CHƯƠNG 7: LINH MỤC THANH: ĐỘI QUÂN THANH LỌC
Ngày Thứ Tư, 9 tháng Tư- "Thiệu phải ra đi.
Nếu ông từ chối không chịu ra đi thì ông sẽ bị quân đội đảo chánh, hay sẽ bị
một sĩ quan giết chết để trả thù cho tất cả những người đã chết vì ông ta. Một
người phi công trẻ đã thử giết ông ta rồi, nhưng anh ta thất bại. Nhưng mà còn
có những người khác nữa. Thiệu là một tướng lãnh không có khả năng và là môt
chánh trị gia tham nhũng. Ông không lãnh đạo một Chánh Phủ mà cầm đầu một
"băng đảng" Tất cả mọi người đều ghét và khinh bỉ ông ta."
Người nói lên những lời buộc tội ngắn nầy
không phải là môt quan tòa, cũng không phải là một dân biểu hay là một ông đại
tá. mà là một linh mục: Cha Trần hữu Thanh, thuộc dòng Chúa Cứu Thế, chủ tịch
"Phong Trào Tranh Đấu Chống Tham Nhũng Để Cứu Nước Và Vãn Hồi Hòa
Bình".
Năm nay ông 50 tuổi, dáng người gọn ghẽ, tóc
đã bạc hoa râm, mặt vuông, có đôi mắt sáng ngời lanh lợi sau cặp kính tròn gọng
sắt , cha Thanh mặc một áo dòng đen cũ, tiếp tôi trong một văn phòng nhỏ bên
cạnh nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. ông ta mạnh dạn nói tiếp:
-" Thiệu là một người bất nhân. Ông ta đã
làm hư quân đội, hành chánh và tòa án. Các tướng lãnh thì phải bỏ tiền ra mua
chức vụ chỉ huy của họ, các tỉnh trưởng, cảnh sát trưởng, các quan tòa cũng
phải mua chức tước của họ rất đắt. Dĩ nhiên sau đó họ phải tìm cách thu hồi lại
và như vậy là họ phải ăn hối lộ. BàThiệu là một người công giáo tốt, về lễ bái
cũng như về từ thiện. Nhưng bà không thể nào cưỡng lại được lòng ham muốn
"quà cáp", những vòng cẩm thạch, những hột xoàn mà người ta dâng cho
bà để mưu cầu có môt sự che chở của bà. Bà mua đất mua nhà cửa và gian lận
thuế. Và chồng bà cứ để cho bà muốn làm gì thì làm. Chính vì muốn tranh đấu
chống lại các sự thối tha đó của chế độ nầy mà tôi phải đứng ra chống ông
Thiệu.
Tôi có được sự ủng hộ của hàng trăm người công
giáo và nhiều nghị sĩ và dân biểu. Đức Cha Bình của Tòa Giám Mục Sài Gòn đã ủng
hộ hành động của tôi. Các sĩ quan, các bác sĩ, luật sư đã viết thư cho tôi hay
đã đến đây gặp tôi để ủng hộ tôi và khyến khích tôi tranh đấu . . . .
- Hà Nội và M TGPMN khẳng định là Cha hành
động theo sự xúi giục của người Mỹ. Những người thân ông Thiệu cũng có cùng một
luận điệu đó và nói thêm rằng các linh mục ủng hộ
Cha như các cha Nghi và cha Thanh Lan đều là
những người có khuynh hướng tiến bộ.
Cha Thanh nhảy lên:
- Tôi không có dính dáng một tý nào
với người Mỹ, họ không bao giờ có một hành động nào để thử ép ông Thiệu phải ra
đi, hay ngay như phải loại bỏ 3 tên đại bất lương luôn bao vây quanh ông ta.
Tôi sẽ nói cho ông nghe chính xác hơn. Lưu manh nhất Việt Nam là tướng Quang,
cố vấn của Tổng Thống về tất cả mọi vấn đề liên quan đến an ninh. Ông nầy đã
thiết lập các hệ thống buôn bán ma túy,, buôn lậu, và nhờ đó mới có được một
gia tài kếch xù. Ông Thiệu lúc nào cũng từ chối không muốn sa thải ông Quang
nầy, hoặc như ông thường làm một vài lần khi ông muốn dẹp một chướng ngại cho
mình ông gởi người đó đi sang ngoại quốc làm đại sứ. Rất là giản dị, bởI vì ông
Quang biết rõ những bộ xương được cất trong tủ nào, và khi nào vói không tới
thì ông ta bắt đầu nói vớ nói vẩn. . . Còn 2 thành viên của đảng mafia mà ông
cũng không bãi miễn được . Trước hết đó là Trung tướng Nguyễn văn Toàn cựu Tư
Lệnh Quân
Đoàn II , mà ai cũng biết là buôn lậu. Ông làm
giàu bằng những cúp cây rừng và những sòng bạc, và còn bị cáo buộc tội hãm hiếp
nữa. Việc nầy mặc dù có một chiến dịch báo chí dữ dội, mà vẫn không đi đến đâu
hết. Ông Thiệu chỉ cho ông ta rời khỏi chức vụ một vài tháng thôi, rồi lại đưa
ông ta về lãnh trách nhiệm Vùng III Chiến Thuật. Chính ông ta hiện đang lo việc
phòng thủ Sài Gòn . Sau cùng là tướng Trang sĩ Tấn, Chỉ huy trưởng cảnh sát Đô
Thành. Đây là một người ham tiền và tàn ác. Ông ta kiểm soát đĩ điếm và các
sòng bạc lậu.. Ngoài ra ông còn thành lập một đường dây xuất ngoại đưa con cái
những người Tầu và những người giàu có sang Thái Lan để trốn quân dịch. Một
trong những người đại diện của ông ta ở Ba Lê (Pháp) lo tiếp nhận những người
phạm tội nầy sang tỵ nạn ở thủ đô nước Pháp và cung cấp đầy đủ giấy tờ hợp pháp
kề cả một giấy phép cư trú, như vậy là ông ta ăn được 2 lần tiền, bởi vì khách
hàng của ông ta phải trả tiền lúc đi và lúc đến. NgườI đại diện nầy là chủ một
nhà hàng Việt Nam ở khu La Tinh (ba Lê), cũng có một hệ thống "gái
gọi" dành cho các vị Tổng bộ trưởng khi đi công vụ ghé lại Ba Lê. Do đó xa
tầm nhìn của những kẻ tò mò, tránh không làm hại đến thanh danh của họ đồng thời
không có ai động đến họ được Và mặc cho tất cả những điều ô nhục đó, tướng
Trang sĩ Tấn vẫn tiếp tục được sự che chở của Tổng Thống và bà Thiệu, đến độ họ
đã đề nghị gả con gái cho Tấn nữa."
Tôi nhìn Cha Thanh. Chẳng những Cha đã tỏ ta
thành thật mà còn tin chắc rằng ông được trao cho một "sứ mạng". Ông
Thiệu đã trở thành một biểu tượng của người xấu mà ông phải hạ bệ bằng mọi giá
để cứu đất nước và để ông ta phải chịu đền tội. Một khi sứ mạng cứu nước đã
xong, thì ông sẽ nghĩ thế nào về giải pháp tương lai đây? Tôi đặt thẳng câu hỏi
với Cha:
" Giả dụ là ông Thiệu chịu ra đi hay bị
đuổi đi, thì ai sẽ là người thay thế ông ta đây?
-Bất cứ ai cũng được! Tất cả những gì chúng
tôi mong muốn, đó là một người liêm khiết và ngay thẳng,có quyết tâm phục vụ
đất nước .
- Tại sao không phải là Cha ?
Cha Thanh sững sờ, nhìn chòng chọc vào mặt tôi
sau khi tôi vừa phát biểu một điều coi như bất lịch sự ghê gớm, và ông phát lên
cười nắc nẻ.
- Dĩ nhiên là không phải tôi rồi. Tôi
không phải là một chánh trị gia. Tôi dấn thân tranh đấu vì tôi yêu đất nước
tôi, và để hợp với thiên chức của tôi, tôi chỉ tố cáo những việc làm không phải
và những tật xấu của một chế độ mất giá trị. Nhưng tôi không có ý định cũng như
tham vọng nào để giữ vai trò của một nguyên thủ quốc gia.
- Vậy thì ai đây ?
- Chúa sẽ giúp chúng ta tìm người cần phải có.
- Nhưng nếu cộng sản không thừa nhận người đó
thì sao ?
- Cộng sản có thể chiếm đất nước nầy bằng vũ
khí, họ đang chứng minh điều đó. Nhưng họ không thể áp đặt một chế độ không hợp
với 20 triệu dân Miền Nam Việt Nam .
- Nhưng nếu họ cứ thử làm thì sao ?
- Họ sẽ không thử đâu. Họ cũng thừa thông minh
và thực tiễn để phải hiểu rằng chỉ có một cách duy nhất để tái lập hòa bình
thật sự là phải thành lập một Chánh Phủ Đoàn Kết Quốc Gia , ở đó có đủ mọi xu hướng
và phải có sự ủng hộ của toàn dân. Dù sao thì họ cũng đã từng và không bao giờ
ngưng hứa như thế mà.
Cha Thanh giữ yên lặng một lúc, sau đó hình
như bất chợt ông công nhận được một chuyện khó có thể xảy ra, nên ông nói thêm
một cách thật cương quyết:
- Ông biết không , ít nhất tôi cũng là một
người chống cộng sản như tôi đã chống ông Thiệu.
Nếu những người của Hà Nội quyết định cộng sản
hóa Miền Nam , dựa trên quân đội của họ và các chánh trị viên của họ, thì họ sẽ
thất bại. Dân chúng sẽ chống lại và sẽ có một cuộc nội chiến không có hồi kết
thúc.
Cũng trong ngày thứ tư 9 tháng 4 nầy, vào lúc
15 giờ, tôi đến thăm một người bạn của tôi Đó là ông Trần trung Dung. Lúc nào
ông cũng ăn mặc sang trọng, áo sơ mi lụa, quần thẳng nếp và mang giầy Ý đại
lợi, đầu chải láng, người lúc nào cũng bình tỉnh chững chạc ăn nói từ tốn và
rất lễ độ với mọI người , Ông là con của môt người chơi đồ cỗ ở Hué, là bạn học
cũ của tướng Võ ngyên Giáp vào thập niên 30 ở trường trung học Albert Sarraut
và sau đó ở đại học Luật tại Hà Nội . Ông đã từng là một tỉnh trưởng trẻ ở tỉnh
Phú Thọ, đảng viên đảng Đại Việt, một đảng đối lập vớI cộng sản Việt Minh trong
cuộc chiến dành độc lập, sống lưu vong bên Tầu, trở lại đời sống chánh trị sau
khi cưới cháu của Tổng Thống Ngô dình Diệm và trở thành Tổng trưởng Quốc Phòng.
Hiện ông là Phó Chủ Tịch Thượng Viện. Thuộc một gia đình có tiếng tăm lâu đời,
lại hấp thụ cả hai nền văn hóa Tây Phương và Đông Phương, đã từng trải qua
nhiều biến cố lịch sữ, thường có nhiều giao dịch cả ở Việt Nam và ở ngoại quốc,
những chuyến đi du lịch ở ngoài với những chức vụ mà ông đã và đang tiếp tục
đảm nhiệm.... tất cả cho thấy ông là một người đối thoại lý tưởng. Không như
các chánh trị gia của đất nước ông, sự hiểu biết của ông về những sự việc và
những con người , gia tài mà ông đang có giúp ông sống độc lập đối với bổng lộc
của chánh quyền .. tất cả đều bảo đảm một tính khách quan và không thiên vị
trong phán đoán của ông.
