VÀI DÒNG CẢM NGHĨ
Đọc tác phẩm nguyên thủy cuốn
sách “VIETNAM, QU’AS TU
FAIT DE TES FILS?” củaPIERRE
DARCOURT, nhân chứng những ngày cuối cùng của Miền Nam Việt Nam bị bức
tử. Là một ký giả, ông không phải viết với khối óc, với mắt thấy tai nghe như
những nhà báo ngoại quốc khác, mà ông viết với hơi thở, mạch tim, nước mắt của
một Miền Nam Việt Nam bị bỏ quên!Họ là ai? Ông bạn đồng minh Hoa
Kỳ và 12 nước đã ký vào Hiệp Định Ba Lê ngày 27 tháng giêng năm 1973, trong đó
có cả Liên Hiệp Quốc. Họ giả đui giả điếc trước một nửa dân tộc chìm trong máu
và nước mắt, chết chóc, tù đày, đói khát triền miên gần 30 năm qua! Ai nhỏ cho
một giọt nước mắt đây? Họ về hùa với quân xâm lăng cướp nước Cộng Sản Bắc Việt,
ngậm miệng bang giao và có một chỗ ngồi tại Liên Hiệp Quốc.
Xin cám ơn ông Pierre Darcourt
còn nghĩ đến người dân Miền Nam chúng tôi ! Quyển sách của ông chẳng những là
cái tát tai lịch sử vào mặt lũ Việt Cộng, mà còn là cái
tát tai in dấu hằn lịch sử trên mặt 13 nước đã hạ bút ký vào Hiệp Định Ba Lê mà
bọn Cộng Sản Bắc Việt đã vứt vào thùng rác ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Anh Dương Hiếu Nghĩa có nhã ý
chuyển ngữ sang tiếng Việt, đó là điểm đáng khen. Vẫn biết dịch thuật là chuyện
khó, người Pháp thường bảo “Traduire c’est trahir” (Dịch tức là phản lại), may
thay anh Nghĩa đã không phản lại mà còn dịch một cách mạch lạc, gọn ghẽ, từ ngữ
rất chuẩn, ý rất trôi:
“MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI
TÌNH GÌ?”. Một tiếng than ngắn mà đau?
Phải chăng tiếng than của Quân Cán Chính Miền Nam bị đày đọa bỏ xác tại các
trại tù Cộng Sản? Hay tiếng than của các nữ thuyền nhân bị bọn hải tặc hãm hiếp
ngoài biển khơi? Tiếng than bất tận gần 30 năm qua và còn kéo dài đến bao giờ?
Bản tiếng Việt nầy là chứng
tích tội ác Cộng Sản cho những thế hệ trẻ ở quê nhà. Mong có một bản tiếng Anh
cho con cháu chúng ta ở hải ngoại, và gửi cho 13 nước đã từng ký kết vào Hiệp
Định với câu “Lương Tâm
của quý quốc còn hay mất?”
Vài dòng cảm nghĩ xin những ai
chạy trước ngày 30-4-75 nên đọc để nhỏ một giọt nước mắt thương cảm. Và những
ai đi sau cũng nên đọc để nhớ lại những hình ảnh đau thương phai nhòa trong năm
tháng, hãy nhìn lại vết thương còn rịn máu vì mối thù Cộng Sản còn đó, quên là
có tội với những người đã nằm xuống vì hai chữ TỰ DO!
Houston,
cuối Xuân 2004
DUY XUYÊN
LỜI
GIỚI THIỆU CỦA NHÀ XUẤT BẢN ALBATROS
Sau 30 năm đấu tranh và chinh
chiến, cuộc chiến Việt Nam vừa chấm dứt: Cộng Sản Miền Bắc đã chiếm được Miền
Nam Việt Nam.
Sau Pháp, Hoa Kỳ cũng đã rút ra
khỏi Miền Nam Việt Nam. Những người sắt máu thuộc Bộ Chánh Trị của Hà Nội đã là
kẻ chiến thắng.
Pierre Darcourt mở lại hồ sơ về
chuyện mất Sài Gòn và Miền Nam Việt Nam. Với quyển sách nầy Anh thuật lại trận
đánh cuối cùng mà anh đã sống ngày này sang ngày khác trên trận địa, và tường
thuật lại rất trung thực bầu không khí của những mưu mô, những áp lực, những
trò chánh trị muôn hình vạn trạng đã được gây ra để gia tăng tốc độ sụp đổ của
Miền Nam.
Anh mô tả những nổi đau khổ và
những sự thiếu thốn của những người tị nạn tìm đường chạy ra biển; sự kháng cự
cuối cùng của đội quân thiện chiến của Miền Nam Việt Nam trước làn sóng xâm
lăng của quân Bắc Việt ở Xuân Lộc… Trảng Bôm… Biên Hòa; sự ra đi của người Mỹ;
sự xuất hiện của tướng Dương văn Minh với vai trò phù du của ông; cảnh các “bộ
đội” của Miền Bắc tiến vào thủ đô Sài Gòn mà họ đổi tên lại là thành phố Hồ Chí
Minh; hoàn cảnh đau thương khổ sở của dân chúng; sự xét lại vấn đề tự do của
các tôn giáo; và tấn thảm kịch xót xa của những người công giáo luôn gắn bó với
niềm tin của họ; và những phản ứng sau cùng của những người lính chiến không
bao giờ muốn hạ súng xuống…
Qua tựa đề của quyển sách “Mẹ
Việt Nam ơi, dân ta có tội tình gì?”, Anh chỉ nêu lên một câu hỏi duy nhất
nhưng rất là chính xác.
Ba triệu người đã chết cho một
chiến thắng quân sự, một chiến thắng không giải quyết được gì cả mà nó lại còn đưa
đến một thất bại về chánh trị lẫn nhân tâm. Khởi xướng và lãnh đạo một cuộc
chiến 30 năm dài nói là để thống nhất đất nước, mà cuối cùng chỉ thấy một đất
nước rách nát và tang thương hơn bao giờ hết !
Pierre Darcourt là một nhà báo,
một phóng viên có tầm vóc, là thông tín viên liên tiếp cho nhiều tờ báo Pháp và
ngoại quốc như l’Express, l’Aurore, Sud Ouest, Jiji Press v.v..
Năm nay Anh 49 tuổi (1975),
chào đời tại Sài Gòn, tốt nghiệp cao đẳng Luật Khoa và Lịch Sử ở trường Đại Học
Hà Nội. Với những tác phẩm nghiên cứu và phóng sự của mình, anh được xếp vào
một trong những chuyên viên giỏi nhất hiện nay về những vấn đề Á Châu. Anh là
Tổng thơ ký của Viện Nga-Hoa.
Là một người từng chịu trách
nhiệm một toán vũ trang kháng chiến, hoạt động phía sau chiến tuyến của Nhật,
anh trở thành một Biệt Kích Dù từ năm 1945 đến 1954, trốn khỏi một trại cải tạo
Việt Minh, hai lần bị thương, Pierre Darcourt là một trong những nhà báo rất
hiếm đã được sống từ lúc khởi đầu cho đến hồi kết cuộc của một cuộc chiến dài
nhất thế kỷ, qua tất cả các giai đoạn lịch sử của nó.
Nhà xuất bản Albatros
14, đường l’Armorique – Paris 15 ème
Điện thoại : 306. 20.27
THAY
LỜI TỰA
Vào năm 1994, nhơn dịp sang
South Adelaide (Úc Châu), tôi mới có cơ hội lên tận thủ đô Canberra, để gặp lại
anh Lê Văn Thành, người đã từng là Tùy Viên Quân Sự của Tòa Đại Sứ Việt Nam
Cộng Hòa tại Úc Châu trước 1975. Anh Thành là người bạn đồng khóa, cùng một
trung đội, và cùng nằm chung một phòng với tôi ở trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
(tên cũ), khóa 5 Hoàng Diệu 1950-1951. Anh đã trao cho tôi quyển “Vietnam,
Qu’as tu fait de tes fils” và bảo tôi phải dịch cuốn sách nầy vì theo nhận xét
của anh thì “nó hay quá, Sáu Nhỏ ơi”!
Chỉ đơn giản có mấy lời tâm
tình của người bạn như thế thôi, mà tôi đã say mê đọc cuốn sách này trong suốt
hai tuần lễ và khi trở về đến Hoa Kỳ, tôi quyết định phải dịch ngay nó sang
tiếng Việt đúng như anh bạn Thành của tôi đã mong muốn vì quả thật cuốn sách
nầy đã chẳng những “quá hay” mà nó còn “quá quý” nữa.
Quá hay, vì tuy đã từng là sĩ quan tác
chiến trong binh chủng Nhảy Dù của quân Đội Liên Hiệp Pháp thời 1945-1954 ở
Việt Nam, nhờ đó tác giả có đầy đủ khả năng và kinh nghiệm trong nhiệm vụ phóng
viên chiến trường, nhưng không vì thế mà mất đi tánh cách hoàn toàn khách quan
trong vai trò một nhân chứng lịch sử, rất sáng suốt và vô tư đối với tất cả mọi
diễn biến ngoại giao, chánh trị, và quân sự của Cộng Sản Bắc Việt trong suốt
chiều dài của cuộc chiến ở Việt Nam từ trước biến cố 1945 cho đến ngày bộ đội
Cộng Sản Miền Bắc tràn vào thủ đô Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh, hoàn
tất kế hoạch xâm chiếm Miền Nam Việt Nam bằng võ lực ngày 30/4/1975, theo lệnh
của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng.
Quá hay, vì trong từng chương, từng trang, từng mục, từng đoạn, từng hàng
của quyển sách, tác giả đã mô tả và tường thuật thật chính xác thật sống động
và thật đầy đủ tất cả những gì đã xảy ra trên từng giai đoạn vận động ngoại
giao, cũng như trên từng giai đoạn xâm nhập vào Miền Nam và từng bước đường
hành quân xâm lược của bộ đội Cộng Sản Bắc Việt, theo đúng ý đồ và sách lược
của Cộng Sản Quốc Tế mà Cộng Sản Việt Nam chỉ là một đội quân tiền phong tay
sai của họ không hơn không kém..
Quá hay, vì tác giả đã phân tích và đánh giá rất đứng đắn và thật vô tư giá
trị và tinh thần của Quân Cán Chính Miền Nam Việt Nam, trong nhiệm vụ chống
Cộng, tự vệ để cứu nước và giữ nước, nhất là đã theo dõi sát sao từng ngày,
từng giờ mọi diễn biến trên chiến trường cũng như trên chính trường trong những
ngày dầu sôi lửa bỏng của tháng Tư năm 1975.
Quá hay, vì tác giả đã tận mắt thấy được, sờ được, thông cảm được, và nói
lên được cho cả thế giới biết hoàn cảnh bi đát và tâm trạng thống khổ của hàng
triệu người dân lành vô tội đang trốn chạy quân xâm lược, vô tình làm bia cho
bộ đội chánh quy Cộng Sản đang cố ý tàn sát họ không nương tay bằng đủ mọi loại
vũ khí tối tân của Liên Xô, Trung Cộng và khối Cộng Sản, bất chấp tình “đồng
bào ruột thịt” mà họ thường lớn tiếng rêu rao, thẳng tay tàn sát người dân Miền
Nam Việt Nam trên khắp mọi nẻo đường của đất nước, từ Đại lộ Kinh Hoàng ở Quảng
Trị Thừa Thiên cho đến Tỉnh Lộ 7 của tử thần từ Kontum, Pleiku (Cao nguyên) đến
Qui Nhơn, Nha Trang,…
Rất quý, vì đây là một tài liệu lịch sử rất chính xác và khách quan từ một
ký giả ngoại quốc, mà sau nầy Cộng Sản Việt Nam không thể bẻ cong lịch sử được
để hòng chạy khỏi tội với dân tộc Việt Nam, vì tài liệu nầy đã nói lên rõ ràng
về sự kiện Cộng Sản Bắc Việt đã ngang nhiên xé bỏ “Hiệp Định Ba Lê 1973 về
Ngừng Bắn Và Lập Lại Hòa Bình Ở Việt Nam” mà họ vừa ký kết chưa ráo mực, để
bình tĩnh xua quân đội chánh quy của họ công khai xâm chiếm Miền Nam Việt Nam
theo lệnh của Quốc Tế Đệ Tam Cộng Sản, để tàn sát dã man, không gớm tay đồng
bào “ruột thịt” của mình.
