được giữ lại.
Ông Phó Chủ Tịch của "Tổng Liên Đoàn Lao Công Tự Do"
vừa tuyên bố là 70 phần trăm các xí nghiệp của Miền Nam Việt Nam kể từ nay sẽ
được đặt dưới sự quản lý hành chánh .
Có rất nhiều quyết định đã khiến cho nền kinh tế tự do bị sụp
đổ. và đẩy các xí nghiệp đến chỗ phá sản hoặc bị chánh quyền cộng sản
"quản lý" :
- đóng cửa các ngân hàng ngay từ ngày 30 tháng 4 và phong tỏa
các chương mục gởi tiền tiết kiệm, nhưng lại bắt buộc phải trả tiền ứng trước
của ngân hàng; một hệ thống ngân hàng mới được thiết lập thật chậm chạp, nhưng
chỉ có những xí nghiệp có "phép điều hành" mới xử dụng được.
- bắt buộc các xí nghiệp phải gánh chịu các chi phí quan trọng:
tái thu nhận các nhân viên đã bị sa thải từ trước ; Phải trả lương cho thợ
thuyền không làm việc (vì xí nghiệp bị đóng cửa theo lệnh của chánh quyền);
phải trả tiền bồi thường cho nghỉ việc thật nặng, từ ngày 30/4 / 75, cả cho
nhân viên không bị sa thải hay không xin nghỉ việc.
- có biện pháp "cấm bán" mà không nghĩ gì tới nhu cầu
của xí nghiệp hay các nhu cầu của thị trường.
- quyết định "quản lý" các xí nghiệp mà chủ nhân đã
rời khòi nước Việt Nam hay những xí nghiệp nào mà chánh quyền còn nghi ngờ về
chủ quyền thật sự của những người chủ nhân.
- Không có một khả năng nào để nhập cảng hay xuất cảng.
- Thông tin và Liên lạc với thế giới bên ngoài bị co cụm lại chỉ
còn có điện báo. Đường thơ tín chỉ được thiết lập lại vào ngày 1 tháng 9, nhưng
giới hạn không quá 500 gram.
Chánh quyền mới kiểm soát thật chặt chẽ và độc đoán tất cả các
ngành kinh tế .
Kể từ ngáy 30 tháng 4, mà cộng sản gọi là "ngày giải
phóng", Ban Quân Quản nắm quyền kiểm soát hầu hết các xí nghiệp; trong hai
tháng, hoạt động chính yếu của họ chỉ có thiết lập các bản kiểm kê tất cả tài
sản, bất động sản và động sản và các kho tàng hiện hữu.
Từ ngày 1 tháng 7, có những vị "Giám Sát Trung ương"
được đặt vào các xí nghiệp. Họ là đại biểu của chánh quyền , vừa là Giám Sát,
kiểm tra tài chánh, vừa là cán bộ của Chánh Phủ, có đầy đủ thẩm quyền điều tra
rộng rãi. Tất cả mọi dịch vụ của xí nghiệp đều phải được "khán" qua
và "chấp thuận" của những vị Giám Sát nầy.
Tuy nhiên chủ nhân của xí nghiệp vẫn cón trách nhiệm đối với xí
nghiệp, mặc dầu đã mất hết quyền hành.
Có những công ty quốc doanh hay những tổ chức "bán chánh
thức" được thành hình để bảo đảm việc phân phối hay bán ra hết mọi sản
phẩm làm ra; các xí nghiệp không được quyền từ khước dịch vụ của những tổ chức
đó.
Giá cả được chánh quyền đơn phương ấn định, nhưng các nơi mua
trả tiền thật chậm trể. Có một số cơ quan quân sự hoặc hành chánh đã đem bán
lại ngoài thị trường tất cả hay một phần hàng hóa mà họ đã mua được của các xí
nghiệp.
Kế hoạch sản xuất và những sự hướng dẫn đều được các Bộ ở Hà Nội
thiết lập; không có một cơ quan hành chánh kinh tế nào thật sự có mặt ở Sài Gòn
.
Hầu hết tất cả dịch vụ xuất nhập cảng đều ngừng hẳn. Tất cả
những giao dịch với ngoại quốc được giới hạn trong vài chuyến hàng lặt vặt do
những "quốc gia anh em" gởi tặng với tư cách nhân đạo (lương thực và
xăng dầu của Liên Xô, đường của Cuba v.v..)