Tôi thuật cho ông nghe hết về buỗi viếng thăm
của tôi với Cha Thanh và những toan tính đáng sợ của Cha đã nói với tôi. Ông
cười và bình luận:
-" Cha Thanh là một "anh hùng
rơm" (nguyên tác: Don Quichotte). Ông quá thật thà khi nghĩ rằng hễ nhảy
ra nắm được cây chổi trong tay là có thể quét được hết. Những cây chổi hả, khi
cuỡi lên được nó rồi thì chúng sẽ đưa những người phù thủy tập sự đi rất xa .
Chúng ta đang sống ở Việt Nam, nơi mà chế độ được thành lập trên sở hữu tư
nhân; có nghĩa là có một khái niệm về lợi tức và hình thành một phương tiện cho
sự tăng tiến xã hội.
Mọi người đều ra sức để chứng minh rằng chúng
ta hư hỏng vì tham nhũng, và đĩ điếm tràn ngập. Đối lập thì xác nhận rằng không
có tự do phát biểu và các thể chế đi sai hết rồi. Tôi đã có đi nhiều ra ngoàì.
Tham nhũng thì đâu cũng có hết, ở Âu Châu, Nhật Bản và cả ở Hoa Kỳ nữa. Nó còn
dữ hơn ở Việt Nam ta nữa kia, vì các nước đó giàu hơn Việt Nam gấp bội, và giản
dị hơn nó được khéo che đậy hơn. Ở bên Pháp, bên Mỹ hay bên Nhật, báo chí
thường chỉ trích những vụ tai tiếng, những vụ buôn vàng lậu hay ngoại tệ liên
quan đến các ông cảnh sát, các viên chức cao cấp , các nhà đầu tư bất động sản
hay cả những tổng bộ trưởng. Bên Hoa Kỳ các anh chàng găng tơ (gangster) thường
chen vào chánh trị và các cuộc bầu cử. Đã xảy ra rồi một ông thị trưởng của
thành phố New York chạy ra ngoại quốc mang theo cả ngân quỷ của thành phố.. Con
số ma túy bắt được lên đến hàng mấy tỷ mỹ kim. Đĩ điếm ít nhất cũng nhiều như
bên Việt Nam chúng ta, những người giả trang đòi quyền cưới hỏi nhau, thậm chí
còn có nhiều linh mục đồng ý thừa nhận hôn nhân của họ nữa. Bên Pháp trong một
số rạp chiếu bóng trên đại lộ số 5 hay Champs-Élysées , muợn cớ là giải phóng
tình dục, người ta cho chiếu những phim khiêu dâm mà trước kia chỉ được kín đáo
chiếu trong nhà cho một số ít thân chủ tìm hứng cảm mà thôi. Tôi thường tự hỏi
dựa trên nguyên tắc nào mà họ chỉ trích chúng ta một cách có hệ thống như vậy ?
Ông Trần trung Dung đặt hai bàn tay thật sát
lên bàn viết của ông và nói tiếp, với một giọng đều đều ;
- " Nước Việt Nam không có gì xấu hơn hay
tốt hơn các nước mà họ tin là họ có thể đánh giá ta được. Đối với ông Thiệu
cũng vậy. Tôi biết ông ta rất nhiều , tôi đã nhiều lần đến với ông ta, và đã
nói chuyện nhiều với ông ta. Chúng tôi đã có đụng chạm nhau và cuối cùng ngày 3
tháng 4 vừa qua, tôi đã bỏ phiếu thuận cho một nghị quyết của Thượng Viện đòi
hỏi sự ra đi của ông ta.
- Ông ta là một người thông minh, có khả năng
và dám hành động. Lòng can đảm và ý chí quyết tâm kháng cự mà ông ta đã chứng
minh trong thời kỳ cộng sản tấn công dữ dội vào năm 1972, chúng ta không thể
nào quên được . Chỉ trong vòng một năm gần đây thôi, không lâu lắm, ông Thiệu
có thay đổi.. Trước kia, khi tôi đưa ra những câu hỏi về những vấn đề của đất
nước, thì ông ta đã trả lời dài dài cho tôi, đầy dủ từng chi tiết một. Ông rất
chú tâm đến những việc ông làm, cái nhìn sáng quắt của ông đã chứng tỏ niềm tin
và lòng thành thật của ông.. Nhưng rồi đùng một cái, cái nhìn của ông lu mờ hẳn
đi, ông ta nghe tôi nói mà không buồn nói gì cho tôi hết, tránh không trả lời
vào các câu hỏi của tôi, và cuối cùng là tránh không muốn gặp tôi nữa. Tôi đã
cảm thấy được sự thay đổi đó từ đầu năm 1974. Tôi đã hiểu là ông Thiệu đã mất
hết lòng tin . Hiển nhiên ông đã biết rõ là Hoa Kỳ đã buông bỏ chúng ta rồi.
Ông đã biết rõ là ông chỉ còn đánh một hiệp cuối cùng với bọn cộng sản, mà
trong hiệp chót nầy ông bầu của ông đã để cho ông tự lo liệu lấy một mình trong
lúc cộng sản đến đánh trên đầu ông bằng một đôi găng có dấu chiếc bàn ủi sắt
bên trong... Và như vậy là ông đã bắt đầu chuẩn bị sự hồi hưu của mình, sửa
soạn cho mình một chiếc nệm êm ấm rồi đó!
Ông Trần trung Dung ngả người tới trước và nói
với tôi:
- " Anh Pierre nầy, tôi còn một vài nhận
xét nữa phải nói. Bắc Việt luôn luôn khoe với chúng tôi là một chế độ dân chủ
trong sạch và cứng rắn, nơi đó sự lương thiện được nâng cao thành đức tánh. Tôi
đã đọc báo của họ kỹ lắm và tôi thường ghi nhặt được rằng các giám đốc hợp tác
xã hay bị bắt vì tội biển thủ gia súc; rằng các hãng xưởng bình dân của họ
thường gian lận sổ sách, bán buôn bất hợp pháp vật liệu mới toanh được họ biến
cải thành vật liệu "dư thừa phế thải" gồm có đầu máy xe lửa và hàng
chục tấn dây điện; rằng các sinh viên thường buôn bán chợ đen vải sồ và thẻ
tiếp tế lương thực; rằng hàng trăm tấn gạo bị lươn lẹo; rằng có nhiều tổ chức
buôn lậu xe đạp, máy may, và đá lửa; rằng các anh lính mới thường hay đào ngũ;
rằng các phụ nữ thường buông thả trong các hoạt động tội lỗi của nghề mãi
dâm.... Nhưng có ai ở ngoại quốc biết đọc được tiếng Việt, hay bỏ thì giờ để
phân tích tỉ mỉ báo chí nhạt nhẽo của Hà Nội bao giờ?
-" Anh Pierre biết ở Sai Gòn có bao nhiêu
tờ báo không ? - 29 tờ : 19 tờ Việt ngữ, 7 tờ Hoa ngữ, 2 tờ Anh ngữ và 1 tờ
Pháp ngữ. Họ thường viết bài chỉ trích Chánh Phủ . Có một số bị tịch thâu, bị
kiểm duyệt, nhưng họ vẫn tiếp tục ra báo. Còn ở Hà Nội chỉ có 3 tờ báo: tờ nhật
báo Nhân Dân, tờ Hà Nội Mới và tờ Quân Đội Nhân Dân. Cả 3 tờ báo nầy đều được
viết, in ra cho Đảng phân phát và Chánh Phủ không bao giờ sợ bị một chỉ trích
nào cả. Điều nầy ở Ba Lê ai cũng biết hết. Ông Jacques Decornoy đã xác nhận rõ
trong báo Le Monde. Ông ta giải thích với một lương tâm nghề nghiệp đáng khen
rằng: Dĩ nhiên là mọi dư luận có xu hướng trái ngược đều không thể được trình
bày ở Hà Nội . Và ở Miền Bắc không thấy có một người nào dám nêu lên quan niệm
về Tự Do của Phương Tây".
Mục tiêu mà Cha Thanh tự nhắm vào là TT Thiệu.
Cha có nói với anh là Đức Cha Bình đã đồng ý và khuyến khích Cha tiếp tục tranh
đấu phải không?. Tất cả hai người đều có thể nghiêng về trường hợp Cha Quản Lý
của Giáo xứ mà phía sau lưng ông nầy có một số bù nhìn tay sai đang kiểm soát
nửa tá ngân hàng tư, buôn hối đoái và cho vay cắt cổ , (28 % lời), giết chết
đồng bạc trong thời gian không quá 4 năm . Ông ta cũng đầu cơ về đất đai và tài
trợ cho các dịch vụ địa ốc. Tòa Tổng Giám Mục còn là sở hữu chủ của nhiều khách
sạn đặc biệt là khách sạn Caravelle, nơi đó các phòng thường tiếp bọn gái nhẹ
dạ còn nhiều hơn là những người đi hành hương ở Fatima. Cuối cùng nếu anh cho
phép thì tôi sẽ kết luận như thế này : Nếu ông Thiệu quyết định ra đi, thì cái
sơ đồ trong những tuần lễ hay những ngày sắp tới, đối với tôi hình như đã có vẽ
sẵn trước rồi!
Giả thuyết thứ nhất : bọn cộng sản sẽ khai
thác thắng lợi và cố gắng chiếm Sài Gòn .Họ có thể làm được chuyện đó, nhưng
các chánh trị gia và các nhà ngoại giao không tin như vậy, vì họ cứ tưởng rằng
cộng sản trước nhất đang đi tìm một chiến thắng chánh trị. Và sự loại trừ được
Tổng Thống Thiệu, một kẻ thù không thể giải hòa được, là đã giúp họ đạt một
chiến thắng vẻ vang rồi.
Từ đó ta mới có giả thuyết thứ hai , có khà
năng đúng hơn và yên tâm hơn : giai đoạn thứ nhất là thành lập tại Sai Gòn một
toán gồm một số đại diện của lực lượng thứ ba. Sau đó sẽ thành lập Hội Đồng Hòa
Giải Dân Tộc mà Hà Nội và Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam (M TGPMN) đã kêu gọi
thành lập mãi từ 2 năm nay mà vẫn không được . Những người thuộc lực lượng thứ
ba cũng có thể tin cậy được . Có nhiều người khao khát trước hết là đem lại hòa
bình. Một số khác thì thấy M TGPMN là một phong trào tranh đấu của người quốc
gia hơn là cộng sản. Một nhóm thứ ba khác thì chán nản vì sự tham nhũng của chế
độ, nên bị C PLTCHMN lôi cuốn. Tất cả đều tin tưởng là có khả năng giải quyết
bình đẳng với cộng sản , nếu không thể thao túng họ được . Tất cả những người
nầy đều là nh ững thằng điên và vô ý thức. Họ phải đầu hàng cộng sản hay là đi
tù mà thôi. Còn đối với Cha Thanh thì ông sẽ có dịp may nếu ông còn có quyền
giữ được tràng hạt của ông ta để tụng trong khám tối....."