Rất Quý, vì quyển sách nầy là một
chứng tích lịch sử đã hùng hồn minh xác thật rõ ràng với thế giới (và nhất là
đối với 13 quốc gia đã long trọng đặt bút ký vào Hiệp Định Ba Lê 1973) rằng “Chính Cộng Sản Bắc Việt mới thật
sự là kẻ xâm lăng. Và Miền Nam Việt Nam chỉ là một nạn nhân phải ở trong thế
phải chiến đấu để tự vệ mà thôi “
Do vậy, chúng tôi xin trân
trọng giới thiệu với đồng bào Việt Nam đang tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại : quyển “Mẹ Việt Nam Ơi! Dân Ta Có Tội
Tình Gì? được chúng tôi
chuyển ngữ từ quyển sách tiếng Pháp:”Việt Nam, Qu’as tu fait de tes fils” của
tác giả Pierre Darcourt, để chúng ta cùng nhìn rõ được bộ mặt thật gian manh,
tàn ác, và trơ trẻn của bọn Cộng Sản xâm lược Miền Bắc khi các mặt nạ của họ
mang sáo ngữ “giải phóng đất nước”, “giải phóng dân tộc” hay “chống Mỹ cứu
nước” hoặc “giải phóng đồng bào “ruột thịt” của chúng ta ở Miền Nam đang sống
đói khổ dưới sự bốc lột tàn tệ của Mỹ Ngụy” đều bị rơi xuống hết sau ngày 30
tháng Tư, năm 1975!
Dương Hiếu Nghĩa
CHƯƠNG 1
MỘT NĂM SỬU THUẬN LỢI
MỘT NĂM SỬU THUẬN LỢI
Một không khí yên lặng hết sức
lạ lùng và kinh ngạc đang đè nặng trên cánh đồng rừng nầy của Miền Nam Việt
Nam.
Vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ bảy 27 tháng giêng năm 1973,
cuộc chiến dài nhất thế kỷ (từ hai mươi tám năm nay) trên nguyên tắc coi như
được chấm dứt.
Tôi đã chứng kiến cuộc chiến
nầy một buổi chiều tháng chạp năm 1946 trên những con đường âm u của Hà Nội,
những con đường đầy âm thanh vang dội của những tiếng nổ, của những loạt súng
đại liên và những tiếng reo hò của những Tự Vệ Quân (dân quân của Võ Nguyên
Giáp) đang tấn công vào các khu vực của người Pháp.
Cũng có thể tôi đã nghe thấy
được cuộc chiến nầy chấm dứt ở một nơi nào đó cách Sài Gòn khoảng 2 giờ lái xe,
lúc tôi đang ẩn náu trong một lô cốt ở Đèo Chuối, trên đường đi Dà Lạt. Tôi đã
cùng uống chung một lon bia với một hạ sĩ quan thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
còn rất trẻ, có thể anh nầy chưa chào đời khi cuộc chiến bùng nổ.
Cái tiền đồn nơi tôi đang có
mặt bị bắn phá suốt đêm bằng hỏa tiễn và súng cối. Khẩu đại liên nặng ngay trên
lô cốt đã bắn suốt mấy giờ liền.. Mùi thuốc súng nồng nặc đưa lên tận cổ họng
đến tôi phải bị ho. Những tiếng nổ đã làm cho tôi điếc cả tai. Đạn pháo binh
yểm trợ rơi xuống chung quanh đồn với những tiếng nổ ngắn và kinh hồn làm cho
mặt đất phải rung rinh. Đến sáng thì tất cả tiếng súng mới im bặt. Ngoài trờI
ánh nắng ửng hồng đang lên chậm chạp trong làn sương mù. Sương ướt còn đọng
trên các tàng cây to và bãi cỏ. Người chết cuối cùng của trận chiến cuối cùng
nầy đang nằm oằn oại không còn nguyên vẹn trong một hố bom, đó là thây của một
đặc công Việt Cộng. Những người Thượng mang gùi trên lưng, thân đen đúa gần như
trần truồng trong mảnh vải thô sơ, đang đi xuống chợ,
Cuộc chiến ở Đông Dương đã thực
sự chấm dứt hay chưa ? Dù muốn dù không, trên trận tuyến mà hai bên đang đối
diện nhau thì cuộc chiến dai dẳng coi như được chấm dứt mà không giải quyết
được gì cả, chỉ để lại cho các chiến binh đang nằm giữ chiến tuyến của mình một
hương vị chua chát của một trận chiến mà không có một chút lợi ích nào hết.
Đây là một cuộc chiến duy nhất
trong lịch sử mà chưa từng thấy có một chiến thắng quyết định nào, dù rằng cả
hai bên của chiến tuyến bên nào cũng không ngớt lớn tiếng rêu rao là mình đã
thắng trận.
Trọng lượng số bom đạn được
dùng trong cuộc tranh chấp nầy đã vượt hẳn trọng lượng số bom đạn của tất cả
các cuộc chiến tranh trước đây cộng gộp lại. Cuộc chiến nầy cũng được hai bên
áp dụng tất cả các hình thức kỹ thuật tác chiến từ tân tiến đến cổ điển. Và
cuộc chiến nầy cũng là bãi chiến trường điện tử đầu tiên. Các hoả tiễn đầu tiên
có đầu đạn được hướng dẫn đã được sử dụng trong những điều kiện thật trong tác
chiến. Cho tới bây giờ người ta chưa từng thấy có một sự tập trung nào quá
nhiều chìến cụ có khả năng hủy diệt trong một thế đất nhỏ hẹp như thế, và ở đó
đôi khi những vũ khí thô sơ nhất lại làm cho những trang thiết bị tinh vi hơn
phải thất bại.
Một bên thì có những quả bom
tinh khôn (laser) tự động điều chỉnh, những hỏa tiễn với đầu đạn biết tìm kiếm
mục tiêu và những phi cơ vận tải khổng lồ…. Còn bên kia thì có từ những “bẫy
cọp” bằng tre vót nhọn và những dòng người khuân vác đẩy xe thồ, những thùng
quân vật dụng thả trôi theo dòng nước từ thượng nguồn và được vớt lên ở các
lưới thép căng ở hạ lưu cách đó cả 50 cây số ngàn…. đến những đoàn xe vận tải
nặng Molotova, những xe tăng lội nước, và những trạm “tên lửa” dấu kín rải rác
trong rừng bụi. Những cuộc tàn sát được bình tĩnh chọn lựa trước và được lạnh
lùng lên chương trình trong máy điện toán… và những vụ giết người bằng mã tấu
kèm theo hành động cắt xẻo tay chân hết sức ghê rợn… nói chung.
Cuộc chiến nầy cũng có đủ mọi
hình thức kỹ thuật về mặt hạn chế tầm sát hại của vũ khí, và những hạn chế nầy
có thể còn gây ra nhiều mất mát về chiến cụ và nhân mạng hơn nữa không chừng.
Cuộc tranh chấp nầy được phát triển ra vừa như một cuộc nội chiến vừa là một
cuộc đối đầu quốc tế, ở đó các siêu cường có chỗ để thí nghiệm các loại vũ khí
và chiến cụ tối tân nhất cũng như những chiến thuật chiến lược tân tiến nhất
của mình.
Tuyên Truyền và Thông Tin đã
giữ một vai trò quyết định. Qua truyền hình, chiến sự đã đến được khắp nơi trên
thế giới; những hình ảnh đẫm máu và rất bi thảm của cuộc chiến được chiếu đến
tận những nơi yên tĩnh nhất và được bảo vệ chặt chẽ nhất, đã làm rung động cả
nước Mỹ, chia rẽ dư luận Mỹ, gây sự chống đối trong giới báo chí, đã gây ra
nhiều cuộc biểu tình phản chiến, chống đối đến man rợ, và gây ra một ý niệm xấu
cho tất cả các nước văn minh nhất trên thế giới.
Hoa Kỳ đã nhảy vào cuộc chiến
mà không có một lời tuyên chiến trước và đã tung ra một lực lượng quân sự khá
quan trọng. Đùng một cái, trong lúc các phi hành gia của họ đang tản bộ trên
cung trăng, họ mới khám phá ra là đã từ lâu họ bị rơi vào một cái bẫy mã tấu và
đang bị sa lầy, nên họ quyết định bằng mọi giá phải cố gắng thoát ra khỏi vũng
sình mà không bị mất uy tín.
Vào năm 1969, trong đợt rút
quân đầu tiên, môt anh lính còn trẻ thuộc lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã
mỉa mai cao giọng đề nghị một cách vô liêm sỉ :
” Tại sao chúng ta không tuyên
bố một cách giản dị là chúng ta đã thắng trận rồi, và nước Việt Nam đã hoàn
toàn được bình định xong, nên chúng ta đi về nhà !”
Việc đã xảy ra sau đó đã cho
thấy chú lính thủy nầy đã nói một câu gần như tiên tri, bởi vì phần chánh yếu
đã được làm y như thế.
Cuộc chiến ở Đông Dương là cuộc
chiến đầu tiên mà các trực thăng đã có một vai trò quyết định trong tác chiến.
Vào một lúc nào đó người ta đã tung ra đến 5000 chiếc trực thăng trên không
phận Miền Nam Việt Nam, đưa lực lượng Bộ Binh Hoa Kỳ lên hàng thứ ba của Không
Lực thế giới, sau Không Lực Hoa Kỳ và Không Lực Liên Xô.
Trong thời gian tám năm rưỡi
tham chiến của Hoa Kỳ, Cộng Sản Việt Nam đã tung ra hai cuộc tấn công lớn mà họ
tin tưởng đây là những trận chiến có tính cách quyết định. Đó là cuộc “tổng
công kích Tết Mậu Thân (1968) và cuộc xâm lăng chớp nhoáng mùa xuân 1972.
Lực lượng Hoa Kỳ và QLVNCH đã
khởi xướng hai cuộc phản công: tấn công qua biên giới Cam Bốt và hành quân qua
lãnh thổ Lào.
Từng được coi là người đã chiến
thắng trong trận chiến Điện Biên Phủ, tướng Võ Nguyên Giáp cũng chỉ gặt được sự
thất bại hoàn toàn trong cả 3 lãnh vực mà ông ta cố gắng muốn thực hiện. Đó là:
sự nổi dậy ở dân chúng của các đô thị ở Miền Nam, chiến tranh du kích, và chiến
tranh quy ước.
Nhưng vớI hành động vừa dấu kín
số tử thương, vừa rút nhanh đám tàn quân về để kín đào bổ sung cho các đơn vị
trong các khu rừng rậm trên đất Lào và trên dãy Trường Sơn, ông ta đã khôn khéo
làm cho địch quân tưởng rằng quân Cộng Sản đã thắng trận.
Cả Hoa Kỳ và VNCH chỉ thu lượm
có 50% chiến thắng: vì bị giới hạn trong không gian và thời gian nên các cuộc
hành quân không được phép thọc sâu hay mở rộng đúng mức để khai thác tối đa các
thành quả chiến thắng được.
Về phía Hoa Kỳ, trong suốt chiều
dài của cuộc chiến người binh sĩ của họ chưa bao giờ được thông báo đúng mức
mọi sự kiện dù là nhỏ nhất, nhưng lại thường được thông báo hết sức sai lạc về
những lý do thật sự của cuộc chiến.
Trái lại, về phía Cộng Sản,
chưa bao giờ cán binh của họ lại không được giải thích cặn kẽ lý do của cuộc
chiến hay được thông báo sai lạc về mọi diễn tiến đã xảy ra.
Khi rút quân, người Mỹ vẫn đinh
ninh rằng họ đã làm tròn lời cam kết “trong danh dự”. Họ đã phải chi ra hơn hai
trăm tỷ Mỹ kim cho cuộc chiến và mất đi 58.000 người tử trận (gồm cả khoảng
10.000 chết vì tai nạn linh tinh, từ tai nạn lưu thông đến bất cẩn trong việc
sử dụng súng đạn)
Cộng Sản Bắc Việt đã tàn phá
hết đất nước Việt Nam của họ, đâu đâu cũng thấy nhà tan cửa nát, và họ đã mất
đi trên 1 triệu người chết, mà không đạt được mục tiêu mà họ đã đề ra. Những
cán binh (Việt Cộng) mà họ gài vào Miền Nam chỉ sống lẩn lút trong rừng thiêng
nước độc hay trong bưng biền sình lầy, sống xa quần chúng.
Quân dân Miền Nam chiến đấu để
bảo tồn sự toàn vẹn lãnh thổ của họ. Họ nhìn thấy đất nước của họ bị phân chia,
và Chánh Phủ của họ được thành lập qua các cuộc bầu cử có sự kiểm soát từ bên
ngoài. Họ giữ vững những thành phố hùng mạnh và thịnh vượng, kiểm soát 85% dân
chúng, nhưng họ có một tổng kết cũng nặng lắm: 600.000 quân và dân chết trận,
và 1 triệu ngườI tị nạn chánh trị. Và thật sự không thấy giải quyết được gì
hết.