Những hiệp ước hữu nghị và hợp tác kinh tế được ký với Liên Xô,
với Algérie, với Lybye và Irak đã được chánh quyền loan báo, nhưng nội dung
không bao giờ được tiết lộ. Úc Châu cũng như một số quốc gia Bắc Âu cũng có hứa
sẽ viện trợ kinh tế .
Có nhiều kho dự trữ hàng hóa coi như sẵn sàng để xuất khẩu,
nhưng do vì chánh quyền hoàn toàn không có đủ khả năng, nên số hàng hóa đó vẫn
bị phong tỏa tại chỗ. Tương lai của các xí nghiệp Pháp bị liên lụy rất trầm
trọng. Không có một thể thức chánh trị tổng quát nào được ấn định. Những sự
trưng dụng và những sự tạm giữ đương nhiên đã làm hại các xí nghiệp Việt Nam và
của Pháp không phân biệt, theo từng lãnh vực hoạt động, như những ngân hàng và
những đồn điền lớn. Một số dịch vụ được dành riêng cho chánh quyền (thuê bao
phương tiện hàng hải và cước phí cho tàu bè). Buôn bán qua dịch vụ nhập cảng
cũng thuộc độc quyền của Nhà Nước.
Không còn gì nghi ngờ là Hà Nội đã có vẻ chống đối sự duy trì
những hoạt động kinh tế của người Pháp. Vị thế của Hà Nội xem ra rất là đơn
giản: Vào năm 1954, tất cả mọi quyền lợi của người Pháp ở Bắc Việt đều mất sạch
tiếp theo sự kiện Điện Biên Phủ. Năm 1975 ngày nay quyền lợi của người Pháp
chắc cũng sẽ bị mất hết ở Miền Nam Việt Nam sau ngày cộng sản chiếm được Sài
Gòn. Chưa có một lời tuyên bố chánh thức nào được loan báo theo chìu hướng nầy
, nhưng các cán bộ cách mạng đã nhiều lần khoe khoang với cử tọa Việt Nam về sự
tình nầy.
Hầu hết các xí nghiệp Pháp đang lâm vào tình trạng sắp bị phá
sản, trừ một vài trường hợp ngoại lệ đặc biệt có được hoàn cảnh may mắn (còn
tồn trữ được nhiều nguyên liệu lúc mất Miền Nam , hay xử dụng nguyên liệu địa
phương):
- tiền mặt trong kho đã cạn, chi thường quá cao mà thu thì không
có gì, đã không nhận được tiền ứng trước của ngân hàng, mà còn phải hoàn trả
các khoản cho vay của ngân hàng từ trước ngày mất Miền Nam .
- Nguyên liệu tồn trữ cạn dần mà hoàn toàn không có khả năng
thay thế trong tất cả mọi trường hợp.
- Trước tiên lá chánh quyền quân sự, bây giờ có khi là chánh
quyền dân sự , nhưng trong mọi trường hợp cả hai đều không chút quan tâm đến
tương lai của các xí nghiệp.
- Nghiệp vụ bán sản phẩm đã bắt đầu được các tổ chức
"Bán-Chánh Phủ" ưu ái lo lắng hết giùm.
- Tất cả các chủ nhân xí nghiệp đều mất hết quyền quyết định.
Nếu vì nhờ sự khéo léo của các vị giám đốc và nhờ họ có giúp đỡ
qua lại giữa họ với nhau , nên phần lớn các xí nghiệp chưa đóng cửa, một số khá
lớn công ty đã quyết định cho hồi hương nhân viên người Pháp. Văn phòng và Ban
Điều Hành của Phòng Thương Mãi Pháp chỉ còn có 12 trên 32 người hiện diện trước
khi Sài Gòn bị chiếm đóng.
Các xí nghiệp chi dùng tất cả những gì mà họ hiện có; hầu hết
đều bị đẩy vào tình thế suy sụp mà vì họ còn cố gắng giữ cho xí nghiệp không bị
phá sản nên tình trạng tài chánh của họ càng ngày càng thêm bi đát. Từ bây giờ
là đã có một số xí nghiệp thấy cần phải đi đến quyết định đóng cửa. Nhưng chánh
quyền quân sự đã chẳng những không cho phép mà họ còn bắt buộc họ phải tiếp tục
trả lương cho nhân viên của họ; ngay như chuyện cho nghỉ việc từng phần cũng bị
cấm. Và như thế là các giám đốc công ty, xí nghiệp người Pháp đang trở thành những
"con tin" của thợ thuyền.