CHƯƠNG 8: ĐỪNG BAO GIỜ TIN TƯỞNG HOA KỲ
NHƯ MỘT
ĐỒNG MINH
Ngày Thứ Năm, 10 tháng Tư
Chung quanh vòng đai của Thủ đô, nhiều xe ủi
đất và máy xúc đất đang không ngừng đào lấu từ tấn nầy đến tấn khác đất và đá
sỏi để hàng ngàn nhân công mặc quần cụt và sơ mi ngắn tay đen, dùng xe đẩy nhỏ
, đưa đến dùng vá cho vào các thùng phuy sắt được kết nối lại từng 4 thùng một
với nhau bằng dây sắt và được đặt trên các lề đường để dùng làm bờ tường chống
chiến xa.
Tất cả những xe đò từ các tỉnh đến Sai Gòn đều
được quân cảnh lục soát và kiểm tra kỹ. Các ngã tư đường quan trọng đều có các
cuộn kẽm gai bao quanh. Hai bên các đầu cầu đều có binh sĩ canh gác với các
loại vũ khí nặng đặt trong các lô cốt bằng ximăng hay trong các hầm trú ẩn có
bao cát ở trên.
Những công cuộc chuẩn bị chiến tranh không hề
làm bận tâm người dân ở thủ đô. Ở khu vực ngân hàng, sau nhiều chuyện xô đẩy
chen lấn ồn ào, sự yên tĩnh đã trở lại bình thường. Đồng mỹ kim tuần rồi đã vụt
lên đến 1600 đồng thì nay đã xuống trở lại đến 1000 đồng. Thành phố Chợ Lớn,
trung tâm thương mại và tài chánh của Việt Nam tiếp tục sinh hoạt bình thường.
Không khí buôn bán không có gì thay đổi. Người ta vẫn còn tìm nhìn lên các bảng
hiệu tiệm với hàng chữ màu đen hay màu vàng luôn được treo trước cửa hàng . Ở
đây buôn bán vẫn là ưu tiên hàng đầu . Trước hết là các cửa hàng bách hóa, thôi
thì hàng được bày la liệt đủ mọi thứ : nào là nón phớt Ý đại lợi, nào là dầu
thơm của Pháp, nào là máy ảnh của Nhật... tất cả treo dài dài trên tường, có cả
ly cốc và nồi niêu.... Hàng tá đèn lồng được bày bốn năm hàng dài trên các kệ,
đèn chùm đủ kiểu được treo lòng thòng từ trên trần nhà. Đèn điện sáng choang vì
người Tầu không ưa bóng tối. Kế đến là các hàng tạp hóa, với nhiều loại rượu:
loại khai vị của Pháp. rượu vang Úc Châu, sâm banh thượng hảo hạng nhưng thường
thì chỉ có nhãn hiệu là thật. Tất cả các loại bánh bít quy của Anh... nhưng làm
ở Hong Kong là phần chắc. Các tiệm buôn thường chia ra làm 2 hay 3 ngăn, mỗi
ngăn mỗi chủ khác nhau. Người ta thuê, rồi lại cho thuê lại: khúc trước thì bán
cà phê, mà khúc sau thì là một tiệm hớt tóc. Các tiệm bán trà thì có hàng trăm
bình trà bằng đất nung, nhưng phía sau đó lại có các hũ rượu nếp. Trong các
tiệm ăn thì mấy anh bồi bàn mặc áo thung lá lăng xăng chung quanh các thương
gia béo phì và vui vẻ, lâu lâu lại vén áo thung ba lá lên rất tự nhiên gọi là
để cho mát cái bụng phệ. Đứng trước các lò nấu có năm sáu anh đầu bếp, lưng
trần, đang lo nấu cơm hay đang làm món ra gu đậu. Trước hiệu ăn nào cũng có
treo đầy "lạp xưởng", và các miếng thịt "xá xiếu" dài
,những con vịt khô dẹp , và các chùm ớt đỏ chói....
Chung quanh các tiệm bán tạp hóa, bán chạp phô
hay các kho hàng lúc nào cũng có dủ mặt các tay tiểu công nghệ : nào là thợ vá
giày, thợ sửa khóa, thợ ráp khuôn hình . . . các cô bán bông thì chào hàng
trước các tiệm trồng răng, các tiệm kính nơi có trưng bày đủ loại gọng, loại
kính đủ màu đủ kiểu..
Ngoài kia là con kênh, đầy ghe thuyền, sà lan,
ghe chài lớn...và tiếng vịt kêu, đang đến từ các nhà máy xây lúa ở Bình Tây,
cao to vòi vọi bên cạnh các căn lều lụp xụp của các công nhân và phu khuân vác.
Không khí thì đầy những hạt bụi lấm tấm màu đen : người ta thường dùng trấu để
đốt lò xây lúa nên có cả một đám mưa bụi tro. Các bao lúa được chất lên chung
quanh nhà máy xây gạo cao như núi, để chờ chuyển thành triệu nầy đến triệu
khác.
Những hình ảnh phong phú nầy đặc biệt trái ngược
với các mẩu tin từ chiến trường gởi về.
Chơn Thành vừa mới được di tản, đây là một thị
trấn nhỏ nằm ngay ngã tư giao lộ cách Sai Gòn khoản 80 cây số ngàn về hướng
Đông Bắc. Thị trấn bé nhỏ nầy với vài xã nghèo nàn nằm chung quanh một ngôi nhà
thờ vách ván, là nơi đã từng xảy ra nhiều trận giao tranh đẫm máu. Các khu rừng
tre quanh đây đã bị bom của pháo đài bay B. 52 cày nát và đốt cháy. Việt Cộng
đã đào đường hầm hẹp và ngoằn nghoèo dài hàng cây số trong vùng bình nguyên
quanh thị trấn. Nhưng Biệt động quân đã đuổi họ đi hết và đã chiếm lại khu săn
bắn nầy.
Từ Chợ Lớn về, tôi gặp bạn Lupi của tôi, một
người dân đảo Corse ốm yếu và có tánh hay bồn chồn, tóc đã bạc phơ nhưng cặp
mắt còn đen nhánh tinh anh. Sau 30 năm phục vụ liên tục ở Đông Dương, anh ta
gần như đã sạt nghiệp. Đồn điền của anh ta (gần đèo Blao trên đường đi Dalat)
đã bị cháy hết. Ngày hôm kia anh dã ở Xuân Lộc.
Với một giọng không thay đổi của người dân đảo
Corse, anh ta tiết lộ cho tôi biết:
- " Anh biết không, trong rừng thuộc tiểu
khu nầy, bộ đội chánh quy cộng sản đông như kiến vậy. Thành phố Xuân Lộc đã
biến thành một căn cứ quân sự khổng lồ, với những pháo đài và những ổ mối. Sư
đoàn của Chánh Phủ với nhiệm vụ phòng thủ thành phố đã sống dưới hầm và trong
các lô cốt bằng bê tông, trong các đường hầm hay núp kín sau các ụ đất. Mỗi một
nhà kho, mỗi một sân nhà đều biến thành một hầm trú ẩn dùng để chống chiến xa,
hay cho một ổ đại bác liên thanh... Mỗi đêm Xuân Lộc đều ăn hỏa tiễn của cộng
sản Bắc Việt.
- Thế dân chúng làm gì ?
- Con số thường dân tăng lên gấp đôi. Hàng
chục ngàn dân tỵ nạn từ khắp nơi kéo đến,và ở cùng khắp thành phố, trong các
sân trường, trong các hầm hố, che lều ở hay mắc võng vào thân cây nằm. Và không
một ai muốn rút lui hết. Sớm muộn gì cộng sản Bắc Việt cũng sẽ tấn công đến nơi
rồi. Các sĩ quan của Miền Nam Việt Nam mà tôi đã gặp đều khẳng định là họ không
lùi nữa.
°
°
Trước tòa đại sứ Hoa Kỳ , có mấy trăm người
Việt Nam đang xếp hàng trên lề đường chờ xin phép nhập cảnh để được đi Mỹ.
Đại sứ Graham Martin không tiếp báo chí và đã
không bao giờ rời khỏi sứ quán của ông, vừa là một dinh thự vừa là một pháo đài
sơn màu trắng ngà, có một bức tường bê tông bao quanh có gằn máy chụp ảnh tự
động. Hai anh binh sĩ Thủy quân lục chiến với lễ phục lớn (kết trắng, găng trắng,
quần chạy nếp đỏ) đứng gác lúc nào cũng trong tư thế Nghiêm trước hai cánh cửa
bọc sắt có ổ khóa chỉ được mở bằng mật mã bằng máy vi tính từ xa. Nóc bằng của
sứ quán đã được cải biến thành bãi đáp cho trực thăng.
Với 62 tuổi, người cao lớn và rắn rỏi, trán đã
có nhiều vết răn sâu, mặt cũng đã có nếp nhăn và quầng thâm, ông vẫn luôn luôn
mặc quần áo màu xám, cả giầy cũng vậy, giờ đây ông đã có một dáng đi hơi nặng
nề và mệt mỏi của một võ sĩ quyền Anh đánh quá một trận, mà từ khước không chịu
cho đôi tay ngơi nghỉ ! Phải nói rằng nhà ngoại giao Hoa Kỳ nầy có một lối xử
sự không được bình thường. Trái hẳn các đồng nghiệp của mình luôn có thái độ
"lạnh nhạt", dù tình hình quá nghiêm trọng họ vẫn đánh giá bằng một
thái độ dửng dưng khác thường, ông Martin là một người biết trọng danh dự, biết
thế nào là giá trị của một lời hứa đã được đưa ra, là môt người biết đau khổ và
biết xúc động. Ông đã mất một người con trai trong chiến cuộc ở Việt Nam và
không chấp nhận là đứa con của mình đã hy sinh một cách vô ích. Ông ta đã tỏ
thái độ giận dữ với các nhà báo và các nghị sĩ theo chủ nghĩa "hòa
bình" , những người quên hay chối bỏ sự hy sinh của 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ
ở Việt Nam . Thay thế đại sứ Ellsworth Bunker (người được coi như là cha đở đầu
của Tổng Thống Thiệu) sau khi Hiệp Định Paris vừa được ký kết, ông Graham
Martin, một nhân vật thẳng tính và không mưu mẹo quanh co, ngay từ lúc đầu đã
cố gắng giúp đở và che chở cho vị Tổng Thống Miền Nam Việt Nam . Ông đã tranh
đấu với Quốc Hội năm vừa qua để đòi hỏi Hoa Kỳ phải tiếp tục viện trợ quân sự
và kinh tế như đã hứa cho Miền Nam Việt Nam , nhưng ông đã thất bại. Từ sau
ngày Cao Nguyên bị thất thủ, ông đã công khai biện hộ và vận động riêng để sự
cứu trợ cấp thời phải được gởi sang Việt Nam ; và bằng mọi phương tiện mà ông
có sẳn, ông đã nâng đở tinh thần của người dân Miền Nam . Ông đã đi xa hơn nữa
bằng hành động phối hợp cuộc hành quân "bốc trẻ mồ côi", một việc làm
chạm tinh thần quốc gia dân tộc và lòng kiêu hãnh của người dân Việt Nam. Trong
một bức thư riêng gởi cho Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam , ông đã giải thích rằng
những phản ứng xúc động do hoàn cảnh vô cùng khốn đốn của các trẻ mồ côi có thể
sẽ làm nghiêng cán cân dư luận của dân chúng Hoa Kỳ có lợi cho Miền Nam Việt
Nam . Nhưng nội dung lá thư riêng của ông lại được tung ra cho báo chí gây ra
môt làn sóng phản đối dữ dội.