Những ai trong chúng ta người
nào đã từng bị “dính líu” vào cuộc chiến nầy ngay từ đầu cho đến khi tàn cuộc
thì sẽ giữ mãi những ấn tượng sâu sắc về những hình ảnh đau thưong khủng khiếp
mà họ không bao giờ quên :
– Hình ảnh lúc khui những mồ
chôn tập thể ở Huế, sau những cuộc tàn sát ghê rợn hồi Tết Mậu Thân (1968);
– Quang cảnh những đường sá
hoang vắng dưới lằn lửa đạn;
– Những tù binh Cộng Sản nhớn
nhác và đang bị đánh bom mặt mũi và đầu óc như nổ tung ra..;
– Những phi công Mỹ ngơ ngác
tay đưa lên trời bị đưa đi diễu hành quanh thành phố Hà Nội dưới ánh đèn chớp
của các phóng viên báo chí, mắt cụp xuống dưới những tiếng hò reo và những nắm
tay giận dữ của quần chúng ;
– Những xác chết của Việt Cộng
sình lên to tướng vì bị liên thanh điện bắn hạ như những con mồi của thợ săn,
nhưng là con người;
– Những cơn địa chấn tàn phá có
tánh cách hủy diệt của các pháo đài bay B.52, những cái nhìn sợ hãi, ngạc nhiên
và không thể chịu nổi của những trẻ mồ côi….
Những thị trấn xa xôi hẻo lánh
như Pleime, Dak To, Khe Sanh, An Lộc… từng bị bỏ quên trong những cánh rừng đèo
heo hút gió nhất, ở giữa những rừng tre hay vườn cao su bạt ngàn, nằm chơi vơi
giữa các ngọn đồi đất đỏ hoang vu… đột nhiên đã trở thành nổi tiếng trong một
đêm nào đó, và rồi giờ đây lại bị chìm trong quên lãng trong thời điểm mà tất
cả hình như đang đến hồi kết thúc.
Đã có rất nhiều kỷ niệm và luận
cứ hiện ra trong trí tôi. Tôi thực sự đã sống với quá nhiều biến cố, với khá
nhiều trận chiến hay bị vây hảm, từng đi theo quá nhiều võng cáng trên mảnh đất
đầy tang chế và đầy rẫy thây ma nầy. Có lẻ tôi phải viết khoảng 20 quyển sách
để giải thích những gì tôi đã chứng kiến và đã tìm hiểu. Tôi có thể nói về
người Nhật (tôi đã chiến đấu chống Nhật), về các trận chiến ở Hà Nội, Lạng Sơn,
hay ở Huế, về những phụ nữ người Pháp bị hảm hiếp, bị nhục hình hay bị chế dầu
và thiêu sống trên vỉa hè của cư xá Jauréguiberry….. Để làm gì ? Tât cả đều đã
thuộc về dĩ vãng xa xôi quá rồi. Trong lúc đang có nhiều người chết và nhiều
tấn thảm kịch rất gần đây…
Tôi nghĩ đến 3 người bạn của
tôi, ba người chuyên viên quay phim:
– Larry Burrows, một người Anh
trầm tĩnh đến lạnh lùng, thẳng tánh và gan lì, thích chạy như bay đến trước các
trái bom rồi nằm ngửa ra để được nhìn thấy nó rơi xuống và chụp ảnh khi bom nổ.
– Huer, một người Pháp không
bao giờ biết mệt mỏi là gì, bình tĩnh và bướng bỉnh, từng được giải thưởng
Capa.
– Shimamoto, một người Nhật,
mềm dẻo nhưng gân guốc, đa nghi và tự hào như một võ sĩ đạo.
Chiếc trực thăng chở họ bị đâm
vào núi, cháy ở vài trăm thước cách cánh quân mà tôi đang đi theo, trên đất
Lào. Không có một ai đến tìm được họ và xác họ được chôn vùi trong chiếc quan
tài bằng sắt bẹp dúm dưới cành lá sum sê của cánh rừng bát ngát thích ăn thịt
ngườI !.
Tôi nghĩ tới cuộc bắn giết ở Mỹ
Lai với những bức ảnh ghê rợn của nó : 40 phụ nữ và trẻ em bị hành quyết, thân
xác đầy vết đạn nằm ngổn ngang chết chung với nhau. Hoa Kỳ đã cho thụ lý hồ sơ
và truy tố ra tòa án binh trung úy Calley, một sĩ quan xấu xí tráng vồ và ngoan
cố.
Nhưng có ai bị khởi tố về một
vụ tàn sát tập thể cả một làng người Thượng ở Dakson đâu ? Tôi đã đi xuyên qua
làng nầy, một tiểu đoàn Việt Cộng đã tàn sát và tàn phá cả một ngôi làng bởi vì
dân chúng trong làng nầy không ai chịu theo Cộng Sản, chân tôi bước đi qua
những đống tro tàn còn ấm, ngập đến tận mắt cá, tro của các nhà tranh mà Cộng
Sản đã đốt sạch bằng súng phun lửa của họ. 250 thi hài của đồng bào Thượng nằm
rải rác khắp mọi nơi trên mặt đất, còn âm ỉ cháy nóng, trong đó có 103 trẻ em.
Thật là một cảnh tượng ghê rợn, tàn ác, không thể chịu nổi, cảnh các tử thi
sình lên rồi bị nướng phồng lên dưới ánh nắng mặt trời, tương tự như những con
heo quay có đầu người.
Có những ai trong chúng ta lúc
có mặt ở quanh vĩ tuyến 17 vào mùa xuân năm 1972, mà có thể loại bỏ được khỏi
trí nhớ những hình ảnh của cơn ác mộng trên con lộ Quảng Trị ? Pháo binh của
Cộng Sản Bắc Việt đã tập trung hỏa lực vào hàng hàng lớp lớp người dân tị nạn
đang chạy loạn về Huế : những trái đạn đã cày lên đám đông dân chúng kinh hoàng
rất có phương pháp, đánh nát và lật qua lật lại các sọ người và các thi thể đàn
bà và trẻ con, như các cục đất vậy. Đã có đến 20.000 người chết trên một khoảng
đường tráng nhựa chỉ dài có 40 cây số ngàn: mặt đuờng không còn màu đen của
nhựa nữa mà được trét lên một lớp máu đỏ đã đen sạm vì máu đã khô lại…. (chú thích của người dịch: đó là đoạn Quốc Lộ
1 được mang tên là: Đại Lộ Kinh Hoàng)
Từ Đèo Chuối, tôi đi lần xuống
một làng lớn ở Gia Kiệm. Ở đây dân tị nạn người Bắc đang rong chơi ngoài đường.
Trong một quán cà phê nhỏ, ngồi bên tô phở nóng, những người thợ rừng đang vừa
ăn vừa nghe xướng ngôn viên của đài Tiếng Nói Hoa Kỳ ca tụng sự “ngừng bắn” với
một niềm vui lây của một bình luận gia trận đấu bóng chày.
Tại Tân Sơn Nhứt, các phi công
trực thăng và phi cơ săn giặc Phantoms trong bộ đồ bay kỵ lửa, vứt cao các mũ
lên trời, vui vẻ vỗ lưng nhau, chuyền tay nhau một chai cognac và cứ thế uống
cạn hết chai vừa cười vừa hét vang : “hết
rồi, anh em ơi ! chúng ta sẽ được về nhà rồi “
Ngay tại Sài Gòn khi đồng hồ
vừa gõ 8 tiếng, tất cả moi hoạt động đều ngừng lại, lưu thông dừng hẳn lại, mọi
người đứng yên lặng trong khi các binh sĩ đứng nghiêm, Miền Nam Việt Nam dành
một phút mặc niệm cho một số lớn chiến sĩ đã bỏ mình trong chiến cuộc. Sau phút
mặc niệm, các chuông nhà thờ đổ liên hồi trên khắp thủ đô Miền Nam Việt Nam.
Cùng một lúc đó có tiếng vọng xa xăm của sự biểu lộ ồn ào nầy, các thành phố
lớn của Hoa Kỳ cũng đã sống trong những phát súng mừng ròn rã, và theo một bản
tin của thông tấn xã Tass thì Hà Nội mừng rỡ treo cờ trong một bầu không khí
hoan lạc. Và Tổng Thống Nixon trong một thông điệp gởi cho quốc dân đã mở đầu
bằng những chữ nói lên dư luận chung của tất cả mọi người có thiện chí : Một kỷ nguyên hòa bình mới đang bắt
đầu cho nhân loại “
Một người thợ rừng bước đến gần
chiếc máy truyền thanh, đặt trên một cái kệ, vừa đưa tay vặn tắt chiếc máy vừa
lầm bầm khó chịu :
” Ông Nixon cứ đến đây rồi hẳn
nói ! Con đường từ Sài Gòn lên đây đã bị cắt đứt gần ba chục cây số, và có trên
mười xe vận tải đã bị giật mìn. ”
Tôi phải chờ 48 tiếng đồng hồ
mới về đến được thủ đô Sài Gòn của Miền Nam Việt Nam. Quốc lộ đã được mở lại
sau nhiều trận đánh nhau ác liệt, dọc theo đường còn rải rác tử thi và xác xe
cháy mà xe ủi đang dọn dẹp.
Ở Sài Gòn hàng trăm phụ nữ trầm
lặng và nghiêm trang tay bưng lễ vật như một đám rước đi vào chùa Vĩnh Nghiêm
đầy hoa và cờ xí ở ngay trung tâm thành phố. Trong nhà thờ Chánh Tòa tường gạch
đỏ thẳm, hàng ngàn tín đồ công giáo chen chúc nhau quỳ dự thánh lễ lớn.
Các Phật tử và tín đồ Công giáo
theo lời kêu gọi của các Sư và các Cha sở của mình, đã tổ chức một ngày cầu
nguyện cho hòa bình, mà theo bản văn của lời kêu gọi là một “nền hòa bình không phải của Nga
Sô Viết, cũng không phải của Trung Cộng hay của Hoa Kỳ mà là một nền hòa bình
của Việt Nam. một nền hòa bình cho những người tự do, công bằng và trong tình
anh em, hòa giải giữa dân tộc với nhau, vừa tìm lại được trên đất nước của minh
”
Trước thềm năm mới (âm lịch),
một năm Sửu thuận lợi, đó là một lời chúc tốt đẹp nhất…. Nhưng than ôi, những
lời chúc tụng luôn luôn không bao giờ được thỏa mãn. Các trận đánh xảy ra gần
như khắp mọi nơi. Tại Tây Ninh, thánh địa của đạo Cao Đài, sau 30 giờ tấn kích,
một trung đoàn quân Bắc Việt đã rút lui để lại 300 xác chết ở vùng ngoại ô của
thị xã. Tại Sa Huỳnh, một hải cảng đánh cá nhỏ dưới chân dãy Trường Sơn, có sự
đụng độ ác liệt của hai sư đoàn Miền Nam Việt Nam; tại đồng bằng sông Cửu Long,
ở ven Đồng Tháp Mười và ở rừng U minh; trên Cao Nguyên Trung Phần, chung quanh
đồn Ben Het của Biệt Động Quân ;
Ba trăm ba mươi bốn (334) trận
tấn công của Cộng Sản vào lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam được ghi nhận ngay
trong 2 ngày sau khi Hiệp Định Ngừng Bắn Paris ngày 27/1/ 1973 được chính thức
công bố….
Nền hòa bình ở Việt Nam vẫn chỉ
còn là một ảo vọng!
CHƯƠNG 2
HÀ NỘI ĐÁNH PHÁ UY TÍN CỦA SÀI GÒN
– “Là một người Việt Nam, tôi đã có
biết qua cách xử sự của ông Henry Kissinger trước họ rồi, nên tôi nói chuyện đó
cho cả người Do Thái và người Ai Cập biết là: “Hãy coi chừng phương pháp của
ông ta, nguy hiểm lắm, nó không giải quyết được bài toán nào hết mà nó chỉ có
né tránh vấn đề thôi”.
Chúng
ta đang ở vào tháng hai năm 1975. Sự cảnh cáo nầy đáng được lưu ý lắm – vì đó
là lời nói của ông Thiệu – một người không thiếu kinh nghiệm chút nào: năm
1972, ông đụng nhẹ với một ông Kissinger đang nóng lòng muốn chấm dứt cuợc
chiến ở Đông Dương. Nhận xét của ông Thiệu thấy có vẻ hơi nghiêm khắc, và một
phần vì mối hận của một nguyên thủ quốc gia đang bị gài vào quá nhiều khó khăn
to lớn.