Trên bình diện nhân viên, người Pháp ở mọi đẳng cấp đều rất chán
nản. Từ hơn 4 tháng nay họ không được ra khỏi Sài Gòn và không nhận được thư từ
báo chí nào hết. Tình trạng sinh sống của họ thật là rất khó khăn. Thuốc men
tìm không ra , và các bệnh viện thì cũng không có thuốc. Không có một quyết
định nào cho ngày tựu trường. Mọi sự liên lạc với chánh quyền đôi lúc không
được nhã nhặn lắm, và rất là khó khăn với các Ủy Ban cách mạng . Có quá nhiều
chuyện tịch thu nhà cửa. Không có một sự bảo đảm nào để tìm lại được căn nhà và
bàn tủ ghế của mình lúc mình vắng mặt, mà cũng không được phép gởi hay mang
theo những vật dụng cá nhân của mình, nếu có may mắn được rời khỏi Sài Gòn .
Xin được một chiếu khán xuất cảnh không có nghĩa là sẽ có được một chỗ trên phi
cơ. Và có được một chỗ trên chuyến bay không có nghĩa là vào được phi trường;
đã có nhiều chuyến đi bị hủy bỏ vào giờ chót. Và cứ thế hầu hết người Pháp đều
mong mỏi được rời khỏi Việt Nam .
Do đó, giữ được quyền lợi kinh tế của người Pháp ở Việt Nam quả
là một điều quá không chắc chắn, vì nó tùy thuộc hoàn toàn vào những yếu tố
chánh trị .
Những hoạt động quan trọng đã không còn nữa; các ngân hàng bị
chiếm hữu và bị tịch thu, các hảng bảo kê đang nằm chờ để "tự giải
tán", chuyện ký gởi tàu thuyền và môi giới hàng hải đã bị cấm; nghiệp vụ
nhập cảng thì cũng bị cấm, hàng xuất khẩu của các đồn điền lớn bị "quản
lý" (tạm giữ)
Nói một cách tổng quát thì tất cả những xí nghiệp (lớn nhỏ, hay
trung bình) được xem như bị tiêu tan trong một thời gian quá ngắn.
Những người đại diện cho quyền lợi kinh tế của người Pháp ở Việt
Nam đã mất hết hy vọng đã rời khỏi Việt Nam hay đang cố gắng để rời khỏi nơi
đây. Những biện pháp mới liên quan đến sự ra đi của những người có trách nhiệm
trong xí nghiệp đã biến họ thành những con tin trong tay chánh quyền và những
Ủy Ban Cách mạng ở địa phương.. Xí nghiệp thì bị cấm không cho đóng cửa , mà
nhân viên thì phải được tiếp tục trả lương !
Một sự tranh chấp rất nặng nề đang sắp được diễn ra...
Chú Thích:
(1) Có một cuốn phim loại được anh Phạm vừa kể cho tôi nghe đã
được chiếu thật sự ở Tây Đức, cách đây 2 tháng.
CHƯƠNG
27: "30 NĂM CHIẾN TRANH: KHÔNG GIẢI
QUYẾT ĐƯỢC GÌ CẢ!"
Lúc tôi rời khỏi Miền Nam Việt Nam (lần cuối
cùng) vài giờ trước khi mất Sài Gòn , tôi đã tưởng rằng mọi việc đều đã được
chấm dứt.
Miền Nam đã thất trận. Khi đã thua rồi thì
Miền Nam chỉ còn có phục tùng theo luật lệ của kẻ chiến thắng mà thôi.
Không còn nghi ngờ gì nữa là Sài Gòn sẽ sống
dài dài, sống mãi thật là lâu dài với giờ Hà Nội . Một trang sử đẫm máu hình
như đã được vĩnh viễn lật qua. Sợ hãi và chết chóc đã được gạt bỏ ra khỏi quốc
gia nầy rồi, một đất nước quá đói nghèo và quá đau khổ.
Nhiều tháng đã trôi qua và tất cả hình như
không quá đơn giản như tôi đã tưởng như vậy . Những tiếng vang cuối cùng đến
tai chúng tôi từ Miền Nam Việt Nam đã cho thấy là mọi việc đã không được tốt
lắm.
Sài Gòn và Đồng Bằng sông Cửu Long đầy rẫy các
trung đoàn quân chánh quy Bắc Việt quá bực bội vì dân chúng có vẻ như không
phục tùng.
Các cựu chiến binh Miền Nam còn chưa chịu
buông súng xuống hết. Có những chiến khu đang được hình thành , một số sinh
viên đã vào đó. Dân chúng yểm trợ họ. Tình trạng mất an ninh đang lan rộng.