Tuy vậy ông Martin không ngã lòng. Và như ông
đã khiếp sợ sự "trốn chạy", nên ông cẩn thận hơn một chút đối với các
anh nhà báo vá các nghị sĩ quá tò mò, buộc các cộng sự viên của ông phải đề cao
cảnh giác và nêu gương phẩm cách của mình, và khuyên họ không nên buông thả
theo "tính chủ bại", và ông cũng cố gắng thuyết phục họ là "cuối
cùng rồi có lẽ Hoa Kỳ cũng sẽ tỉnh dậy thôi"
Trong lúc cuộc tháo chạy đã gần như hoàn toàn,
trong khi hàng trăm ngàn dân tỵ nạn làm nghẽn hết đường sá, và hết thành phố
nầy đến thành phố khác cứ tiếp tục thất thủ, ông vẫn phô bày một sự lạc quan
không lay chuyển, mỗi ngày cẩn thận tính sổ các xã ấp mà Sai Gòn còn đang kiểm
soát được và gởi về Hoa Thạnh Đốn nhiều điện văn "tối khẩn" đòi hỏi
những chương trình phát triển kinh tế dài hạn cho phần đất còn lại của Miền Nam
Việt Nam .
Cho đến khi Hoa Thạnh Đốn đòi hỏi ông Martin
phải sẳn sàng để di tản 5000 người Mỹ hiện còn đang ở Miền Nam Việt Nam thì ông
đã trả lời bằng một công hàm hết sức gay gắt, khuyên Bộ Ngoại Giao hãy khóa
"vòi nước hoảng loạn" lại. Ông Martin không dấu giếm với những người
bên cạnh ông rằng ông coi chuyện "di tản" nầy như một cuộc "tháo
chạy nhục nhã", một "hành động hèn nhát", một hành động "phản
bội có cân nhắc" đối với một người bạn đồng minh đang có nguy cơ đứng
trước cái chết ....
Khi tôi đi trở xuống đường Catinat (Tự Do),
tôi không thể không nghĩ tới sự thay đổi lạ lùng về đường lối chánh trị của Hoa
Kỳ và sự rời rạc của khối dân cử của họ.
Đã có một lần, một vị Tổng Thống Hoa Kỳ mang
tên là Richard Nixon . Có nhiều người đồng hương của ông đã không thích ông và
tố cáo cách điều hành Chánh Phủ của ông.(điều nầy có nhiều trung tâm có uy tín
đã ghi nhận đúng như thế). Họ cũng công nhận có một vài việc ông "biết
làm" trong vấn đề chánh trị đối ngoại, nhưng họ nghĩ rằng trong lãnh vực
nầy Henry Kissinger (người ta nói là chất xám của Nixon) mới chính thật là
người thợ khéo đã gầy dựng nên những thành công cho ông Chủ Nhà Trắng.
Sau một màn tranh đấu đầy khả nghi, được đánh
dấu bằng những cú đấm quá hạ tiện, cuối cùng ông Nixon phải từ chức.Tám tháng
đã trôi qua từ đó. và hình như bị một nền công lý nội tại trả thù cho danh dự
của một người đã từng bị dân chúng chà đạp một cách bạc bẽo, quốc gia Hoa Kỳ
lúc bị ngất ngư vì suy thoái kinh tế, một sự suy thoái mà không một nước Tây
Phương nào tranh khỏi , mới bắt đầu biết được hương vị chua chát của môt sự
tỉnh mộng !
Bây giờ chúng ta chứng kiến được gì đây ? Một
sự hoảng loạn của một Tổng trưởng Ngoại Giao mà từ Quốc Hội đến báo chí người
ta không ngần ngại bắt ông phải từ chức.
Con người siêu nhân hoạt bát đeo kính to, từng
là một tiến sĩ có phép mầu khi xưa, nay gần giống như một nhà ảo thuật mệt mỏi
đang làm cho khán giả chán ngấy, vì không diễn được trò nào cho ra hồn. Trên
sân khấu buồn tẻ của một ông Gerald Ford đầy thiện ý nhưng không một ai muốn
nghe lời cảnh cáo của mình, vì thiếu quyền lực và không có uy tín, ông đã tỏ ra
hoàn toàn không có khả năng để áp đặt quan điểm của mình cho các đồng viện
trong Lập Pháp.
Mặt khác, người ta sẽ nghĩ gì về Quốc Hội Hoa
Kỳ nơi đó những phần tử (tự do) đã cất cao giọng từ sau các cuộc bầu cử hồi
tháng 11 (hậu quả khác của vụ tai tiếng Watergate) khi Quốc Hội đó đã tự cho
phép mình đi nghỉ hè mà không cần nói một chữ nào về sự viện trợ bổ túc mà Hành
Pháp đã xin cho hai quốc gia đồng minh đang trong cơn hấp hối là Miền Nam Việt
Nam và Cam pu Chia ?
Còn ở điện Capitol, người ta lại tỏ ra hết súc
hấp tấp để tìm chuyện gây gổ xấu xa giữa cơ quan tình báo trung ương CIA và cơ
quan điều tra liên bang FBI về những tài liệu có khi cũ xưa từ 15 năm trước,
còn hơn là bận tâm đến những nổi khổ đau bất hạnh của các nước ở Đông Dương
đang kêu cứu một cách vô vọng !
Vả lại tại sao họ phải lo lắng ? Miền Nam Việt
Nam có mất đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì đe dọa tới nền an ninh của Hoa Kỳ
. Sai Gòn và Hoa Thạnh Đốn cách nhau đến 17.000 cây số !
Chỉ có người Miền Nam Việt Nam và chỉ có họ
thôi , mới có thể khôi phục được tình hình. Bởi vì không còn có vấn đề tái can
thiệp của lực lượng quân sự Hoa Kỳ vào Việt Nam nữa . Nhưng có một điều quan
trọng mà Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối không chấp nhận, đó là nhiên liệu và đạn dược
cần thiết phải được cung cấp cho quân đội Miền Nam trước khi đã quá trễ.
Như vậy, nếu chiến trận tiến tới và bắt đầu có
giao tranh trước khi hàng tiếp liệu được bảo đảm đến nơi, thì không những quân
đội Sai Gòn sẽ thất trận, nhưng họ đã thất trận vì Hoa Kỳ đã phản bội họ. Và
bài học duy nhất được rút ra từ chiến tranh Việt Nam sẽ là: "Đừng bao giờ
tin tưởng vào Hoa Kỳ như là một đồng minh của mình!"
CHƯƠNG 9: CHIẾN TRẬN ĐẪM MÁU
Ở XUÂN
LỘC
Ngày Thứ Sáu, 11 tháng Tư
Lần nầy thì sắt thép đụng nhau rồi ! Đụng rất
nặng ở Xuân Lộc.
Câu chuyện bắt đầu từ đêm thứ tư đến ngày thứ
năm 10/4 bằng một cuộc pháo kích dọn đường rất dữ dội : 2000 quả đạn pháo và
hỏa tiễn đã được rót xuống thành phố. Vào lúc hừng sáng, 2000 đặc công cộng sản
có chuến xa T.54 yểm trợ đã mở cuộc xung phong vào Xuân Lộc . Đến 8 giờ, coi
như họ đã chiếm được ba phần tư thị trấn, trong khi có 2 trung đoàn đang đánh
bọc vào 2 bên sườn.
Suốt cả ngày hôm qua, chiến trận đã hoành hành
khốc liệt. Nhưng chúng tôi chỉ được biết vào hồi 7 giờ sáng sau giờ chấm dứt
thiết quân luật. Vừa biết được hai bên đã đụng nhau ác liệt, tôi đi ngay lên
Biên Hòa, đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Quân Đoàn lo cả phòng thủ cho Sai Gòn.
Tại đây tôi đã gặp Trung tướng Toàn, một người lớn con vạm vỡ từng theo học ở
trường Thiết Giáp Kỵ Binh Saumur ở Pháp. Ông có tính nóng nảy nhưng là một
người thích ra trận, nhất là tấn công. Vào năm 1972, chính ông đã bẻ gãy tất cả
các trận tấn công của cộng sản Bắc Việt vào Cao Nguyên. Ông vừa mới từ mặt trận
trở về bằng trực thăng. Các sĩ quan tham mưu vây quanh ông để nhận lệnh. Ông
nói với họ vài ba câu xong ra hiệu cho tôi và nói :
-" Rất vui mừng được gặp lại anh ở đây,
anh Pierre . Nhưng chắc tôi không có thì giờ để lo cho anh đâu. Nếu anh muốn đi
xem thì anh hãy lên Ngã ba Biên Hòa rồi từ đó nhảy lên một chiếc cam nhông nào
đó để lên thẳng Trảng Bom. Nhưng hảy cẩn thận nghe. Nặng lắm rồi đó."
Tôi biết rất rõ vùng Xuân Lộc. Từ năm 1947 đến
1948 tôi đã đi hành quân trong tiểu khu nầy ròng rã cả năm với toán đặc công
của tôi. Vào thời kỳ đó, Xuân Lộc chỉ là một thị trấn nhỏ với khoảng vài dãy
phố chừng 50 căn nhà gạch liền vách nhau hai bên chợ có nóc, và trên trăm nhà
lá. Ga xe lửa là trạm dừng chân của đoàn "tàu thiết giáp", một đơn vị
"an ninh thiết lộ" của lê dương xâm mình, được trang bị loại đại bác
Bofor và liên thanh nồi, nối liền Sai Gòn với miền Nam Trung Phần.. Dinh ông
quận trưởng hành chánh người Pháp được tô điểm bằng một dàn hoa leo, nằm đối
diện với trại "lính kỷ luật" , một đơn vị tập trung các binh sĩ nhiều
lần bị kỷ luật, mà chỉ có một cơ may trở về đội ngũ của mình bằng một huy
chương tưởng thưởng trong tác chiến. Xa xa về phía trước là một bộ phận của
Hiến Binh lưu động, và đơn vị thân binh người Thượng, tất cả đều trú đóng trong
một thành có tường đá bao quanh. Lúc bấy giờ tiểu khu nầy cũng không yên lắm
đâu. Đã có nhiều trận phục kích, tấn công đoàn tàu hỏa hay đoàn xe trên quốc lộ
vì hai bên đường đều có rừng hay đồn điền cao su của hảng SIPH (đã trồng 20.000
mẫu và đang khai thác 12.000 mẫu), và cao nguyên Bình Lộc với cỏ voi lá bén như
dao cạo, với tre to và rừng cây già.