Nhưng
sau hai năm thi hành “Ngừng Bắn’’ vẫn không còn một ảo tưởng nào nữa ! Trên lý
thuyết, cuộc chiến lẽ ra phải được chấm dứt sau khi Hiệp Định Paris tháng giêng
năm 1973 được ký kết, nhưng chiến cuộc không bao giờ chấm dứt. Nó vẫn được tiếp
tục và thường xuyên gây ra hằng trăm người chết mỗi ngày, và trong hai năm liền
như vậy phải có hơn 150.000 nạn nhân. Và chiến cuộc nầy không nghiêng phần
thắng lợi chút nào về phía các đồng minh của Hoa Kỳ. Ở Cam Bốt, Khmer Đỏ chận
sông Cửu Long, cắt đứt đường lưu thông không cho các đoàn ghe tàu tiếp tế cho
thủ đô Phnom Penh, đang bị bao vây và bị bắn hỏa tiễn vào hằng ngày. Thủ đô nây
vẫn còn sống được là nhờ một cây cầu Không Vận của Không Lực Hoa Kỳ.
Ở
Miền Nam Việt Nam, lần đầu tiên cán cân quân sự nghiêng về phía Cộng Sản. Một
nhà ngoại giao Nam Hàn làm việc tại Sài Gòn đã nói lên một cách tức giận:
“Nền hòa bình trong danh dự của ông Nixon hả ? – Nó chỉ là một sự
gian lận dị thường của thế kỷ mà thôi !’’
Thật
vậy, đến ngày nay hình như sau bốn năm và mười tháng thương thuyết hết sức vất
vả và chán chường, Hiệp Định Paris chỉ là một sự mua bán hớ, hớ quá lớn mà
thôi.
Nhưng
ai mới thật sự có trách nhiệm về sự phá sản của Hiệp Định nầy ? Hoa Thịnh Đốn
hay Hà Nội ?
Muốn
đánh giá trách nhiệm của Hoa Kỳ và của Bắc Việt, thì phải trở lùi lại một ít về
dĩ vãng, và trước hết phải thử tìm hiểu xem tại sao và bằng cách nào mà hai đối
thủ đó đi đến chỗ phải ký vào Hiệp Định Paris.
Vào
cuối tháng ba năm 1972, Hà Nội tung ra một cuộc tấn công dữ dội vào Miền Nam
Việt Nam bằng các sư đoàn thiện chiến của họ với sự yễm trợ của một lực lượng
pháo binh phi thường và 700 chiến xa với gần 3000 bộ đội xe tăng vừa được huấn
luyện xong 5 tháng thực tập ở trường Thiết Giáp Odessa bên Liên Xô. Sau vài
thất bại liên tiếp ở địa phương lúc bắt đầu cuộc chạm trán, và mặc dầu có những
sự tiên đoán bi quan nhất, Quân Lực Miền Nam vẫn không bị sụp đổ. Họ vẫn giữ
vững phần lãnh thổ của họ một cách đáng khen. Khả năng tác chiến của họ được
củng cố rất vững mạnh. Trong vòng 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 7) 84.000 tân
binh đã hoàn tất thời gian thụ huấn và đã kịp thời bổ sung đầy đủ cho các đơn
vị bị tổn thất. Sài Gòn thu nhận quá nhiều tân binh tình nguyện cho các đơn vị
tinh nhuệ – Hải Quân, Nhảy Dù và Biệt Động Quân- đến đỗi Chánh Phủ phải cho
ngưng phần trưng binh. Hoa Kỳ đã cung cấp một hỏa lực yễm trợ rất hùng hậu. Được
gởi đến từ Hoa Kỳ để xung vào trận chiến có các đơn vị chuyên viên Mỹ trang bị
hỏa tiễn chống tăng TOWS và các trực thăng võ trang “Cobra’’ sát thủ rất đáng
sợ của chiến xa địch. Không Lực Hoa Kỳ sử dụng các loại “bom tinh khôn’’ được
hướng dẫn bằng “laser’’ hoặc bằng một hệ thống máy ảnh truyền hình được gắn
thẳng vào đầu bom, nên đã đem lại một sự can thiệp hết sức chính xác và thật
hữu hiệu hơn bao giờ hết.
Ngày
8 tháng 5, TT Nixon đã cho thả mìn phong tỏa tất cả các hải cảng Bắc Việt. Từ
ngày 18 đến 29 tháng 12, Không Quân Chiến Lược Hoa Kỳ dội bom Hà Nội và Hải
Phòng. Đến ngày thứ 9 của chiến dịch không tập ngắn ngủi nhưng rất dữ dội nầy,
tất cả hệ thống phòng không Bắc Việt đều bị sụp đổ. Tất cả các vị trí “ra-đa’’
đều bị triệt tiêu, các sự liên lạc vô tuyến điện thoại hoàn toàn bị rối loạn.
Mọi sự cố gắng để bổ sung hay thay thế 1.200 hoả tiễn SAM được bắn đi trong
vòng 8 ngày qua trên thực tế đều được coi như không thể thực hiện được vì số
hoả tiễn dự trữ đã cạn mà các hải cảng thì đã bị khóa chặt. Đến đỗi trong hai
ngày chót của cuộc không tập, không có một B.52 nào bị bắn hạ. Và giả sử như
cuộc không tập không được chấm dứt ngày 29 tháng 12 thì gần như có thể các pháo
đài bay của Hoa Kỳ đã san bằng Miền Bắc và có thể Bắc Việt bị hành tội thế nào
cũng được.
Một
chi tiết rất có ý nghĩa: trong suốt thời gian Hoa Kỳ leo thang trừng phạt Hà
Nội, về phía Mạc Tư Khoa không nghe thấy có một lời chỉ trích hay một tiếng
phản đối nào !
Trên
trận địa, sự tấn công của Bắc Việt bị bẻ gãy. Trong 40 tỉnh thị của Miền Nam
không có một nơi nào bị Cộng Sản Bắc Việt chiếm giữ được, trừ tỉnh Quảng Trị,
mà các đơn vị nhảy dù của Miền Nam đã tái chiếm lại sau 6 tuần lễ tác chiến đẫm
máu.
Vào
lúc mà TT Nixon cho ngưng cuộc không tập ở Bắc Việt, không có một ai còn có thể
nghi ngờ về thế thượng phong của Hoa Kỳ trên bàn hội nghị.
Nhưng
trên thực tế, sự phản đối của dư luận ở Hoa Kỳ càng ngày càng tăng, và áp lực
của Quốc Hội Hoa Kỳ đã buộc ông Nixon phải cho ngưng ngay hành động của Không
Quân chiến lược, và vì thế mà ông Nixon không khai thác được lợi thế của ông ta
trên bàn hội nghị. Do đó ông không thể có được một sự nhượng bộ nào của phía
Bắc Việt để có thể thực sự chấm dứt được chiến cuộc. Đó là: Bắc Việt phải rút
hết quân số các sư đoàn Bắc Việt đã xâm nhập và đang trú đóng ở Miền Nam.
Sự
thực là hầu hết người Mỹ bị ảnh hưởng vì các chiến dịch có hệ thống của báo
chí; dân chúng Mỹ bị xúc động vì các cuộc biểu tình liên tục của các phong trào
phản chiến đòi hòa bình; Họ quá mệt mỏi vì chiến cuộc kéo dài quá lâu mà không
chấm dứt: họ lo âu vì không thấy được viễn ảnh của hòa bình, một nền hòa bình
“công bằng và lâu bền’’. Cho nên họ đều mong muốn Hoa Kỳ nhanh chân rút ra khỏi
“vũng lầy Việt Nam’’, đem các phi công tù binh ở Bắc Việt và tất cả binh sĩ Hoa
Kỳ “còn lại ở Miền Nam’’ về nhà cho họ.
Hà
Nội thấy rõ chuyện đó. Không cần đi sâu vào vấn đề, chỉ với một lời “hứa
suông’’ là chấm dứt chiến tranh, và đoan chắc là các tù binh Mỹ sẽ được hồi
hương, là bảo đảm Chánh Trị Bộ Cộng Sản Bắc Việt đã nhận được mọi sự nhượng bộ
tối đa của Kissenger rồi.
Việc
ký kết Hiệp Định Paris đã bảo đảm cho Bắc Việt một loạt lợi thế quan trọng.
Thật vậy, Hà Nội đã đạt được :
(1)
-một sự nghỉ ngơi tức thời, giúp cho Bắc Việt sửa chữa mọi thiệt hại lớn lao mà
Không Lực Hoa Kỳ đã gây ra cho toàn bộ hệ thống giao thông và phân phối trong
nội địa.
(2)
– mở lại được các hải cảng, vì tất cả các ngỏ vào đều đã bị gài mìn từ 8 tháng
nay, và do cuộc phong tỏa của Hạm Đội 7 mà mọi tàu bè thuộc khối Cộng Sản quốc
tế đã bị ngăn cản không vào được hải phận Bắc Việt (chú thích của tác giả: Hà Nội nhập cảng mỗi
năm 1 triệu tấn ngũ cốc từ các nước thuộc khối Cộng Sản quốc tế, không kể thực
phẩm khô cho cả quân đội nhân dân)
(3)
-tất cả các lực lượng Hoa Kỳ đang ở Miền Nam Việt Nam phải rời khỏi nơi đây
trong vòng sáu mươi (60) ngày và phải mang theo tất cả mọi chiến cụ.
(4)
Ngoài ra, Hà Nội còn tự thấy mình được nhận thêm một phần thưởng, nhờ ở sự công
nhận những “lõm da beo’’ rất quý báu, những lãnh địa thực sự nằm trong lãnh thổ
Miền Nam nhưng không thuộc quyền kiểm soát của Miền Nam Việt Nam, bao nhiêu
“lõm” là bao nhiêu căn cứ xuất phát cho hành động quân sự của các đơn vị Bắc
Việt trong tương lai.
Trong
khi đó, Chánh Phủ Sài Gòn (VNCH) không được phép đòi hỏi một điều gì cả. Chánh
Phủ nầy chỉ còn biết có một việc phản kháng trong mỗi cơ hội về sự duy trì bất
hợp pháp của một “lực lượng xâm lăng Cộng Sản 170.000 người ở Miền Nam Việt Nam
”
Hoa
Kỳ, thỏa mãn vì cuối cùng được nắm trong tay bản văn Hiệp Định về hòa bình “của
mình’’, (nguyên văn của tác giả:
“son’’accord de paix), rất lấy làm thích thú về sự khéo léo của ông Kissinger. Một bản
Hiệp Định dù là xấu vẫn còn hơn là không có một bản Hiệp Định nào ?(nhưng thật sự là một bản
dịchko thiếu một dấu phẩy, từ bản văn tiếng Việt mà tác giả là Cộng Sản Bắc
Việt: chú thích của người dịch)
Cảm
giác khoan khoái mang đến do sự ký kết “Hiệp Định Ngừng Bắn’’ và sự trở về như
trong chiến thắng của các phi công tù binh, được hoan hô, được choàng vòng hoa
và tặng quà…, lên cao đến độ nếu có ai đó liều lĩnh nói lên một sự dè dặt tối
thiểu nào, đều sẽ thấy mọi người coi mình như một “thằng chống Cộng điên
khùng’’.
Thế
nhưng chỉ cần nhắc lại là “Hiệp
Định năm 1962 về vấn đề trung lập hóa nước Lào’’, đối với Bắc Việt không
có một lý do nào khác và không có một kết quả thực dụng nào khác ngoài việc bảo
đảm cho họ được sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh, mà nếu không có con đường nầy
thì Bắc Việt không bao giờ xâm nhập hoàn toàn tự do được các quân binh chủng
của họ vào Miền Nam, để hỗ trợ cho các cuộc tấn công của bộ đội chánh quy Bắc
Việt vào Miền Nam Việt Nam.
Tại
Sài Gòn bài toán về quân số của việc ngừng bắn đã được đặt ra. “Ủy Ban Quốc Tế
Kiểm Soát Ngừng Bắn’’ được thành lập cho nhiệm vụ nầy có một quân số là 1.160
người thuộc 4 quốc gia : Hung gia Lợi, Ba Lan, Gia Nã Đại và Nam Dương. Với một
quân số it ỏi như thế, trên một lãnh thổ rộng bao la với những khó khăn về địa
thế mà Ủy Ban phải quan sát, tất cả đều hạn chế tối đa khả năng điều tra của Ủy
Ban nầy rất nhiều.
Vào
năm 1954, trong lúc các cuộc thương thuyết dẫn đến sự ký kết Hiệp Định Genève,
phái đoàn Cộng Sản Việt Nam đã đòi hỏi phải giữ lại các đơn vị “du kích quân’’
được đóng quân ở Miền Nam trong những nơi mà họ gọi là “khu giải phóng’’. Một cuộc
nghiên cứu trong lúc đó do các chuyên viên quân sự Pháp đã ước tính quân số của
Ủy Hội Quốc Tế cần thiết để kiểm soát các khu đó phải lên đến 70.000 (!) dĩ
nhiên còn nhỏ hơn vào năm 1973. Lúc bấy giờ đứng trước một sự khó khăn quá phức
tạp như thế, ông Mendès France đã khôn khéo chọn giải pháp chia đôi nước Việt
Nam. Và quân đội Pháp đã đưa (“tập kết’’) hết ra Miền Bắc các cán bộ và những
đơn vị Cộng Sản đã hoạt động trong 9 năm ở Miền Nam.