Cuộc trấn áp được coi là quá khắt khe. Tình trạng thiết quân luật chưa bao giờ
được bãi bỏ. Các cuộc bắt bớ càng ngày càng tăng. Tiếng đại bác vẫn còn nổ rền
trên đồng ruộng và đêm đêm người ta vẫn còn nghe nhiều tràng súng liên thanh tự
động.
Đã có nhiều người ngoại quốc ra đi. Các giáo
sĩ thì bị trục xuất. Cái được gọi là CPLTCHMN thì không có thực quyền. Ngày 2
tháng 9 vừa qua trong một cuộc diễn binh vĩ đại được tổ chức để kỷ niệm này lễ
độc lập lần thứ 30, tất cả các "xe chỉ huy" đi trước các đơn vị chỉ
mang có một lá cờ duy nhất - lá cờ đỏ sao vàng - , lá quốc kỳ của Miền Bắc Việt
Nam .
Luật sư Nguyễn hữu Thọ, người Miền Nam , đã
từng là một nhân vật thuộc giai cấp tư sản của thành phố Sài Gòn trước khi gia
nhập vào lực lượng cách mạng và trở thành Chủ Tịch của "Mặt Trận quốc gia
Giải Phóng", đã lên khán đài để đọc một bài diễn văn dài để nói lên
"sự vui mừng vì nước Việt Nam đã không còn bị chia cắt và đã hoàn toàn tự
do, độc lập và thống nhất từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau"
Không còn một ám chỉ nào đến những chủ đề
trong quá khứ về "hai chữ Miền Nam " hay về sự tôn trọng "dư
luận của số đông quần chúng"
Báo chí chánh thức ở Sài Gòn trình bày ngày
nầy qua ngày khác những chiến thắng của quân đội giải phòng Bắc Việt , của Khờ
Me Đỏ, của Pa Thet Lào như là một chiến thắng chung của một Mặt Trận Cách Mạng
duy nhất bao gồm cả Đông Dương, xem như một Liên Bang mà Hà Nội sẽ là người
lãnh đạo.
Các đồng hồ của Sài Gòn được kéo lùi lại 60
phút, để theo đúng với giờ Hà Nội, mà theo lời xác nhận của người nữ xướng ngôn
viên của Đài Phát Thanh Giải Phóng đọc trước mỗi bản tin tức, kể từ nay sẽ là
"giờ chánh thức của Đông Dương"
Ca tụng một chiến thắng đã từng được mong đợi
từ lâu, đã đưa những người lãnh đạo Miền Bắc Việt Nam đến chỗ hết lời tán dương
sự hình thành của một khối đấu tranh chống đế quốc gồm có những chế độ tiên
tiến hiện hữu và tương lai , bành trướng xuống hết miền Đông Nam Á Châu.
Nhưng trong khi Hoa Kỳ rút lui, họ đã để lại
trên đất nước Việt Nam hai cường quốc xã hội chủ nghĩa là Liên Xô và Trung Quốc
chia rẽ nhau vì một sự tranh giành ảnh hưởng ý thức hệ và vì một sự đối đầu
truyền kiếp.. Đã thấy có nhiều sự rạn nứt giữa hai nhóm thân Nga và thânTầu.
- Bên Lào, nhóm Thân Nga đã thắng thế vì có Hà
Nội đỡ đầu. Nhưng Trung Quốc thì nắm chặt Bắc Lào và hai con đường chiến lược
được 3 sư đoàn và một lực lượng phòng không hùng hậu bảo vệ. Quân đội hoàng gia
Lào, hùng hậu với 60.000 người đã bị giải tán. 3000 sĩ quan của lực lượng nầy
bị lưu đày lên Sầm Nứa ( vùng Cao Nguyên Bắc Việt) để "học tập cải tạo",
và tất cả binh sĩ của họ đều bị nhốt trong các trại lao động khổ sai. 1.500
chuyên viên Liên Xô và 400 chiếc phi cơ của hãng Aéroflot đã đến thay thế các
chuyên viên Mỹ và các phi cơ của hãng Air América (hãng hàng không riêng của
Trung ương Tình Báo CIA ). Họ đảm trách công tác tiếp vận và tất cả mọi liên
lạc của Pathet Lào (quân đội cộng sản Lào). Hoàng thân Souvanna Phouma, vị Chủ
Tịch được chỉ định của Chánh Phủ Liên Hiệp Lào chỉ giữ một vai trò tượng trưng,
và sẽ rút lui vĩnh viễn sau những cuộc bầu cử vào tháng 4 năm 1976.