Từ đó thị trấn nầy đã lớn lần ra. Hằng ngàn
dân tỵ nạn rách như bươm, người thiên chúa giáo từ Miền Bắc đến định cư ở đây
vào năm 1954. Chủ đồn điền ở đây đã cho các cha xứ 120 mẫu đất không lấy tiền
để cất một ngôi thánh đường, một ngôi trường đạo và một nhà ở cho Linh mục do
Sai Gòn bổ nhiệm. Quận cũ được cải biến thành quận lỵ của tỉnh, với một bệnh
viện tối tân, và một dinh thự cho vị tỉnh trưởng, một nhà bưu điện, một trung
tâm học vụ và một sân vận động. Dân tỵ nạn từ Miền Bắc vào đã xây nhiều ngôi
nhà xinh xắn bằng gạch, nhiều căn nhà có dàn cho hoa leo, họ cũng đã mở ra hàng
trăm tiệm buôn bán và xưởng mỹ nghệ. Một sư đoàn lính Mỹ đã đóng quân ở đây ba
năm, đã xây cất một phi trường và nhiều doanh trại với đầy đủ tiện nghi. Xã đã
biến thành thị trấn, và một thành phố trù phú đang sinh hoạt với 60.000 dân,
nơi đây hằng ngày đều có hàng loạt "xe be" chở cây lóng và các xe rau
cải đi về Sài Gòn.
Bây giờ thì chiến tranh làm vỡ tan hết tất cả
dưới một cơn bảo thép. Tôi đã đến đây không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi đã
thuộc hết hình ảnh của Xuân Lộc nầy, và những tiếng ồn ào ở đây, tiếng gầm của
các khẩu pháo binh đang tác xạ làm rung chuyển mặt đất, tiếng rít khô khan và
sắc bén của những viên đạn bắn đi với những chùm lửa, chùm sắt thép làm nát hết
thân người và ném các mảnh xương thịt đó đây vung vãi....trên mặt đất.
Bây giờ là 9 giờ sáng rồi, trời cũng đã quá
nóng, mặc dù có dồn điền cao su thường giữ được độ mát nhờ có bóng râm. Trước
khi vào Trảng Bom, cảnh sát dã chiến có dựng lên một hàng rào chữ chi để kiểm
soát mọi sự lưu thông, tiếng súng bắn chỉ thiên thay cho tiếng tu hít., tôi
xuống xe, kiểm soát xong tôi tiếp tục tản bộ đi về phía trước khoảng 100 thước.
Thị trấn rất yên tĩnh và cần cù siêng năng nầy
được thu hẹp chung quanh những cơ sở lớn sơn màu vàng được lợp ngói đỏ, thuộc
công ty đồn điền SIPH, (nhà máy, văn phòng, trung tâm truyền thanh, nhà của
giám đốc v.v..). Các anh thợ rèn và thợ mộc, cởi trần trùng trục đang tiếp tục
làm việc trong mấy căn chái dựa hai bên đường. Tôi cố gắng tìm một đồn cũ của
người Pháp hồi trước, nằm về bên phải của ngôi chợ. Vào năm 1948, đồn nầy được
một đại đội binh sĩ dưới quyền của trung úy Suako, một lực sĩ người đảo
Antilles, với bộ mặt cứng rắn đến hung dữ, một tay thiện chiến, đã từng làm chủ
mảnh đất nầy trong vòng 30 cây số chung quanh, thiện chiến đến độ Việt Cộng
phải sợ và đặt cho anh ta cái tên là "beo đen". Dĩ nhiên cái đồn nầy
không còn nữa. trung úy Suako đã chết và trong 25 năm nay, cuộc chiến đã thay
đổi hẳn bộ mặt của nó, nhưng nó vẫn còn ở đây. Dữ dội hơn và gây chết chóc
nhiều hơn! Một pháo đội 105 ly đặt sau hàng cây đã bắn đi một tràng. Một chiếc
xe Jeep vừa hụ còi vừa đi qua. Một sĩ quan đứng bên cạnh tài xế khoát tay. Đoàn
xe tiếp tục lăn bánh, tôi lại lên xe và tiếp tục đi.
Quốc lộ đi qua nhiều làng mạc, có rào đóng kín
và bên trong có nhà thờ. Hầu hết dân làng đều là dân "di cư", tỵ nạn
từ Miền Bắc . Các cụ già thản nhiên im lặng ngồi nhìn binh sĩ đi ngang qua
trước nhà. Các trẻ em thì cứ nô đùa, các bà thì đang đập lúa. Cả một dảy nhà gỗ
là của người "Nùng", những người rạm nắng di cư vào đây từ miền
Thượng Du Bắc Việt, giáp giới với Trung Quốc. Họ là những người nhai thuốc lá
và cũng thích "sơi" thịt cầy, có truyền thống làm giặc hay cướp biển,
không sợ Trời, không sợ quỷ thần, không sợ Việt Cộng, và cũng không sợ sen đầm
nốt!
Tuyến phòng ngự thứ nhất nằm ở phía trước
Trảng Bom chừng 10 cây số. Từ đó trở đi, thình lình không khí thay đổi hẳn. Hai
bên đường vốn được khai quang sạch sẽ khoảng 100 thước bề sâu cốt để tránh bị
phục kích, có nhiều chiến xa hạng nặng và thiết vận xa đang tuần tiễu dọc theo
các bờ chuối trong bìa rừng. Chung quanh một công sự đổ nát, trên một chục khẩu
pháo binh 105 ly đang tác xạ, làm tung bụi lên mù mịt. Giữa một khoảng trống có
đánh dấu bằng khói màu, các trực thăng khổng lồ "chinook" đang thả
xuống nhiều toán binh sĩ mặc quân phục Biệt động quân, đội mũ nâu, mang đầy
mình đạn dược và lựu đạn.. Một đoàn chiến xa M41 với cờ đuôi nheo cột trên ăng
ten, đang di chhuyển về hướng mặt trận.
Rồi lại đến lượt các binh sĩ thuộc binh chủng
Nhảy Dù với quân phục xanh lá cây, mủ đỏ, súng tự động M.16 cầm tay. Chúng tôi
gặp hai xe cam nhông chở thương binh, chỉ được băng bó sơ khởi, như những bóng
ma, máu me bê bết, nằm la liệt chồng chất lẫn lộn lên nhau.
Chúng tôi đi được thêm 5 cây số nữa thì phải
ngừng lại.Tiếng súng nghe như gần bên rồi. Những tiếng nổ ròn của đại liên nghe
rất rõ cùng với tiếng tác xạ ầm ầm của pháo binh. Chiến xa dẫn đầu, sau đó là
các xe Jeep và xe 4/4 chở Biệt động quân. Tôi nhảy xuống xe vá quyết định đi
tới trước với toán binh sĩ nầy. Biệt động quân là các đơn vị tiếp viện, hành
quân từng tiểu đoàn 600 người gồm phần đông là binh sĩ lớn tuổi, già kinh
nghiệm chiến trận và không biết hốt hoảng. Tôi lên một xe 4/4, ngồi cạnh đại úy
Niệm . Trong khi di chuyển ông kể cho tôi nghe một vài câu chuyện. Đại đội của
ông từ Chơn Thành về, ở đó ông và đại đội đã chiến đấu suốt 16 ngày liền và chỉ
về nghỉ xả hơi được có 48 tiếng đồng hồ là phải ra trận nữa đây.
Lực lượng cộng sản được tung vào mặt trận Xuân
Lộc rất là quan trọng : 3 sư đoàn Bắc Việt được tăng cường 1 trung đoàn chiến
xa T. 54 và được khoảng 30 khẩu pháo 130 ly và 152 ly viện trợ từ Liên Xô.
Đối diện với lực lượng tấn công của cộng sản,
phía Chánh Phủ chỉ có sư đoàn 18 bộ binh của tướng Lê minh Đảo, 1 lữ đoàn Dù, 5
Liên đội Biệt động quân và lữ đoàn 3 Thiết giáp của tướng Trần quang Khôi.
- "Chúng tôi được lệnh phải đến Xuân Lộc
bằng mọi giá", đại úy Niệm kết luận với tôi như thế. Và chắc không dễ dàng
lắm đâu. Trước mặt chúng ta là sư đoàn 6 Bắc Việt . Chính sư đoàn
nầy, cách đây 3 ngày, đã tấn công vào ngã ba
Suzannah, các xã chung quanh đó, nhà máy và trung tâm đồn điền nầy,. Hai tiểu
đoàn Dù đã phản công đêm nay và đã chiếm lại ngã ba nầy. Cộng sản Bắc Việt đã
có chiến xa yểm trợ và tổn thất nghe đâu cũng nặng lắm. Nhưng lực lượng Dù vẫn
bám đất. Chúng tôi chắc phải xuống xe và phải đi bộ chừng 10 cây số, vòng qua
ngã ba Suzannah mới tới Xuân Lộc được ."
Đoàn xe chúng tôi đến gần Suzannah. Và chúng
tôi lọt vô luôn giữa chiến trận. Những tràng đạn pháo binh, bách kích, hỏa tiễn
chém nát mấy ngọn cây và mảnh đạn ghim xuống đường. Anh em Biệt động quân bỏ
hết xe và tiến lên theo hướng thị trấn. Họ chia ra làm 3 toán, họ tiến lên từng
đoạn ngắn, súng cầm tay. Bên trái và bên phải chúng tôi những hàng cây cao su
đều đặn và thẳng tấp tạo nên những hành lang tranh tối tranh sáng. Suzannah là
một đồn điền xưa nhất trong vùng, có khoảng 3.500 mẫu và 300.000 cây cao su.
Đồn điền được chia ra thành từng lô 100 mẫu có đánh số...... Dửng dưng với
chiến sự và mặc cho sự ồn ào của đạn súng, lén lén và yên lặng các phu đồn điền
vẫn tiếp tục công việc cạo mủ của họ, dao đục mang ở lưng và thùng đựng mủ xách
tay, họ không buồn nhìn lên khi chúng tôi đi ngang qua họ.
Chúng tôi tiến lên trong một khung trời mờ ảo,
đi dưới một vòm lá xanh um rợp bóng nửa tối nửa sáng có nơi biến màu đất đỏ
dưới chân thành màu xám tro. Chúng tôi đi sâu thêm một đoạn nữa dưới những tàng
cây. Không khí thấy đã ẩm ướt làm tôi khó chịu. Tôi tự hỏi không biết lúc nào
bọn Việt Cộng nằm đâu đó trong vườn cao su rộng mênh mông nầy sẽ khai hỏa đây ?
Nhưng vẫn chưa có gì xảy ra. Và chúng tôi tiếp tục tiến tới, hơn nửa giờ nữa.
Và thình lình tiếng đại bác nghe như gần bên tai, đại liên thi nhau nhả đạn.
Biệt động quân bắt đầu chạy tới, trăm thước, rồi hai trăm thước, một con đường
mòn, một khoảng đất trống và đến con đường.
Chiến xa, xe vận tải .. cả một đoàn binh sĩ
đang ở tư thế tác chiến. Họ thuộc sư đoàn 18 bộ binh của Miền Nam Việt Nam .
Anh em Biệt động quân giải thích cho họ biết là chúng tôi từ đâu tới. Đoàn quân
đi lại con đường đó nhưng lần nầy họ đi ngược lại, vì con đường đã trống trơn.
Họ đang tìm cách bọc sau lưng bọn cộng sản Bắc Việt để liên lạc với đơn vị Dù.
Thành phố Xuân Lộc đầy khói và đầy những tiếng
nổ. Tháp chuông nhà thờ bị nhiều quả đạn bắn bay hết một góc, nhà ga đang cháy.