Vào
năm 1973, chẳng những các thành viên quốc tế đã quá ít mà Ủy Ban Quốc Tế Kiểm
Soát Ngừng Bắn còn phải theo nguyên tắc “đồng thuận’’ của Cộng Sản nữa. Do đó,
trên thực tế điều nầy đã làm cho Ủy Ban không làm được việc gì cả. Những sáng
kiến của hai phái đoàn Gia Nã Đại và Nam Dương có thể bị phái đoàn Ba Lan và Hung
Gia Lợi ngăn cản bất cứ lúc nào. Không có một cuộc điều tra nào được tiến hành
riêng lẻ, do những thành viên của một phái đoàn duy nhất nào đó đơn phương tiến
hành.. Có một số thành viên thuộc phái đoàn Gia nã Đại đã liều lĩnh đi vào khu
vực Cộng Sản sau một biến cố nào đó, đã bị bắt ngay lập tức, nhốt, và đối xử
như những tù binh thường trong nhiều ngày.
Từ
đầu tháng 3, Cộng Sản đã cho xâm nhập chiến cụ nặng và nhiều chục ngàn người
vào các vùng thuộc quyền kiểm soát của họ ở Miền Nam Việt Nam. Đây quả là một
sự vi phạm trắng trợn nếu không muốn nói là quá rõ ràng và công khai Hiệp Định
Paris về Ngừng Bắn 1973.
Ngày
15 tháng 3, TT Nixon trong một buổi họp báo đã tuyên bố : “chúng tôi đã nói
cho Bắc Việt biết rằng chúng tôi rất đỗi quan tâm về những cuộc xâm nhập quan
trọng như vậy, cũng như về các hành động vi phạm lệnh ngừng bắn mà Bắc Việt đã
ký kết.. Bắc Việt không nên xem thường loại quan tâm nầy của chúng tôi.’’.
Một
tháng sau đó, ông Nixon chuẩn bị tái oanh tạc Miền Bắc nhưng ông cho ngưng ngay
lệnh đó đúng vào cái ngày mà John Dean ra làm chứng trước tiểu ban điều tra của
Quốc Hội về vụ việc Watergate.
Tại
Việt Nam, Cộng Sản với quyết tâm ngăn cản mọi công tác kiển soát trong những
vùng mà họ đang xâm nhập và chiếm giữ bất hợp pháp, đã không ngần ngại bất chấp
nguy hiểm đã tổ chức bắn hạ các trực thăng của Ủy Ban Quốc Tế bay đúng tầm của
hoả tiễn với lý do là các trực thăng đó đã “vi phạm vùng trời” (danh từ của
Cộng Sản) của họ. (đáng kể nhất là những ngày 1, 7 và 9 tháng 4/73 và ngày
7/5/1973). Sau đó họ còn nã bích kích pháo và bắn rốc-kết vào các thị trấn nào
(trong những vùng yếu điểm của họ) đã có hay có dự trù cho các toán Kiểm Soát
Ngừng Bắn trú đóng, như Lao Bảo, Vị Thanh, Đức Cơ, Xa Mát, Ben Hét, Tri Tôn.
Các toán Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn đã phải rút đi (hai toán Hung Gia Lợi và
Ba Lan bỏ đi trước nhất), trực thăng của Ủy Ban Quốc Tế vẫn còn đậu tại bãi
đáp. Toán Gia Nã Đại ngao ngán quá cũng phải rút đi vô điều kiện. Và Ủy Ban
Quốc Tế Kiểm Soát Ngừng Bắn coi như vô hiệu, chẳng làm được gì !
Lúc
bấy giờ Bắc Việt mới áp dụng chánh sách chuyển dân vào ở đầy các khu vực vắng
người vừa rơi vào sự kiểm soát của họ. Như vậy là Bắc Việt đã theo đúng chiến
thuật “đồn điền’’ hay là di dân chìếm đất do những người Bắc đã áp dụng trong
thế kỷ XV để xâm chiếm và chế ngự nước Chàm. Chiến thuật nầy gồm có việc cho
xâm nhập vào đất địch từng nhóm dân-quân nhỏ để chiếm đất và làm quen với vùng
đó. Nếu người chủ đất có đòi tài sản của họ thì người chìếm đất vừa đánh vừa
kêu cứu với bộ đội Bắc Việt. Nếu mọi việc êm xuôi hay các khó khăn được giải
quyết xong thì một toán khác lại được đưa tới xa hơn chút nữa. Tất cả các toán
xâm chiếm đất đai nầy được nối kết với nhau thành một cấu trúc tỏa rộng ra bắt
rễ từ biên giới. Các toán chiếm đất nầy tiến dần tới giống như các chân bám của
vòi con bạch tuộc khổng lồ. Hà Nội núp sau bình phong chánh trị của cái gọi là
Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam (GRP) đã áp dụng đúng phương pháp cũ của
tổ tiên họ nhằm xâm chiếm và với mục đích chuyển các vùng đất chiếm được của Miền
Nam, của Cam Bốt và của Vương quốc Lào thành đất Bắc Kỳ (nguyên văn của tác giả: Tonkin), cũng như các ” lõm da beo’’
mà họ đã giành được từ sau ngày ngừng bắn.
Hà
Nội cứ tiếp tục bành trướng các sào huyệt không ai nhìn nhận đó, để lúc nào
cũng hợp thức hóa được sự can thiệp của các đơn vị bộ đội Bắc Việt vì đó là
những nơi cung cấp tin tức và yểm trợ tiếp vận rất cần thiết cho sự tiến quân
của họ trong tương lai..
Trên
phuơng diện chánh trị, đối với các quan sát viên không được thông báo trước,
những cộng đồng vừa mới được tạo dựng nầy sẽ giúp cho Bắc Việt trình diễn về số
dân chúng đối lập “thực sự’’ của chế độ Sài Gòn. Nếu có bầu cử thì những cộng
đồng nầy sẽ bảo đảm biết bao nhiêu là phiếu đối lập. Được tập trung dính liền
với nhau và chặt chẽ bảo vệ dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh, những “đồn điền”
nầy thật sự là một vùng bàn đạp được cắm sâu vào giữa miền Nam Đông Dương để từ
đó các cấu trúc được mở rộng thêm ra.
Lần
lần, nhờ các cuộc chuyển dân và đóng các chốt quân sự, các đại đơn vị Cộng Sản
mới trú đóng được khắp các xóm làng. Đường sá và ruộng đồng được mở rộng thêm
ra. Nền hành chánh được thiết lập sau đó. Các cán binh của Hà Nội ngụy trang
thành dân chúng, được thúc đẩy lập gia đình tại chỗ với các thiếu nữ Miền Nam.
Trong hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, cũng như ở Cam Bốt, thì hình như Cộng
Sản thành công trong kế hoạch nầy. Trong những vùng ít dân cư thì bộ đội được
tái hôn với những thiếu nữ người Bắc được chuyển vào Nam theo kế hoạch nầy
(khoảng 10.000). Đôi lúc thì tự nguyện nhưng thường thì bị ép buộc, (đặc biệt
là các nữ y tá, bác sĩ hay giáo viên) những cô gái nầy gốc người Miền Nam nên
chỉ thích lập gia đình với cán binh người Miền Nam hơn. Trên thực tế, những cô
gái Miền Bắc thường lập gia đình với các chàng trai Miền Bắc vì những chàng
trai nầy thuộc số đông, và đã có với họ những mối tương quan về ngôn ngữ, phong
tục tập quán, và ăn uống. Một vài phần tử gọi là “cách mạng’’ người Nam còn
được ở trong những vùng mới chiếm giữ đều đã quá tuổi 40. Một số người già từng
được sử dụng trong bí mật, thường là độc thân, được giao cho trách nhiệm phụ và
họ không sống chung đụng với người Miền Bắc. Sự chiếm hữu đất đai của Miền Nam
cũng được tiến hành bằng cách chuyển nguyên các làng từ Miền Bắc vào. Những
người Việt Nam định cư ở Lào và Cam Bốt từ nhiều thế hệ trước đã bị dời vào
Miền Nam hoặc bị tập trung vào ở với những thương binh mà Cộng Sản Bắc Việt
không thể di tản được và những tù binh chiến tranh già yếu được Chánh Phủ Sài
Gòn phóng thích, để lập thành những vùng đông dân cư mới, có thể được nâng lên
thành “quận lỵ’’. Kế hoạch di dân bắt buộc nầy, sự thành công của hành động xâm
chiếm ồ ạt và lặng lẽ nầy, đã liên hệ trực tiếp đến sự vô hiệu hóa các cơ cấu
kiểm soát ngừng bắn. Điều này giải thích rõ ràng cách thức mà Bắc Việt đã nhanh
chóng và tàn bạo sử dụng để làm cho những thành viên quá tò mò của Ủy Ban Quốc
Tế phải đứng xa ra khỏi vùng ảnh hưởng của họ.
Để
đương đầu với chánh sách táo bạo và gây hấn nầy của Bắc Việt, để bảo đảm thi
hành Hiệp Định Paris, phản ứng của Hoa Kỳ xét ra cũng không có gì lạ hết. Khi
TT Nixon thử xin ngân khoản mới cho Cam Bốt, vào lúc Khmer Đỏ được 2 sư đoàn
Bắc Việt tăng cường đang gây nhiều thiệt hại nặng nề cho phía Chánh Phủ thì
Quốc Hội đã trả lời bằng cách bắt buộc Không Lực Hoa Kỳ phải chấm dứt oanh tạc
vào các vị trí Cộng Sản bắt đầu từ ngày 15 /8/1973.
Vào
tháng 11/1973, cũng Quốc Hội nầy đã bỏ phiếu chấp thuận Nghị Quyết về Quyền Lực
Chiến Tranh, để ngăn cấm Tổng Thống Hoa Kỳ từ nay nếu chưa có sự chấp thuận của
Quốc Hội thì không được phép sử dụng quân lực Hoa Kỳ để phòng thủ bất cứ phần
đất nào của Đông Dương.
Vào
mùa hè năm 1974, Tổng Thống Nixon từ chức vì vụ tai tiếng của Watergate. Lúc đó
các dân biểu và nghị sĩ Quốc Hội mới xem xét kỹ các đơn xin viện trợ do
Kissinger trình lên. Họ thấy quá cao nên họ cắt bớt viện trợ quân sự cho Việt
Nam chỉ còn lại phân nửa.
Nhưng
lúc nầy tình hình quân sự ở Miền Nam rất là trầm trọng. Tướng Cao Văn Viên,
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) rất lo ngại. Tướng
Nguyễn Khắc Bình, Giám đốc Trung Ương Tình Báo đã trình cho ông một bản phúc
trình dài về tình hình dàn quân của các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt ở Miền Nam.
Phúc trình viết :
“Cuộc đe dọa về quân sự của địch đã hết sức là trầm trọng. Trong
khi Hoa Kỳ giảm đến một nửa ngân khoản viện trợ quân sự cho Miền Nam Việt Nam,
thì Liên Xô đã tăng cường gắp đôi phần chiến cụ của họ và phần viện trợ tài
chánh cho Miền Bắc (1 tỷ 700 triệu Mỹ kim cho năm 1974). Bắc Việt đã tiếp tục
cho xâm nhập cán binh và chiến cụ từ Miền Bắc liên tục từ sau ngày ngừng bắn.
Chúng tôi ước tính lên đến 80.000 cán binh, 600 chiến xa, 500 khẩu pháo và 200
khẩu phòng không, tất cả đều vượt vĩ tuyến 17 không qua các cửa khẩu do Hiệp
Định Ngừng Bắn đã ấn định. Ngoài ra, trong số 30.000 tù binh vừa dân sự vừa
quân sự được chúng ta trao trả theo đúng các điều khoản của Hiệp Định, thì hai
phần ba (2/3) được bổ sung vào các đại đơn vị của Bắc Việt đồn trú trong Miền
Nam. Số lượng chiến cụ và sự phân phối cấp phát được tăng thêm gấp bội: các đơn
vị đều có phóng pháo xa 122 ly và hoả tiễn SA 7, 300 khẩu đại pháo 130 và 100
khẩu pháo 152 để tăng cường cho các đơn vị pháo binh tầm xa, và những đơn vị
chiến xa T.54. Quân số Cộng Sản bây giờ đã vượt quá mức quân số của họ trước
cuộc tấn công năm 1972; 310.000 người trong đó có 170.000 cán binh và 60.000
cán bộ chánh trị gốc Miền Bắc. Bản đồ trận liệt của Cộng Sản được tái tổ chức
như sau : 17 sư đoàn bộ binh với quân số đầy đủ đang đóng trong Nam (7 sư đoàn
ở Vùng I từ vĩ tuyến 17 đến Đà Nẵng, 5 sư đoàn ở Vùng II, cao nguyên Trung
phần, 3 sư đoàn ở Vùng III, giữa vùng Mỏ Vẹt tới Sài Gòn, và 2 sư đoàn ở Vùng
IV trong đồng bằng sông Cữu Long và rừng U Minh. Trừ bị thì có 40.000 cán binh
Bắc Việt đóng ở Cam Bốt và 50.000 đóng ở Lào)
Việc ngưng dội bom đã giúp cho Bắc Việt mở rộng và cải thiện tất
cả các đường giao thông cũ của họ từ phía Nam vĩ tuyến 17, đặc biệt là tất cả
các tuyến đường dẫn về phía Đông của đường mòn Hồ Chí Minh.