- Tại Cam Bốt, các nhà ngoại giao Liên Xô đều
bị trục xuất và cộng sản Tầu đang ở trong thế mạnh. Nhưng các phi cơ nào muốn
đáp xuống phi trường Phnom Penh đều phải đánh một vòng chừng 1500 cây số để
tránh không bay ngang qua lãnh thổ Việt Nam , ở đó sự có mặt của Liên Xô càng
ngày càng mạnh. Những chiếc tàu đầu tiên cập bến vào các cảng Sài Gòn và Đà
Nẳng là những chiếc tàu chở dầu và chở hàng của Liên Xô. Mạc tư Khoa đã bí mật
và cứng rắn cho Bắc Việt biết là họ đặt quyền lợi của họ vào việc xử dụng căn
cứ Không quân và Hải quân ở Cam Ranh , một vị trí chiến lược hàng đầu ở nửa
đường giữa Hong Kong và Tân gia Ba, một căn cứ mà Hoa Kỳ đã bỏ ra mấy trăm
triệu mỹ kim để thiết lập và xử dụng. Bộ chỉ huy tối cao của Liên Xô coi việc nhượng
cho họ được quyền xử dụng căn cứ Cam Ranh chỉ là một sự bồi hoàn hợp lý đối với
một số lượng phương tiện khổng lồ mà Liên Xô đã từng giúp và viện trợ cho Bắc
Việt trong suốt thời gian cuộc chiến tranh giành độc lập.
Với sự tái mở lại sự lưu thông trên kinh đào
Suez, việc xử dụng được căn cứ Cam Ranh sẽ là một trạm chủ yếu giữa các căn cứ
của Liên Xô từ Ấn độ Dương ở phía Nam (đảo Socotra, Berbara ở Somalie) đến mũi
Vladivostock ở mạn Bắc. Các hạm đội của Liên Xô do đó sẽ có thể mở rộng phạm vi
hoạt động trên Biển Đông của Trung Quốc hết sức an toàn. Tuy vậy nhưng muốn đi
đến một Hiệp định cũng sẽ không dễ dàng lắm đâu. Bắc Kinh không bao giờ muốn
thấy sự bố trí của một kẻ địch lảng vảng ở ngoài khơi cách bờ lục địa của mình
không xa, để có thể đe dọa mình, sau sự lui binh của Hoa Kỳ . Chánh Trị Bộ của
Hà Nội tuy phần lớn đều "thân Liên Xô", nhưng cũng có một số
"thân Tầu" mà vị thế chánh trị cũng nặng ký lắm như Nguyễn lương Bằng
Phó Chủ Tịch nước, Trường Chinh, Chủ tịch Quốc Hội, và Hoàng văn Hoan, Tổng
trưởng Nội Vụ.
Một vấn đề khác làm cho Bắc Kinh nổi giận: đó
là số phận của trên một triệu rưởi người dân Trung Hoa đang ở Miền Nam Việt Nam
. Khi bộ đội chánh quy Bắc Việt vào Sài Gòn , tất cả thương gia người Tầu ở Chợ
Lớn đều đã treo trước cửa tiệm của họ lá cờ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc.
Nhưng họ được lệnh phải tháo xuống ngay.
Những người Tầu nầy quá đông và sống rất có tổ
chức, đã kiểm soát tất cả nền kinh tế và hệ thống phân phối ở Miền Nam , và như
thế là họ siết chặt quá nặng nề hành động của Hà Nội . Nếu họ được Bắc Kinh bảo
vệ, họ sẽ thoát khỏi gọng kềm của Hà Nội ngay. Qua nghị định của Tổng Thống
Diệm từ năm 1956, họ được nhập quốc tịch Việt Nam , và giờ nầy họ vẫn tiếp tục
còn mang quốc tịch Việt Nam và vẫn được coi là "dân Việt Nam "
Một chiến dịch hung bạo đang được tiến hành để
đánh vào những người đầu não của những người Tầu nầy mà họ gán cho một danh từ
xấu xa là "tư sản mại bản", được người ngoại quốc trả lương. Đài phát
thanh cộng sản đổ hết trách nhiệm cho họ về chuyện giá cả thị trường đang tăng
vọt, do họ đầu cơ tích trữ làm cho hàng hóa khan hiếm . Ngoài ra chánh quyền
cộng sản còn buộc tội họ là đã phá hoại cuộc cải cách tiền tệ vừa rồi. Đài phát
thanh còn loan báo tên tuổi của họ, loan báo đã bắt được nào là ông "vua gạo",
ông "vua thuốc lá", "vua cà phê", "vua vận tải",
"vua ngư trường", "vua thuốc tây" v.v..Một nhân vật cộng
sản vừa thay thế Trần văn Trà trong chức vụ Trưởng Ban Quân Quản Sài Gòn Chợ
Lớn là Mai chí Thọ, một người lai Tầu, là người đang có trọng trách điều hành
chiến dịch đánh "tư sản mại bản" đã nói :
- "Chúng tôi phải ngăn chận bọn tôi tớ
của đế quốc, không cho họ tiếp tục làm đội quân thứ năm nhằm làm hại nền kinh
tế của đất nước".