Các cột điện sập ngã đầy đường, giây điện bị đứt. Gần bên hông trường Nhà Dòng,
hai khẩu pháo 105 ly đang bắn về hướng quốc lộ đi Phan Thiết. Khỏi chợ chừng
200 thước, súng liên thanh nổ từng tràng ngắn, xen lẫn vào lại có những tiếng
nổ chát chúa của lựu đạn cầm tay. Thật khó mà có môt ý niệm về tình hình. Hai
chiến xa M.48 có ống kính hồng ngoại tuyến bên hông pháo tháp đang tiến về phía
chợ. Các binh sĩ Biệt động quân thì đang bố trí các ổ súng máy phía sau những
đống gạch vụn của gần chục ngôi nhà đã sụp đổ bên phải của bưu điện . Họ cũng
có một số súng phóng lựu M.79, một loại vũ khí tấn công nòng ngắn rất hữu hiệu
trong thế cận chiến. Tôi ngồi phía sau một vách tường đã sụp đổ, và tôi sẽ ở
đây suốt buổi trưa và tối nay.
Vào lúc 6 giờ chiều, một loạt hỏa tiễn rơi vào
chợ. Năm, mười hay mười hai quả gì đó, nổ điếc cả tai.... và sau đó có tiếng la
hét. Nhiều chị đàn bà và trẻ con rách rưới mình đầy máu vừa la vừa băng qua
đường, chạy ùa về phía nhà dòng.
Ở về hướng Đông Bắc, chung quanh sân bay không
còn nghi ngờ gì nữa, nghe có tiếng súng liên thanh nặng bắn liên hồi. Và đùng
một cái pháo binh Bắc Việt nã ngay vào thành phố. Chúng tôi bị kẹp cứng trong
vòng lửa đạn. Không thể đếm được là bao nhiêu quả. Cá nhân tôi chưa từng bị
pháo kích nặng như vậy bao giờ. Các quả đạn pháo binh cày rất có hệ thống từng
căn nhà một, căn nầy sập đến căn khác. Thành phố bị một cái bừa thép cày lên
sới lại.. liên tục trong vòng 2 giờ đồng hồ. Không có môt bóng người nhúc
nhích. Đêm đã bắt đầu xuống, trời nóng bức. Tôi không có gì để ăn, không có gì
để uống, lại không có mũ sắt nữa ! Thật là không ổn tý nào!
Vào lúc 10 giờ , hai trái bom sáng nổ trên
không trung và vô số ngôi sao sáng rơi xuống màn đêm như một cơn mưa ánh
sáng... Tiếp theo đó là đạn pháo binh lại tiếp tục rơi xống thành phố. Lần nầy
là pháo 130 ly. Tôi nghe tiếng đạn đi trên đầu chúng tôi ầm ầm như tiếng tầu
hỏa đang mở hết tốc độ, và ngay sau đó là những tiếng bùng nổ tiếng nầy tiếp
tiếng kia liên tục.. Đất cát, rồi đá sỏi, rồi lửa rồi miểng đạn bắn đi tung tóe
khắp nơi..Và nổi lo sợ làm bụng quặn đau....
Đến khoảng nửa đêm thì ngưng pháo kích. Người
tôi ướt đẩm mồ hôi. Có một sự yên lặng hoàn toàn trong vài giây... và thình
lình tiếng dế nổi lên gáy đều đều môt cách kỳ lạ và bất lịch sự, vì chúng là
những con dế mèn nhỏ bé đâu cần biết đến chiến tranh hay giặc giã là gì, cứ gáy
cứ hát lên một cách bền bỉ và ngạo nghể để mà sống... Con người tìm cách giết
lẫn nhau, dế mèn có gì đâu mà phải lo sợ !
Vào khoảng 3 giờ sáng, bóng đêm lại bất thần
sáng rực lên. Bách kích pháo, súng liên thanh, súng tự động thi nhau nỗ. Từng
đợt một, bộ đội Bắc Việt mỡ những cuộc xung phong . Tiếng hô "Tiến
lên" nghe vang dội. Bấy giờ binh sĩ Biệt động quân mới xử dụng vũ khí của
họ. Súng liên thanh thi nhau quét những làn sóng xung phong của địch, hàng ngàn
tia lửa như điện chớp xé nát màn đêm... các khẩu đại bác pháo binh bắn trực xạ,
bẻ gãy các đợt xung kích, làm im tiếng xung phong của địch. Chung quanh ngôi
chợ, các chiến xa T.54 đang dùng đại bác bắn sập từng ngôi nhà. Chiến xa M.48
của Miền Nam chạm súng với họ trong một cự ly thật ngắn . Cảnh tượng trông thật
là khủng khiếp. Với thân hình nặng nề màu xám và các đại bác nòng dài cứ lóe
sáng lên mỗi lần tác xạ, gợi lên một trận chiến quái dị giữa những con voi
khổng lồ.. Thật hoàn toàn là một trận đụng độ với nhau. Một trận mưa trái sáng
soi tất cả chu vi phòng ngự bằng một ánh sáng mờ nhạt. Hai phi cơ võ trang
C.119, được trang bị liên thanh điện tử (6000 viên phút). nhảy vào vòng chiến,
tác xạ nhanh đến độ tai mình không còn phân biệt được từng tiếng đạn đi, người
ta cứ tưởng đó là tiếng của một miếng tôn thiếc bị xé toẹt ra...
Vào tảng sáng, các phóng pháo cơ A 37 lại đến
dội bom và bắn hỏa tiễn vào phía sau ngôi chợ và cả về hướng phi trường. Binh
sĩ Biệt động quân ra khỏi hầm trú ẩn của họ, vừa tiến lên từng đoạn ngắn vừa
ném lựu đạn. Tôi thấy có 3 người ngã xuống, và người thứ tư thì bị một loạt đạn
vào đầu.
Đến 10 giờ sáng, tôi vẫn ở đằng sau bức tường
của tôi. Tôi thấy hàng trăm binh sĩ Miền Nam đầu đội mũ sắt đang tiến tới . Một
trung úy lúc đi ngang qua bức tường của tôi đã cho lệnh : " Có hơn trăm
tên bộ đội chết bầm đang trốn trong bệnh viện, Mình phải đuổi bọn chúng ra
ngoài."
Vẫn còn đạn pháo và vẫn có một số binh sĩ bị
tung lên trời. Một chiến xa T.54 bị một phát đạn 105 bắn trực xạ giữa xích,
đang cháy khói lên nghi ngút.
Có nhiều chiến xa M.48 đang yểm trợ cho bộ
binh trước bệnh viện. Thời gian trôi qua..có nhiều tiếng hò reo và nổ ì ầm
nhưng cũng có đôi lúc có sự yên lặng tuy ngắn ngủi. Và viện binh đã đến, Binh
sĩ Miền Nam bắt đầu lục soát những căn nhà đổ nát bằng lựu đạn...
Đến 3 giờ chiều, lúc đã im hết tiếng súng
trong thành phố thì tôi rời chổ núp của tôi. Thành phố coi như vẫn còn trong
vòng kiểm soát của Miền Nam Việt Nam. Người ta bắt đầu kiểm điểm xác chết của
quân Bắc Việt. Họ mặc quân phục xanh ô liu và đi giày "tơ nít" hiệu
Bata bằng cao su. Tôi đếm được rải rác chừng 30 bị chôn nừa thân mình dưới
những đống gạch vụn. Một toán nhỏ Biệt động quân đang đẩy trước mặt họ 3 tù
binh, đội nón cối bằng mớp được bọc vải màu xanh, trên nón có gắn môt ngôi sao
bằng đồng. Nom họ còn rất trẻ, cao lắm là 16 hay 17 tuổi. Một trong ba người đó
bị thương ở vai. Xa hơn môt chút, có một T.54 bị hạ, nằm phơi xác dưới một góc
mái hiên đổ sụp. Cách đó vài thước, trước một hiệu thuốc tây vỡ kính, có một
chiến xa của Miền Nam pháo tháp mở rộng, đầu chiến xa bị một viên đạn bộc phá
B.40, đứt hết xích, giống như một con quái vật nằm bất động. Tất cả những tiệm
buôn chung quanh chợ đều bị đạn pháo binh quạt sập đổ xuống hết. Kim Long, một
quán ăn lâu đời nhất của thành phố (nơi mà cách đây 30 năm binh sĩ của trung
đoàn 22 bộ binh của người Pháp (22ème R.I.C.) thường đến đây để ăn hủ tiếu) đã
sập chỉ còn là một đống gạch vụn bị cháy đen.
Bệnh viện chỉ còn là một cái vỏ nám đen vì
khói. Rải rác trong sân là giường chiếu, dụng cụ y khoa, bô, bốc lẫn lộn khắp
nơi với một số tử thi của bộ đội Bắc Việt mất tay mất chân mảnh vụn vung vãi ra
cùng khắp.
Cạnh bên chợ về phía rừng, một xe ủi đất đang
đào một đường dài độ một thước. Và anh em Biệt động quân đang xếp tất cả những
tử thi và những gì còn rơi vãi trên chiến trường vừa qua. Một tuyên úy đi dài
theo đó lẫm nhẫm đọc kinh cầu nguyện lần cuối cùng cho họ, sau đó xe ủi đất đẩy
họ xuống hố và lấp đất lại.Tôi quay trở lại. Gần nhà thờ, dưới hai cây to mà
cành lá đã gảy nát, có khoảng 30 binh sĩ bị thương nặng được cho nằm trên băng
ca. Những chai huyết thanh được treo trên báng súng cắm thẳng đứng xuống đất
bằng lưỡi lê, và từ đó các ống cao su truyền máu thẳng đến kim tiêm vào cho
thương binh. Các y tá đang săn sóc cho họ và vừa đuổi ruồi cho họ vừa trò
chuyện nho nhỏ với họ.
Tôi gặp tướng Đảo trước cửa Nhà Dòng. người
ông nom ốm gầy , có vẻ mệt nhọc.
- "Chúng tôi đã đẩy lui được họ,
ông nói. Đây là một thành quả tốt nhằm nâng cao tinh thần cho anh em binh sĩ và
cho cả hậu phương.. Họ bỏ lại 400 xác trên trận địa và chúng tôi đã hạ được 9
chiến xa T.54, bắt được 20 tù binh trong đó có 1 sĩ quan . Nặng nhất là chiến
trận ở gần phi trường, và phía sau nhà ga.. Bây giờ thì trận tuyến đã phát
triển ở hướng Bắc và hướng Tây, trên cao nguyên Bình Lộc và chung quanh Gia
Kiệm. Anh em phi công báo cho biết là lực lượng cộng sản Bắc Việt đang tập
trung mạnh lắm ở Giá Rai. Anh em Dù đã giải tỏa được ngả ba Suzannah rồi. Tất
cả người Pháp ở đồn điền S.I.P.H. đều an toàn. Các đồn điền cũng không bị thiệt
hại gì sau các cuộc đụng độ ở đó."
Gia Kiệm với 40.000 dân. là một thị trấn rất
phồn thịnh được mọc lên hai bên đường đi Dalat, cách Xuân Lộc khoảng 15 cây số.
Ở đây nhà cửa tiệm tùng sung túc nằm san sát bên nhau, có rào dậu, có lũy tre.