Tất cả các tuyến đường và lộ trình xâm nhập đêu được củng cố để có
thể sử dụng được suốt 4 mùa. Công tác củng cố đã chẳng những đạt được bề dài mà
cả khả năng lưu lượng của tuyến đường vớị 1500 xe cam nhông mỗi tuần, đã vượt
mức cao nhất cho tới nay. Các đường liên lạc ngang cũng chưa bao giờ được bỏ
qua.
Ống dẫn dầu đặt dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh được tăng lên gấp
đôi và được kéo dài xuyên qua lãnh thổ phía Đông của Cam Bốt đến tận vùng “Mỏ
Vẹt’’, chỉ còn cách Sài Gòn có 80 cây số ngàn.
Cuối cùng 12 phi trường đã được thiết lập ở phía Nam vĩ tuyến 17,
từ sau khi có lệnh ngừng bắn: 6 trong số đó có khả năng nhận những phi cơ
thường và phi trường Khe Sanh được hoả tiễn SAM 2 và SAM 3 bảo vệ mạnh mẽ nhất,
có thể nhận các phi cơ loại nặng và các Mig 21. Các trực thăng vận tải lớn do
Liên Xô chế tạo đã được thấy lên xuống nhiều lần ở các phi trường nầy. Có nhiều
chỉ dấu chính xác cho thấy một cuộc tấn công quân sự quy mô có thể xảy ra bất
cứ lúc nào. Tất cả những sự chuẩn bị đều xem như đã hoàn tất. Những kho dự trữ
và các trạm tiếp vận lương thực đã được đặt xong, các bệnh viện hậu phương đã
được bố trí sẳn sàng. Chiến trường cho mỗi sư đoàn Cộng Sản đã được tổ chức rất
cẩn thận. Các vị trí cho cá nhân, cho từng loại vũ khí, các hầm trú ẩn, các
trạm cứu cấp đã được đào và nghi trang rất cẩn thận, các mốc tác xạ đã được đặt
xong, cự ly xa gần và máy nhắm cũng đã được tính toán xong. Về vấn đề nầy,
chúng tôi xin nói thêm là các đường tiến quân dẫn đến tất cả các thành phố ở
miền Trung và miền Đông của chúng ta có lợi thế cho các đơn vị tấn công Bắc
Việt là nằm trong vùng rừng rậm, và dựa vào vô số đường mòn do máy ủi đất của
những người làm rừng của chúng ta dọn mở ra từ trước. Tất cả các con đường nầy
thường được dùng cho xe vận tải nặng chyên chở gỗ súc, là những con đường tiến
quân rất thuận lợi cho các chiến xa địch. Hệ thống các con đường mòn chằng chịt
nầy đến một lúc nào đó sẽ giúp cho các chiến xa Cộng Sản thọc sâu nhiều mũi dùi
bất ngờ xuất hiện vào tận hầu hết các vòng đai ngoại ô của mọi thành phố.
Sự kiện Hoa Kỳ cắt viện trợ quân sự của chúng ta đã đưa chúng ta
vào một tình thế thua sút rõ rệt. Chúng ta cần phải tiết kiệm đạn dược. Các
quân xa và phi cơ của chúng ta chỉ nhận được có 50% cấp số xăng dầu so với lúc
trước. Thiếu cả cơ phận thay thế, gần 30% Không Lực chúng ta bị bắt buộc phải
nằm ụ tại chỗ.
Bị bắt buộc phải giữ từng tấc đất mà không được dẫm chân vào chiến
tuyến ngừng bắn, binh sĩ của chúng ta phân tán quá mỏng, trong khi Bắc Việt là
kẻ xâm lăng, lại được tự do tập trung lực lượng bất cứ chỗ nào mà họ muốn mà
không lo sợ gì về một cuộc tấn công nào trên lãnh thổ của họ.”
Bắc
Việt đe dọa Miền Nam trên phương diện quân sự kèm theo áp lực về kinh tế lẫn
chánh trị. Từ sau khi ký xong Hiệp Định Ngừng Bắn, nhà cầm quyền Bắc Việt đã
làm đủ mọi cách để bẻ gãy nền kinh tế và tinh thần của dân chúng Miền Nam.
Trước hết là họ vận động nhằm làm nản lòng đầu tư của ngoại quốc. Để làm việc
nầy, họ đã mở ra “chiến dịch thảo luận’’ căn cứ trên 4 đề tài chính:
(1)-
một nguyên tắc về pháp lý: Miền Bắc cuối cùng đã thắng Miền Nam. Sự khẳng định
nầy cứ được lập đi lập lại hoài không mệt mỏi trong hai mươi năm liền cuối cùng
thì đạt được ảnh hưởng.
(2)
– một bằng chứng sai bét về pháp lý kèm theo một sự đe dọa: ” Hiệp Định Paris
về Ngừng Bắn đã công nhận cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam (GRP)
như là Chánh Phủ hợp pháp duy nhất chính thức của dân tộc Việt Nam, mọi Hiệp
Ước ký kết với Chánh Phủ Sài Gòn đều không có giá trị, và có thể còn bị xem là
một “xúc phạm’’ với nhân dân Việt Nam “
(3)
– duy trì thật sự mối đe dọa quân sự và một không khí mất an ninh. An ninh và
ổn định chánh trị luôn luôn là những yếu tố tốt nhất để thúc đẩy sự đầu tư. Làm
rối loạn trật tự công cộng và an ninh nội địa, cho thấy lúc nào cũng có mối đe
dọa về một cuộc xâm lăng quân sự,…. tất cả đều ảnh hưởng đến doanh nhân, hơn
nữa Âu Châu sống trong thanh bình đã gần 30 năm rồi.
(4)
– Sự đầu độc của báo chí Phương Tây theo luận điệu Cộng Sản, hay có lợi cho
luận điệu của Hà Nội lúc nào cũng tiên đoán hay thích thú mô tả “sự sụp đổ hiển
nhiên và không thể tránh được” của nền kinh tế Miền Nam Việt Nam
Lập
luận cứ thế được mở rộng ra: kinh tế thì không có giá trị, chánh trị thì bấp
bênh, pháp lý thì bất bình thường và theo cái nhìn lịch sử và trong tương lai
thì sẽ thất bại.
Sự
tuyên truyền thâm hiểm nầy hướng về thế giới bên ngoài lại được mở rộng gấp đôi
ngay trong nước bằng một loạt hành động trực tiếp nhằm gây xáo trộn và làm sụp
đổ sự phát triển kinh tế của Miền Nam Việt Nam.
Bắn
phá và tấn công đồn bót. Dùng pháo binh bắn phá, phục kích các đoàn xe. Từ một
năm nay, trung bình hằng tháng, các vụ ám sát tăng từ 22 lên 48, các vụ bắt cóc
từ 50 lên 120, các cuộc tấn công từ 200 tăng đến 320. Cộng Sản cũng tìm cách
làm giảm giá trị đồng tiền của Miền Nam Việt Nam, mức tiết kiệm của người dân
bị rút xuống vì sưu cao thuế nặng của Việt Cộng và tiền chuộc nữa. (Thuế tài
sản và thuế lợi tức, thuế chuyên chở, tù binh muốn được thả cũng phải đóng tiền
: 100.000 cho một binh nhì.)
Hà
Nội nuôi các thành phần xâm nhập bằng cách cho lưu hành tiền giả cùng với chánh
sách mua bán phá giá. Cộng Sản mua gom gạo ở các chợ của Chánh Phủ VNCH với giá
rất cao rồi đưa về tích trữ trong vùng của họ, gây ra một sự thiêu hụt và lạm
phát. Đến khi các hợp tác xã dưới quyền kiểm soát của họ bán gạo ra, thì họ bán
với một giá rất thấp so vơi giá bình thường. Có đôi khi số gạo của hợp tác xã
là gạo của Cộng Sản cướp giựt của dân chúng từ Cam Bốt.
Bây
giờ thì Chánh Phủ Miền Nam đang trải qua một thời kỳ nguy kịch. Với ngân sách
quân sự và kinh tế của thời bình, Chánh Phủ phải đương đầu với những chi phí
của thời chiến. Và còn có gần 1 triệu dân tản cư lánh nạn đang chờ được giúp đở
từ năm 1972.
Hành
động giảm viện trợ bất thần từ phía Hoa Kỳ đã kềm hảm tức khắc mọi khuếch
trương. Vật giá leo thang đến một nhịp độ tăng nhanh không thể nói được. Từ
tháng giêng năm 1973, đồng bạc bị phá giá đến 8 lần. Không khí chánh trị và xã
hội rất nặng nề. Một cuộc khủng khoảng trầm trọng do các lãnh tụ đối lập gây ra
trong mấy tháng nay đã làm lung lay Chánh Phủ trong lúc Chánh Phủ đang cố gắng
lo đối đầu với những chỉ trích từ mọi phía.
Mọi
việc đã bắt đầu từ tháng 5 1974, với một bản cáo trạng chống tham nhũng của Cha
Thanh, một Linh Mục thuộc dòng Chúa Cứu Thế, đại diện cho một giáo khu nghèo
nhất vùng ngoại ô Sài Gòn. Bản cáo trạng sau đó lại được sự ủng hộ của 301 tu
sĩ công giáo, nhằm tố cáo Chánh Phủ trong vấn đề buôn lậu và hối mại quyền thế
của một vài tướng lãnh và tỉnh trưởng.
Vấn
đề được đưa ra thảo luận ở Quốc Hội. Cả ThượngViện và Hạ viện bàn cãi rất sôi
nổi và rất hứng thú, nhưng cuối cùng thì ngòi nổ cũng được tháo gở một cách
khéo léo và vẫn có lợi cho Chánh Phủ, để lại cho thính giả của cuộc tranh luận
một ấn tượng về sự tự do phát biểu đúng mức.
Tuy
nhiên không vì thế mà có thể dập tắt được hành động của những người chống đối.
Nó được tái phát trở lại, dữ dội hơn, tai tiếng hơn và có phương pháp hơn, và
lần nầy thì mũi dùi chỉa ngay vào Tổng Thống Thiệu, gia đình ông, và các cộng
sự viên thân cận nhất của ông.
Ngày
8 tháng 9, 1974, “Phong Trào Chống Tham Nhũng, Cứu Quốc và Kiến Tạo Hòa Bình’’
cho lưu hành một bản “cáo trạng số 1’’, cáo trạng đầu tiên của một loạt 3 cáo
trạng, phơi bày thực sự ra ánh sáng những sự lạm dụng công quỷ và những lợi tức
bất hợp pháp.
Các
tác giả của bản cáo trạng cho rằng sự tố cáo nầy dựa trên những chứng tích
không thể chối bỏ được gồm có 6 điểm:
(1)
– Tậu quá nhiều bất động sản : mua một biệt thự của hãng Shell cho con trai giá
là 40 triệu đồng, mua cho vợ một cơ sở thương mại cũ của Công Ty Đất Đỏ, 90
triệu đồng, và một nhà ở Thụy Sĩ.
(2)
– Lợi dụng chiếm đất: Tổng Thống Thiệu sẽ làm chủ một miếng đất 3 mẫu ở Dalat,
một miếng đất nữa gần Giá Rai, trên Quốc lộ 1, và khai thác ở Long Khánh nhiều
trăm mẫu nữa;
(3)
-Dùng công quỷ giao cho công ty Hải Long tích trử phân bón, giám đốc công ty
nầy là ông Nguyễn Xuân Huyến, anh em bạn rể của Tổng Thống Thiệu.