Người Tầu phản ứng lại với mối đe dọa nầy bằng
cách làm nhiều bản kiến nghị ủng hộ đường lối chánh trị của Chủ Tịch Mao trạch
Đông.
Thống nhất đất nước bằng võ lực không giải
quyết được gì cả. Nước Việt Nam vẫn là miếng mồi ngon để cho các thế lực ngoại
bang tranh nhau giành giựt.
Cũng như việc ký kết Hiệp Định Ba Lê không thể
đi tới chấm dứt được chiến tranh, chuyện áp dụng biện pháp quân sự để chiếm thủ
đô Sài Gòn và xâm chiếm cả Miền Nam Việt Nam ... đã không chấm dứt được những
nỗi đau khổ của một dân tốc vốn đã rách nát.
Cách mạng Miền Bắc quá hung hăng và háo chiến
đã dựa trên nguyên tắc "chánh quyền ở đầu lưỡi lê họng súng" để thiết
lập đường lối hành động của mình. Hà Nội đã lựa chọn con đường khư khư quá cứng
rắn. Miền Bắc chẳng những muốn thống trị Miền Nam , mà còn muốn hài tội họ, ép
buộc và thuyết phục họ phải đi theo ý thức hệ của họ, một sự thật mà Hà Nội
nghĩ rằng chỉ có Hà Nội mới là người duy nhất được nắm giữ.
Con đường quá dài đó có đầy chướng ngại, đầy
áp bức, đầy chết chóc, nhục nhã... không thể dẫn tới hòa bình được, một nền hòa
bình mà cả dân tộc đang mong đợi từ 30 năm qua, trong tình trạng chia rẽ vì bị
đổ quá nhiều máu, có quá nhiều tang tóc, và quá nhiều đau khổ.
Có một cách duy nhất dể cho những người chiến
thắng hàn gắn lại tất cả các vết thương còn đang rướm máu và quá nhức nhối nầy,
đó là họ phải cố gắng đè nén lòng kiêu căng qua chiến thắng của họ xuống, để
công bố ngừng tranh luận về ý thức hệ, để chứng minh cho người ta thấy tấm lòng
độ lượng của mình. Sự thống nhất thật sự phải đi qua con đường "hòa bình
của con tim", trở lại những truyền thống cũ của đạo lý và sự khoan dung.
Đó là con đường xoa dịu nhân tâm. Chỉ có như vậy thì cả hai Miền Nam Bắc mới
họp nhau lại thành "Một Đất Nước Duy Nhất" của một "Dân Tộc Duy
Nhứt" trên 50 triệu người dân tự do trong tình anh em được . Một đất nước
giàu có và phồn thịnh, có nhiều tài nguyên thiên nhiên gần như vô tận với những
cánh rừng nguyên thủy, với nhiều con sông lớn đầy phù sa, với ruộng đồng bao la
bát ngát, với những mỏ than lộ thiên, với những mỏ dầu, với những bãi cát trắng
và những hải cảng kín gió mùa.... Một dân tộc có tay nghề khéo léo, đảm đang và
siêng năng cần cù rất hãnh diện để được nhận lấy một chỗ đứng xứng đáng trong
cộng đồng thế giới......
Đây có phải là một giấc mơ không hiện thực? để
cuối cùng hé mở được bức màn đầy máu đỏ, đang đè nặng trên mảnh đất đang bị dày
vò nầy, để nhìn thấy được một đất nước không còn hận thù và không còn chiến
tranh, ở đó những người cùng một giống nòi đang cố tìm lại con đường hạnh phúc
của họ?
Pierre Darcourt
No comments:
Post a Comment