Dân chúng toàn là người công giáo di cư từ Miền Bắc, một lòng với nhau. Không
một người lạ mặt nào lẻn vào được ở đây. Nếu cộng sản Bắc Việt tấn công vào đây
thì nhất định sẽ bị thiệt hại lớn.
Vùng Giá Rai, nơi các đơn vị Bắc Việt tập
trung nhiều nhất, nhờ dựa lưng vào vùng rừng bụi của núi Chứa Chang, một ngọn
núi đất cao khoảng 900 thước, trên đó có gần 3000 giống thảo mộc nhiệt đới mà
Viện Khoa Học Sai Gòn đã ra công gìn giữ. Ngọn núi nầy là một đài quan sát rất
lý tưởng, và dựa vào khu rừng của ngọn núi nầy, cộng sản có thể sẽ tung ra một
cuộc tấn công mới từ phía Đông vào Xuân Lộc.
Vào lúc 5 giờ chiều có một chiếc xe vận tải
nhẹ đi liên lạc với Trảng Bom. Tôi nhảy lên xe đó. Ngã ba Suzannah được đơn vị
Dù trấn giữ, nằm kín trong hố cá nhân, và một số chiến xa thuộc lữ đoàn 3 Thiết
Giáp. Có nhiều xe đã đi phía trước chúng tôi . Đi được khoảng 3 cây số, cách
chúng tôi độ hơn 100 thước, một chiếc xe chở dân chúng bị trúng một quả đạn
pháo. Tiếp theo tiếng nỗ chói tai là bụi, lửa bắn lên tung tóe. Cả chiếc xe và
những người hành khách trên xe đều không còn gì cả ! Chỉ còn trên đường một
chấm đen lớn, và vung vãi thịt xương tóc tai của người chết và mấy mảnh kim khí
của hộp số.. Và như vậy là chỉ trong có một giây đồng hồ, mà trên 20 người dân
vô tội đã bị xóa hẳn tên trong danh sách người Việt.
Ở Việt Nam chuyện đó xảy ra không biết bao
nhiêu lần hằng ngày. Làm sao mà dân tộc nầy, một dân tộc đã bị quá nhiều đau
khổ, chết chóc, đã từng bị xua đuổi khỏi thành phố của họ với đất đai làng mạc
mồ mả bị tàn phá, mà người ta vẫn còn chém giết nhau mãi như vậy dai dẳng năm
nầy qua năm khác một cách bền bỉ và dã man như vậy được ?
Ai sẽ là người chấm dứt được chuyện nầy vĩnh
viễn một ngày nào đó, chấm dứt được cơn ác mộng đẩm máu và đáng ghê tởm nầy cho
người dân vô tội?
CHƯƠNG 10: "CHÚNG TÔI KHÔNG HÈN NHÁT
CHÚNG
TÔI KHÔNG SỢ CHẾT"
Thứ Hai, ngày 14 tháng Tư, 1975
Vừa là Chủ Tịch "Tổng Liên Đoàn Lao Động
Việt Nam", một tổng liên đoàn rất hùng mạnh vừa là Phó Chủ Tịch Tổng Công
Đoàn Công Giáo Quốc Tế, ông Trần quốc Bửu là một người rất có quyền lực và rất
được kính nể. Ở vào trạc tuổi 60, người tuy có hơi gầy nhưng rắn chắc với đôi
mắt sáng ngời, ông luôn luôn ăn mặc rất giản dị với chiếc quần dài màu xám và
một chiếc áo bốn túi nhẹ bỏ ngoài.
Vừa tranh đấu cho lý tưởng quốc gia vừa tranh
đấu cho công đoàn, bị lưu đày ra Côn Sơn trong thập niên 40, ở đó ông từng ở
chung phòng giam với Lê Duẫn, hiện là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông
đã vượt ngục và chỉ huy toán "đặc công 25" nổi danh của ông trong
thời gian trên 5 năm kháng chiến chống Pháp.
Bị tướng một mắt Nguyễn Bình và đội an ninh
chánh trị cộng sản hăm dọa tử hình, vì ông không chịu gia nhập đảng, ông về Sai
Gòn năm 1951 và qua Pháp. Ở đó ông theo học khóa công đoàn từ 1952 đến 1954 ở
đường Montholon, Ba Lê với Tổng Liên Đoàn Lao Công Pháp (C.F.T.C.).
Về lại Sai Gòn, ông thành lập Tổng Công Đoàn
Lao Công Việt Nam (C.T.V.), nơi tập trung 85% lao công Việt Nam .
Tổ chức của ông rất vững mạnh, uy tín và đức
tánh bình dân của ông trong giới cần lao đã giúp ông có nhiều sự nâng đỡ từ các
công đoàn Hoa Kỳ. Cả phía cộng sản cũng muốn chiêu dụ ông. Lê Duẫn người đã từng
ở chung nhà lao với ông ở Côn Sơn, bây giờ là tổng bí thư đảng CSV N đã gởi cho
ông một bức thư riêng để yêu cầu ông đừng đứng chung với "bọn tư
bản", phải giữ "thế trung lập" hoặc"về với chánh nghĩa cách
mạng". Ông Bửu đã trả lời thẳng thừng: "Kinh nghiệm mà tôi đã có được
với phương pháp của ông, và với lòng tôn kính của tôi đối với quốc gia dân tộc
của chúng ta không cho phép tôi tin rằng chủ nghĩa cộng sản là giải đáp duy
nhất cho nguyện vọng của dân tộc chúng ta". Do đó cộng sản đã nhiều lần
mưu sát ông nhưng không thành.
Trụ sở của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam
nằm ở số 14 đại lộ Lê văn Duyệt (đường Verdun cũ) trong môt tòa nhà kiếng lớn,
nóc nhọn thềm cao, kiến trúc theo kiểu Pháp, trước kia là trụ sở của Câu lạc Bộ
Thể Thao Đông Dương.
Ông Trần quốc Bửu tiếp tôi trong phòng làm
việc của ông, một căn phòng rộng lớn sáng sủa, có một bàn lớn và một số ghế
dựa. Trên tường có treo một bức tranh lụa với hình một con trâu màu xám tro,
mõm to, chân đứng dưới ruộng lúa (biểu tượng của Tổng Liên Đoàn là con trâu
trong một bánh xe có răng cưa). Trên một giá đầy sách có treo hình một sĩ quan
Việt Nam còn trẻ, có cài một băng đen trên chéo góc. Ông Trần quốc Bửu bắt gặp
cái nhìn của tôi, liền giải thích :
-"Đó là hình của con trai tôi. tử trận
hồi tháng 10 vừa qua. Thằng nhỏ đẹp trai quá, phải không ? Nó là một đứa rất
gan dạ, thông minh và thẳng tánh. Môn nào nó cũng thành công, học hành, thể
thao, và đường đời nữa. Nó có vợ rất đẹp và nhu mì, và một đứa con trai năm nay
3 tuổi. Nó chỉ huy một đại đội và đóng đồn trong quận lỵ của một quận thuộc
tỉnh Bà rịa. Nó mới vừa được 27 tuổi thì....
Nói tới đây ông Bửu lắc đầu nhè nhẹ, ngưng một
vài giây và tiếp tục với một giọng thật rõ ràng, chậm rãi và có mức độ.
"Tôi muốn nói cho anh nghe về thằng con
trai nầy, anh Pierre ạ. Con trai tôi đã chọn quân đội, không phải vì nó ham
chiến tranh, mà vì chúng ta đang ở trong thời chiến. Nó đánh đấm cũng khá lắm
và đã được khá nhiều huy chương. Chúng tôi khắng khít với nhau lắm. Nó thường
viết thư cho tôi. Vài tháng trước khi chết, nó đã tỏ ra rất băn khoăn lo lắng,
có lúc hoảng sợ nữa. Trong những ngày đầu của tháng 10, nó có gởi cho tôi một
lá thư, để tôi đọc cho anh nghe .
Trần quốc Bửu lấy trong ví ra 3 tờ giấy mà ông
đã xếp thật cẩn thận và ông bắt đầu đọc:
- " Ba kính yêu,
Trong tiểu khu của con tình hình đã đi xuống.
Không phải vì dân chúng đã ngả theo sự tuyên truyền của "phía bên
kia", mà tại vì chúng tôi đang thiếu phương tiện để chiến đấu. Mấy anh
nông dân trong hàng ngũ "nhân dân tự vệ" không có đủ đạn cho súng của
họ, và họ còn phải tìm mua lựu đạn của mấy anh lính chánh quy, thường ít đụng
trận hơn họ. Phần các đơn vị chánh quy thì không phải họ tránh chạm súng, mà cứ
mỗi lần chạm địch, môt địch quân hơn hẳn họ cả về chiến cụ lẫn đạn dược, nên họ
cứ bị tổn thất thật nặng.
Để Ba hiểu rõ hơn tình hình của tụi con, con
phải giải thích cho Ba nghe một vài điểm về kỹ thuật. Cộng sản Bắc Việt thì
dùng chiến xa T. 54 và đại bác 130 ly của Liên Xô. T.54 là loại chiến xa rất
năng động, tuy thô kệch nhưng được bọc sắt rất dày và võ trang hùng mạnh: một
đại bác 100 ly lòng dài với 34 quả đạn trong xe, 2 liên thanh 30 ly, và một
liên thanh 50 ly, có tầm hoạt động 400 cây số đường bán kính. Trong trường hợp
tấn công, tụi con chỉ có ống phóng M.72 (loại ba-zô-ca chống chiến xa). Súng
nầy chỉ xử dụng có một lần, bắn xong là phải vứt ống phóng đi, và nó chỉ thật
sự hữu hiệu trong vòng 100 thước mà thôi. Do đó mình phải bắn chiến xa địch
trên bộ, thật gần, mới trúng đích được . Có nghĩa là mình phải đi bộ đến trong
tầm tác xạ chính xác của vũ khí tự động trên chiến xa địch, để cho người ta
giết chết mình ... mà không chắc là mình sẽ hạ được nó. Trên thực tế muốn tiến
sát đến gần chiến xa thường rất là khó, gần như không thể được, vì lúc nào
chiến xa cũng có "bộ binh tùng thiết" đi mở đường cho nó và bảo vệ
nó. Còn pháo binh 130 ly dù là một loại vũ khí xưa, cũ, trên 20 năm rồi nhưng
là một vũ khí đáng sợ. Nặng khoản 8 tấn, được xe xích kéo, có tầm tác xạ tới 27
cây số và có thể bắn đi 6 quả đạn trong một phút. Chỉ cần có 3 khẩu pháo 130
dấu kín trong rừng, và với 1 giờ tác xạ (1000 quả đạn thôi) cũng đủ đánh sập
quận lỵ của bất cứ một quận nào. Đạn pháo 130 ly có thể phá vỡ một miếng thép
dày 27 ly, cho nên không có một kiến trúc nào, một công sự nào chịu nổi sức
công phá của loại pháo nầy. Dân chúng bỏ chạy hết và quân đội của tụi con không
thể nào chống trả mà không bị thiệt hại nặng vì chúng tôi chỉ có pháo binh 105
ly với tầm tác xạ ngắn hơn nhiều , và đạn pháo thì được đếm từng quả, 3 viên
cho một khẩu trong một ngày, trong lúc địch thì được tiếp tế quá dồi dào về đạn
dược.