(4)
-Vấn đề “Bệnh viện Vì Dân’’ do bà Thiệu và “Hội Phụ Nữ Việt Nam Phục Vụ Xã
hội’’ đứng ra xây cất. Việc xây cất bệnh viện nầy, có 100 phòng miển phí cho
người nghèo là nhờ vào tiền lời của quỷ xổ số quốc gia và tiền bán số hàng do
quan thuế tịch thu trong 4 năm qua. Bà Thiệu bị cáo buộc là đã “chọn lựa bênh
nhân’’ và “điều khiển các bác sĩ’’
(5)
– Buôn bán ma túy: dựa trên cuốn sách của người Mỹ “Những Chánh trị gia của bạch
phiến ở Đông Nam Á’’ mà
tác giả là ông M.W. Mac Coy, bản cáo trạng chỉ đích danh tướng Đặng Văn Quang,
cố vấn đặc biệt của Tổng Thống Thiệu về an ninh phòng thủ, người đích thân điều
hành việc bán ma túy ra nước ngoài với sự đồng lõa của những hệ thống quốc tế
dính với băng Tiều Châu của người Tàu ở Chợ Lớn.
(6)
– Việc bán gạo ở miền Trung: Chánh Phủ tài trợ việc chuyên chở gạo trong vùng
nầy nhằm ổn định nhu cầu của dân chúng, và cũng để giữ giá gạo ở đây không cao
hơn giá gạo tại Sài Gòn. Việc tài trợ nầy lên đến 40 triệu đồng mỗi tháng. Công
chức của Chánh Phủ mua gạo với giá thật thấp và bán ra cho bọn buôn lậu ở địa
phương để chia với họ tiền lời và tiền trợ cấp.. Người khai thác việc chuyên
chở nầy là ông Phạm Sanh, giám đốc ngân hàng Nam Việt, và người chịu trách
nhiệm phân phối gạo là bà Ngô Thị Huyết, dì của Tổng Thống Thiệu.
Đài
phát thanh Hà Nội và báo chí của Chánh Phủ Bắc Việt cũng như sách báo thân Cộng
được Bắc Việt tài trợ ở Ba Lê và Âu Châu đã phổ biến rất rộng rãi bản “cáo
trạng số 1’’ nầy.
Ở
Miền Nam Việt Nam song song với hành động của đối lập, cán bộ Cộng Sản đã tiến
hành phổ biến tràn lan khắp nông thôn dưới hình thức truyền đơn hay các tờ
quảng cáo truyền tay.
Chiến
dịch đánh phá uy tín nầy lúc đầu chỉ nhằm vào các thành phố lớn, lần lần được lan
rộng xuống các tỉnh, là một đòn rất nặng đói với uy tín của Tổng Thống Thiệu
vốn vẫn còn được lòng trong hàng ngũ quân nhân và nông dân.
Một
số sự kiện được nêu lên trong bản cáo trạng cần phải được làm sáng tỏ lại. Cần
có một sự giải thích thật rõ ràng và chính xác mà chỉ có đích thân Tổng Thống
Thiệu mới cung cấp được Những sự kiện khác được nêu lên không được đầy đủ hoặc
không đúng sự thât.
Thí
dụ như việc bán gạo. Nhân vật chính chịu trách nhiệm là ông Phạm Sanh, giám đốc
ngân hàng. Ông đã bị trừng phạt, đã bị câu lưu từ tháng bảy, tài sản bị tịch
thu, các chương mục đều bị phong tỏa, và đang chờ ngày ra Tòa.
Vấn
đề độc quyền phân bón cũng vậy. Chánh Phủ đã có phản ứng kịp thời, bằng cách
cho lịnh bán hết phân bón và tái phân phối cho nông dân với “giá chánh thức’’.
Phía đối lập cho rằng đây là một quyết định đáng khen, nhưng đó chỉ là một nhát
kiếm chém xuống nước mà thôi. Vì những đại lý bán sỉ người Tàu có mặt khắp mọi
giai tần kinh tế trong nước đã thu xếp để mua lại số lớn phân bón đã bán lại đó,
đến lượt họ đem về trữ lại, bảo đảm trước là họ sẽ có một số lời khả quan rồi,
vì thị trường hối đoái ngoại tệ cứ tiếp tục đi lên.
Như
thế thì Tổng Thống Thiệu sẽ phản ứng ra sao đây ? Đối với sự cáo buộc của phe
đối lập, trước hết ông đã trả lời bằng một diễn văn dài trên hệ thống truyền
hình về tình hình chánh trị của đất nước và cuộc chiến đãu cho sự tự do, có đề
cập đến những “lời gièm pha’’ được tung ra về cá nhân ông cho đó chỉ là một
chuyện dàn dựng có ác ý “của Cộng Sản, và của những kẻ hợp tác và đồng lõa với
họ’’ mà thôi.
Nhưng
đối với những sự kiện quá nghiêm trọng như việc buôn bán ma túy của tướng
Quang, vị cố vấn của ông, và chuyện lươn lẹo về đất đai và lợi tức bất chính
được gán cho vợ ông, thì ông lại không có nói một tiếng nào. Quân đội, dân
chúng, người dân ngoài phố đã chờ đợi ở ông một lời bác bỏ những cáo buộc nầy.
Do đó khi mà ông Thiệu tỏ ra quên hẳn và khinh thường không lý tới những chuyện
đó thì ông không thuyết phục được ai hết.
-” Tay của ông đã không được sạch sẽ nữa rồi !’’ đó là lời phê bình có chút miệt thị của một số sĩ quan trẻ đau
khổ và chán chường..
Vậy
ông Thiệu có thể làm được gì để phục hồi uy tín của ông đang bị lung lay trầm
trọng ? Và tháo gở được những cáo buộc của phe đối lập ? Một hành động giống lạ
kỳ những gì đã dẫn đến cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1963, và cái chết của Tổng
Thống Diệm. Nguyên thủ quốc gia người công giáo nầy cũng là một người chống
Cộng tích cực. Nhưng dù là một con người rất thanh liêm và yêu nước trung thực,
ông vẫn bị tấn công và đánh gục bằng một chiến dịch gièm pha vu khống, được tổ
chức hết sức nhịp nhàng, có sự hổ trợ của một phe đối lập công giáo, tố cáo sự
tham nhũng, lợi dụng quyền thế của anh em ông, của cha mẹ ông và của những
người thân cận của ông. Được tiến hành âm thầm bên trong nhưng do bàn tay thiện
nghệ của người Mỹ, chiến dịch đó đã đưa nước Việt Nam vào hỗn loạn và làm cho
cuộc chiến lại tái diễn.
Đến
lượt người kế vị ông, Tổng Thống Thiệu, lại bị cáo buộc lạm dụng quyền thế và
không làm tròn chức năng của mình. Vậy ông ta có bị đe dọa về một sự kết thúc
tương tự hay không ? Một vài nhà phân tách thường hay liên hệ các diễn biến
song song như vậy thì họ sẳn sàng tin. Dù muốn dù không thì tình hình ở Miền
Nam đang sôi sục.
Sài
Gòn với 4 triệu dân, thủ đô chánh trị, hành chánh, kinh tế và quân sự, là nơi
thu gọn tất cả các bài toán của Miền Nam Việt Nam với những mâu thuẫn, những
mưu mô, sự phong phú và sự nghèo nàn của nó.
Một
mặt, đây là một thành phố với những đường phố rộng thênh thang, ngổn ngang đủ
loại xe hơi và xe gắn máy, với những công viên đẹp, với những công thự luôn
được bảo trì rất cẩn thận, với những chợ búa đầy ấp lương thực, với một hải
cảng tối tân có đầy đủ trang thiết bị, với một sân bay quốc tế và với những
đường liên lạc viễn thông tuyệt hảo.
Mặt
khác, với một vòng đai các lều tôle, lều cây, lều ván và giấy bồi, ở đó chen
chúc nhau những người tị nạn nghèo khổ, không một việc làm, những binh sĩ đào
ngũ và hằng ngàn người tàn tật.
Dính
liền với thủ đô Sài Gòn là Chợ Lớn, một thành phố của 800.000 người Tàu, những
chú con trời đã mọc rễ trong nước từ 3 thế kỷ nay, được tổ chức để thu lợi, là
chủ ngân hàng, là trung gian mậu dịch, buôn bán đủ mọi loại kim khí, gỗ, gạo,
tổ chức chuyên chở đường bộ và đường thủy, chuyên đầu cơ tích trử, cho vay, là
nhà tài trợ cho các thú vui và các loại hàng lậu, cho tất cả những gì có thể
mua được và tất cả những gì có thể bán được.
Ở
ngay chính giữa tập hợp Việt Hoa nầy, có Dinh Độc Lập được binh sĩ Dù canh gát
cẩn thận, có lưỡng viện Quốc Hội Thượng Viện và Hạ Viện, Tối Cao Pháp Viện, đài
truyền thanh truyền hình và… một số bao chí phong phú.
Trung
tâm điểm của tất cả là con đường Tự Do (Catinat cũ), với các khách sạn đồ sộ của
nó, với những tiệm buôn tráng lệ, những tiệm nữ trang sáng chói, những quán
rượu và phòng trà để tất cả những người chạy áp phe, các luật sư, những dân
biểu, những người đối lập, những danh kỹ, những mật báo viên và những nhân viên
đặc biệt… có nơi hội họp, trò chuyện, bàn mưu tính kế, mua bán đổi chác, trao
đổi tin tức hay phao đồn “tin vịt’’ và những “đường dây tốt’’….. đến độ có một
dạng tin tức song hành, dựa trên những chuyện ngồi lê đôi mách và những chuyện
dèm pha có chủ ý, nhằm xuyên tạc hay đi ngược lại với các thông cáo của chánh
quyền thường được gọi với một danh xưng không mấy tốt là “ra-đi-ô Catinat’’.
Cái
gọi là “ra-đi-ô Catinat’’ nầy, thường mớm cho các bài báo của hàng trăm ký giả
suốt trong thời kỳ 8 năm Hoa Kỳ tham chiến ở đây, đã phần nào xuống cấp, không
còn thích hợp nữa từ ngày ra đi của các thông tín viên ngoại quốc.
Bây
giờ cái ra-đi-ô nầy lại sống trở lại những giờ phút huy hoàng của nó.
Phía
đối lập, bất ngờ về sự táo bạo và sự tự do trong phát biểu của mình sau khi
tung ra chiến dịch đánh phá Tổng Thống Thiệu vừa rồi, đã chuyển động, tự thấy
phấn khởi và tưởng mình sắp đạt được chánh quyên bởi vì họ đã tố cáo được những
yếu điểm và những sự lạm quyền của Tổng Thống mà không bị một trừng phạt nào
hết.
Trong
những cuộc họp mật và những vận động ngoài hành lang, phe đối lập đã chọn lựa
và đưa lên những lý luận, liên kết với nhau, phân phối các chức vụ trong Chánh
Phủ.
Các
chỉ trích càng ngày càng nhiều. Báo chí phản ảnh “tin tức chính xác’’ và thật
khó mà phân tách được đó là giả hay thật : Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi – cháu của
Tổng Thống Thiệu – đang là Tư Lệnh Vùng IV (đồng bằng sông Cửu Long) là một
người bất tài. Bà vợ của Thủ Tướng Chánh Phủ đã mua một lâu đài lớn bên Pháp
với giá một triệu quan. Một vài ông tướng sẽ sẳn sàng giúp phe đối lập với binh
sĩ của họ. Các cựu quan chức của cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã từng
dính vào cuộc đảo chánh năm 1963, sẽ quay trở lại. Nhưng đề tài của cuộc nói
chuyện trọng đại là chuyện “thất sủng’’ gần đây, mà theo đó người sẽ rớt đài sẽ
là ông Hoàng Đức Nhã, Tổng Trưởng Thông Tin và Chiêu Hồi, người em họ của Tổng
Thống Thiệu, người được mệnh danh là “ông Tổng Thống nhỏ’’.
Ba
mươi hai tuổi, cao 1 thước 83, với một thể lực của một tay “anh chị’’ (nguyên văn: play-boy), kỹ sư, tốt nghiệp cử nhân
chánh trị học, ông Hoàng Đức Nhã là một người thật tiêu biểu cho đẳng cấp mới
của giới kỹ thuật trẻ Việt Nam. Là một thể tháo gia, người năng nổ, làm việc
không biết mệt, có phương pháp và có đủ tài liệu, nói thật trôi chảy cả tiếng
Pháp và tiếng Anh, ông đã làm việc 5 năm như là thơ ký riêng cho Tổng Thống
Thiệu trước khi được đề nghị vào chức vụ Bộ Trưởng. Là một kẻ thù cuồng nhiệt
của Cộng Sản, ở cương vị mới ông đã cố gắng vận dụng tất cả phương tiện kỹ
thuật mà ông sẳn có để bao che cho dân chúng và tách họ ra khỏi gọng kềm tuyên
truyền của Việt Cộng. Và ông ta đã thành công.
Các
địch thủ của ông trách ông đã “bịt miệng’’ báo chí và ông đã vượt qua thực
quyền của ông để can thiệp vào quá nhiều lãnh vực. Ông Nguyễn Minh Đăng, một
dân biểu trẻ người Bắc đã dùng diễn đàn để tố cáo sự “lạm dụng quyền hành’’ của
ông, qua việc đặt người “thân cận’’vào các trung tâm tin tức được mở ra ở ngoại
quốc, và sử dụng sai nguyên tắc công quỷ. Ông Nhã đã lạnh lùng phản bác lại
bằng cách nhấn mạnh rằng tất cả những người mà ông “che chở’’ đêu tốt nghiệp
đại học, có một trình độ học vấn tuyệt hảo và bằng cách trưng ra đây đủ chi
tiết rất chính xác của sự chi thu ông đã chứng minh rằng những chi phí của ông
đã thấp hơn ngân khoản được ấn định.
Là
một người quốc gia có tánh đa nghi, ông Nhã cũng là một người cộng tác khó tính
và không mấy thích nghi đối với người Mỹ. Trong giai đoạn chót của cuộc thương
thuyết tại Ba Lê, ông Nhã đã đương đầu với ông Kissinger, và đã cùng Tổng Thống
Thiệu thảo ra bản quyết nghị nổi tiếng “Bốn Không”. Sự giao dịch của ông với
Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cũng giữ được khoảng cách. Các cố vấn Hoa Kỳ làm việc tại Sài
Gòn than phiền rằng từ sáu tháng nay ông từ chối không trả lời điện thoại cho
họ. Được các nhà báo Anh quốc hỏi về thái độ đối xử “quá cực đoan’’ của ông ông
Nhã đã trả lời với một giọng khó chịu: “Người Mỹ là đồng minh của chúng tôi,
tôi rất thích xem họ như những người anh em, nhưng tôi không muốn gọi họ bằng
“Cha” !(nguyên
văn: Papa)
Ông
đã đệ đơn xin từ chức. Cùng lúc với 3 thành viên khác của Chánh Phủ, cả ba đều
thanh liêm, rất giỏi và được kính trọng. Đó là các Tổng trưởng Tài Chánh, Kinh
Tế, và Nông Nghiệp, họ cũng đã xin từ chức.
Trực
diện với nhóm đối lập càng ngày càng lớn mạnh đang tổ chức chống lại ông và bài
xích nhóm kỹ thuật gia trẻ đang cương quyêt tách ra khỏi hàng ngũ Bộ trưởng,
Tổng Thống Thiệu bắt đầu giữ sự im lặng.
Bị
chạm mạnh do các sự tố cáo công khai của các đối thủ và “đào tị” của những phần
tử ưu tú trong Chánh Phủ, Tổng Thống Thiệu với gương mặt luôn luôn tươi tỉnh, khó
đoán được ý nghĩ và rất bí mật, ông không bao giờ hốt hoảng. Là một chánh trị
gia giỏi vận dụng, lanh trí, và đáng sợ, ông kiểm điểm lại các lá bài của ông
trước khi có phản ứng. “Ta còn một số con bài chủ” ông vừa cười vừa tâm sự với
những cộng sự viên thân cận.
Ông
lạnh lùng kiểm lại các lá bài chủ của ông.
Trước
hết là vị trí của người Hoa Kỳ. Mặc dầu ông Nixon đã ra đi, và sự chống báng
của Quốc Hội Mỹ, thái độ của Tổng Thống Ford vẫn còn nhiệt tình và tốt bụng.
Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, ông Martin, đã tỏ ra là một bạn đồng minh còn vững
chắc và cương nghị, điều mà ông Bunker không có dù là ông ta đã giúp ông lên
ghế Tổng Thống.
Về
phía VNCH, hệ thống quân giai, được thiết lập từ những quân nhân chuyên nghiệp,
được lựa chọn cẩn thận, đã nắm chặt quân đội trong tay. Không có một nguy cơ
nào về một cuộc đảo chánh. Phe đối lập được dựa phần lớn vào các linh mục và
các vị dân cử công giáo, nhưng ít được khối tín đồ đi theo vì họ không thích
các tín hữu can dự vào vấn đề chánh trị. Do đó đối lập không mạnh như họ vẫn
tưởng. Còn các phật tử (85% dân chúng) thì họ rất dè dặt và không tham gia vào
các cuộc “xuống đường’’.
Sau
khi đánh giá kỹ lưỡng về những khả năng hành động của mình, Tổng Thống Thiệu
mới đi đến quyết định “hành động’’.
Ông
bắt đầu nắm chặt quân đội lại, (vì đó là cột trụ chống đỡ chính của chế độ),
bằng cách tái phối trí lại hệ thống chỉ huy và thanh lọc hàng ngũ sĩ quan. Ông
vẫn giữ lại tướng Ngô Quang Trưởng trong chức vụ Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật
(Huế và Vùng Phi Quân sự ), người đã bẻ gãy cuộc tấn công của Cộng Sản năm
1972. Ông đề nghị tướng Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư Lệnh Vùng II (Vùng Cao
Nguyên Trung Phần), ông nầy là người hùng Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ.
Ông chỉ định tướng Dư Quốc Đống vào chức vụ Tư Lệnh Vùng III (khu Tam Giác Sắt
và Khu Mỏ Vịt), một cựu Tư Lệnh Binh Chủng Nhảy Dù, một tay chiến đấu gan lì và
sừng sỏ của vùng rừng núi. Ở Vùng IV Chiến Thuật thì ông đã cho tướng Nguyễn
Khoa Nam thay thế tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, người cháu của ông. Tướng Nam cũng
thuộc binh chủng Nhảy Dù mà là kỹ thuật gia của chiến thuật trực thăng vận. Ba
trăm sáu mươi bảy (367) sĩ quan cấp tá xét thấy không đủ khả năng hay tham
nhũng được cho về hưu hay xoá tên trong danh sách cán bộ.
Sau
phần quân đội là đến phần chánh trị và dư luận. Dự luật giao toàn quyền hành
động cho Tổng Thống Thiệu vừa được thông qua và ban hành. Rất nhiều biện pháp
được Quốc Hội thông qua, đã mở đường cho các đảng phái chánh trị được hoạt động
trở lại. Sự kiểm duyệt đang đè nặng báo chí đã được tháo bỏ. Một chánh phủ mới
được hình thành. Nhưng sau khi các biện pháp mở rộng vừa được ban hành thì Tổng
Thống Thiệu lại có thái độ cứng rắn, mời phe đối lập hãy hành động trong tinh
thần xây dựng và trong khuôn khổ luật pháp quốc gia, qua Quốc Hội (Thượng Viện
và Hạ Viện) vào dịp bầu cử lập pháp sấp tới, qua các tòa án (bằng đơn tố cáo)
và qua báo chí. Chiến dịch trong sạch hóa được tiếp tục, hàng bộ trưởng và các
công chức cao cấp làm không tròn nhiệm vụ sẽ bị điều tra và nếu có đầy đủ bằng
cớ chứng minh đúng theo đơn tố cáo thì họ sẽ phải được truy tố và xét xử.
Tất
cả đều xong hết, ông còn xác nhận là tất cả những cuộc biểu tình được xem như
hành động phá rối trật tự công cộng và sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Nhiệm vụ
của các linh mục không phải để tấn công cảnh sát ngoài đường phố hay để lớn
tiếng rao giảng bằng loa sự bất phục tùng, mà phải chăm sóc cho giáo khu và các
nhà thờ của họ. Tương lai chánh trị của nước Việt Nam được bảo đảm bằng máu
ngoài chiến trường chớ không nên bàn cãi trên hè phố.
Bị
phản đối, vì không có người cầm đầu thực sự, nên phe đối lập thất bại không kéo
dân chúng nổi dậy được. Những cuộc biểu tình lớn dự trù và được thông báo trước
không thực hiện được. Linh mục Thanh đã ước muốn động viên tất cả dân chúng
trong cuộc chống phá lớn nhưng cho tới giờ nầy chỉ mới có được vai cuộc quậy
phá nhỏ. Cơn khủng hoảng coi như bị bóp nghẹt. Người em ruột của Thủ Tường,
người cầm đầu cơ quan chống buôn lậu, vừa bị bắt giam.
Tổng
Thống Thiệu có thể tiếp tục lo cho cái mà ông gọi là “những vấn đề của đất
nước”. Và trước hết là chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng Thống dự trù vào năm 1976.
Ông không thay đổi quyêt định: ông sẽ ra ứng cử. Bất chấp những phúc trình bi
quan dồn dập gởi tới cho ông, Ông Thiệu vẫn tự tin là có khả năng thành công
vượt qua khỏi trở ngại của một nhiệm kỳ thứ ba. Mặc dầu có nhiều sự nguy hiểm
trước mặt ông, ông vẫn nhất quyết nghĩ rằng ông là “người hoa tiêu có đủ điều
kiện nhất để lèo lái con thuyền Việt Nam”
Vào
thàng hai năm 1975, ông viết cho Tổng Trưởng Tài Chánh rằng:”Viễn ảnh kinh
tế đã cho thấy phần bất lợi đã giảm, bằng mọi giá ta phải thu hút vốn đầu tư
ngoại quốc. Tất cả nỗ lưc của ông phải được dồn hết vào việc nầy. Không cần
phải quảng cáo. Hồ sơ của chúng ta đã tốt rồi. Thị trường của Miền Nam đã trên
hẳn mức trung bình ở Á Châu. Với dân số 20 triệu, mà hết 9 triệu nhân công
chúng ta đã hơn hẳn Úc Châu, Hong Kong, Mã Lai Á, Tân Gia Ba và Đài Loan rồi.
Giá thuê nhân công rẻ là một cái lợi thế rất quan trọng cho các cuộc đầu tư
ngoại quốc. Và một số lớn nhân công của chúng ta lại có khả năng nói tiếng Pháp
và tiếng Anh. Chúng ta có sẵn 100.000 thợ chuyên môn, 10.000 thợ máy và nhân
viên điều hành đã được huấn luyện để coi sóc các dụng cụ máy móc có phần phức
tạp hơn là tàu bè và trực thăng nữa. Con số chuyên viên kỹ thuật có giá trị (từ
tin học đến máy móc) cần thiết cho kỹ nghệ sẽ rất cao khi cuộc giải ngũ có thể
xảy ra. Trang thiết bị cho ngân hàng khá nhiều và nhân viên cũng thành thạo. Đó
là những luận cứ mà từ đó ông phải triển khai ra thêm. Tôi đã viết thơ cho Tổng
Thống Ford để nói với ông ta rằng một sự viện trợ đúng mức trong 3 năm là quá
đủ để bảo đảm nền độc lập của chúng tôi. Chỉ 3 năm thôi, không quá một ngày nào
!’’
Vô
ý thức ? Mộng du chánh trị hay lạc quan của lãnh đạo để kích thích các cộng sự
viên kém nhiệt thành ?
Trên
thực tế, sự táo bạo của Tổng Thống Thiệu trong cách tính toán của ông và lòng
tin cứng rắn của ông đối với tương lai của đất nước ông đều dựa vào một cuộc
khám phá huyền diệu ngoài khơi bờ biển Miền Nam Việt Nam: dầu lửa.
Phải,
đã có dầu lửa ở ngoài khơi Vũng Tàu và đảo Poulo Pajang. 6 mũi khoan, mũi nào
cũng trúng đích ! Như vậy người dân Miền Nam Việt Nam và Tổng Thống của họ có
quyền mơ ước: 6 giếng dầu mà khai thác từ năm 1977 sẽ đem lại lợi tức là một tỷ
Mỹ kim! Nhưng còn cần phải giữ vững được từ nay cho đến ngày đó. Vả lại 3 năm
cũng không lâu lắm.
Nhưng
ở đây thì coi như dài vô tận !
Bởi
vì để chống lại cơ may phồn thịnh phi thường của Miền Nam, Hà Nội chỉ có một
mong cầu : chiến tranh.
Ngày
6 tháng giếng năm 1975 : một hành động gọi là “trừng trị’’ đã vang dội khắp
nơi: lực lượng Cộng Sản Miền Bắc đã công khai tiến chiếm tỉnh Phước Long giữa
đồng trống, chỉ cách Sài Gòn không hơn 65 cây số ngàn về hướng Đông Bắc. Sự thụ
động của Hoa Kỳ sau hành động vi phạm nghiêm trọng Hiệp Định Ba Lê về Ngừng Bắn
nầy đã được Hà Nội coi như một trắc nghiệm rất có lợi cho một cuộc tấn công
mới. Vào lúc đó sự từ khước của Quốc Hội Hoa Kỳ về một ngân khoản 300 triệu Mỹ
kim viện trợ quân sự cho Miền Nam do Tổng Thống Ford yêu cầu, được coi như một
dấu hiệu chắc chắn “Mỹ sẽ không tái can thiệp vào Miền Nam Việt Nam nữa” vậy.
No comments:
Post a Comment