Để khóa miệng mấy khẩu pháo binh cộng sản nầy,
chúng ta bắt buộc phải có ưu thế tuyệt đối về Không quân. Điều nầy rất đúng
trên lý thuyết, nhưng hoàn toàn sai trên thực tế.. Từ khi có cuộc khủng khoảng
xăng dầu, trực thăng quan sát và thám thính của chúng ta chỉ được phép bay có 3
giờ mỗi ngày. Ngoài ra cộng sản còn được trang bị hoả tiễn tầm nhiệt S.A.7 rất
dễ xử dụng và rất chính xác để vô hiệu hóa các loại phi cơ của chúng ta .
Thưa Ba yêu quý,
Con biết rằng Ba có nhiều mối liên hệ với
người Mỹ. Cương vị Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động của Ba sẽ giúp Ba có tiếng
nói mạnh hơn. Ba phải giải thích cho họ hiểu rằng tình hình ở đây đã rất là
nghiêm trọng lắm rồi. Họ phải cung cấp cho chúng ta vũ khí cần thiết, như hỏa
tiễn Tows trên thớt cơ động, và trực thăng võ trang "cobra" trang bị
chuyên về chống chiến xa. Họ có hết các thứ nầy mà tại sao họ từ chối ? Họ phải
viện trợ cho chúng ta về quân sự và kỹ thuật như họ đã hứa. Tôi yêu cầu Ba, Ba
ơi, Ba hãy can thiệp với họ. Nếu không thì chúng ta sẽ bị đè bẹp và bại trận
ngay. Chúng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Chúng tôi không bao giờ sợ chết. Với
điều kiện là còn giữ được một cơ may để chiến thắng, hay là để chống cự với
cộng sản có hiệu quả.
Xin Ba tha lỗi cho con vì bắt Ba phải nghe một
tờ trình quân sự quá dài dòng. Trong tiểu khu của con, số lần chạm súng và số
lần tác xạ của pháo binh tăng lên theo cấp số nhân. Dù sao thì con cũng giữ
được đồn của con và con sẽ không rút đi đâu hết..... dĩ nhiên là vẫn còn sống.
Binh sĩ của con theo con, và dân chúng vẫn tin tưởng nơi chúng con.
Đứa con lúc nào cũng kính mến và trung thành
của Ba"
Ông Bửu từ từ xếp lá thư lại, đằng hắng để lấy
giọng và để dằn cơn xúc cảm lại rồi mới tiếp tục:
- " Tất cả mọi thất bại của chúng tôi đều
được gói gọn trong những hàng nầy. Tôi nhận được thư nầy của con tôi sau chuyến
đi thăm Á Châu và Âu Châu của tôi trở về. Khi tôi đọc được lá thư nầy thì con
tôi đã tử trận được3 ngày rồi.
- Ông có nói gì cho người Mỹ họ nghe không ?
- Dĩ nhiên là có. Tôi đã gặp Đại sứ Martin, và
các tùy viên quân sự Hoa Kỳ . Tôi cũng có viết thư qua Mỹ. Không có người nào
nghi ngờ về những tin tức của tôi. Ông Đại sứ và các tùy viên quân sự đã có ghi
chú đầy đủ, và tôi cũng nhận thấy thực tình họ đang quá bận rộn. Nhưng không
thấy có ai làm gì hết, tôi muốn nói là họ không có một biện pháp cụ thể nào cả.
- Như vậy cái gì sẽ xảy ra ?
- Chuyện gì cũng được hết ! Các ông dân cử
chắc sẽ nhúc nhích.Tổng Thống Ford sẽ có những lời tuyên bố dễ nghe. Quốc Hội
sẽ kéo dài các cuộc tranh cãi để khỏi phải chuẩn chi ngân khoản viện trợ. Ông
Thiệu sẽ ra đi hay sẽ để bị ám sát. Các sĩ quan và binh sĩ trẻ và tự hào như
con trai tôi sẽ bị hy sinh vì danh dự, hay vì để kéo dài thêm thời gian cho một
vài chánh trị gia tự phụ kịp leo lên nắm quyền, Đủ thời gian để dàn dựng một
kịch bản tưởng như bất thần được ứng biến, mà thật ra đã được viết sẵn từ lâu..
Người Mỹ sẽ đóng cửa các văn phòng cuối cùng của họ. Hạm đội 7 sẽ có mặt tuần
rỏn ở biển Đông.
Rồi cộng sản sẽ chiếm Sai Gòn . Và tất cả lỗi
đều sẽ được đổ hết cho chúng tôi !!.
°
°
"Đây thật đúng là thời điểm để trở lại
nhận xét nghiêm túc về Hiệp Định Paris . Chế độ cảnh sát và quân đội của ông
Thiệu phải nhường chỗ cho những người đại diện, có trách nhiệm và xứng đáng
hơn, để họ bắt đầu một cuộc nói chuyện thành thực và nghiêm chỉnh với cộng sản
trước khi đã quá trễ. "
Người nói với tôi lời tuyên bố nầy là Nghị sĩ
Vũ văn Mẫu, tiến sĩ luật xuất thân từ trường Đại Học Luật khoa ở Paris, (đúng
như tấm biển treo trước văn phòng luật sư của ông), và Chủ Tịch Phong Trào Hòa
Giải Quốc Gia, một phong trào của Phật giáo quy tụ những người chống đối dai
dẳng nhứt của ông Thiệu.
Nhỏ người, tròn trịa, khoảng sáu mươi, hay
lăng xăng quậy phá, với gương mặt xương xẩu và giọng nói thanh tao kỳ lạ, là
luật sư cho các công ty xăng dầu (Shell và Socony) , ông Mẫu là một người giàu
có và liến thoắng, khôn khéo và cơ hội chủ nghĩa hơn là thành thực và quả cảm.
Dân Sai Gòn không hề thích ông, một phần vì ông gốc người Miền Bắc, một phần vì
họ thấy ông kiêu căng và xảo trá. Dù sao thì ông cũng thông minh và lanh lợi.
Ông đã từng là Tổng trưởng Ngoại giao của Tổng Thống Ngô đình Diệm, đã nhiệt
tình và hết lòng phục vụ Tổng Thống Diệm và ủng hộ đường lối cương quyết chống
cộng, nhưng sau đó, khi có cuộc khủng khoảng Phật Giáo, ông tự từ chức và cạo
đầu để chứng tỏ một lòng với sự tranh đấu của các sư sãi. Ba tháng sau đó thì
Tổng Thống Diệm bị sát hại.
Tin chắc là Phật tử đang cần có một người
"lãnh đạo thực sự" nên ông Mẫu đi sát với các sư cốt cán của chùa Ấn
Quang, những người chống đối tất cả mọi hình thức của chế độ quân nhân, và với
sự yểm trợ của họ, ông đắc cử Nghị sĩ.
Trước hết ông đụng ngay ông tướng Kỳ, sau đó
mới tới ông Thiệu.
Cuối năm 1973, lúc ông Thiệu định cho sửa đổi
Hiến Pháp nhằm ra tranh cử Tổng Thống một nhiệm kỳ thứ ba, Vũ văn Mẫu lại cạo đầu
một lần nữa để chống đối, và tuyên bố là chỉ để tóc lại "ngày nào mà chế
độ độc tài được cáo chung" . Từ đó ông được thêm một biệt danh là
"thợ cạo hàn thử biểu"
- "Ông Thiệu đã dối gạt tất cả mọi người,
trừ tôi, Chỉ có một cách để chấm dứt cuộc chiến, là cho ông Thiệu đi và đưa
tướng Minh lên thay thế ông ta. Ông Mẫu nói với tôi bằng một giọng lạ lùng của
một cậu bé hỗn xược.
- Còn Hiến Pháp thì sao ?
Bằng một cử chỉ kiên quyết, ông gạt phăng luận
cứ nầy:
- " Ông Thiệu đã vi phạm Hiến Pháp để
tiếp tục chiến tranh. Ai cấm cản chúng tôi vi phạm Hiến Pháp để đem lại hòa
bình ? Chúng tôi sẽ tìm được đa số tương tự để làm chuyện đó.
- Và người nào sẽ là Thủ Tướng ?
- Tôi !
Luật sư Vũ văn Mẫu phá lên cười nắc nẻ có vẻ
bực tức, sau đó làm mghiêm trở lại, và nói tiếp với một giọng tâm tình:
- Ông biết không, tôi tốt với tướng Minh lắm.
Ông đã có nói với tôi là ông rất cần môt người giỏi về luật để bàn cãi với cộng
sản... và ông đã nhắm vào tôi.
- Ông tin thật là có thể thương thảo trong
khuôn khổ Hiệp Định Paris à ?
- Không có một căn bản nào khác để mà
thương thảo, và đây là nghề của tôi, nghề bàn cãi, biện hộ, thuyết phục và ngay
cả dùng mưu nữa. Tôi biết bênh vực cho một hồ sơ, tin tôi đi. Khó mà có thể bắt
bí tôi lắm, tôi sẽ dùng một luận cứ mà không một ai dám làm. Một khi tôi lên
rồi, tôi sẽ đòi hỏi tất cả người Mỹ phải rời khỏi ngay đất nước nầy trong vòng
24 tiếng đồng hồ, và ông hãy tin tôi đi, họ sẽ đi ngay cho ông xem ! Ông có vẻ
hoài nghi hả ? ông sai rồi. Đây nầy, tôi cho ông một cái hẹn trước ba tuần lễ ở
Dinh Độc Lập. Tôi sẽ là Thủ Tướng, tôi sẽ tiếp ông, và chừng đó ông sẽ thấy là
tôi giữ lời hứa của tôi.
Vô liêm sỉ?... hay là biết chắc một trò chơi
mà ông ta đã nắm được những con bài chủ nhưng không muốn trưng ra?
Tôi nghiêng về giả thuyết thứ hai. Vì Luật sư
Vũ văn Mẫu là con người không bao giờ chịu liều lĩnh.
CHƯƠNG 11: VỚI ĐOÀN NGƯỜI CHẠY LOẠN
Thứ Ba, ngày 15 tháng Tư năm 1975
Sau một đợt nghỉ ngơi khoảng 30 giờ, trận chiến Xuân Lộc lại tái
diễn. Từng đợt cách nhau khoảng 30 phút, hai trung đoàn cộng sản Bắc Việt được
một tiểu đoàn chiến xa T.54 dẫn đầu tràn ra tấn công vào các vị trí của Biệt
động quân và của sư đoàn 18 bộ binh .Bị đẩy lui với tổn thất nặng nề, hơn 1000
tử thương và 21 chiến xa bị hạ, họ lại tấn kích với một trung đoàn thứ ba, và
trận chiến khốc liệt lại tiếp tục.
Sau khi lệnh giới nghiêm vừa chấm dứt tôi lại đi lên Biên Hòa. Ở
đó tôi tìm lên được một chiếc xe vận tải chở đầy thùng cây đi Trãng Bom. Một
khi lên ngồi giữa hai thùng cây rồi tôi mới khám phá ra đó toàn là những thùng
lựu đạn và đạn được chở ra Tràng Bom. Nếu xe nầy mà lãnh một quả đạn pháo của
Bắc Việt thì tất cả những bài toán về tài chánh của tôi đều tức khắc được giải
quyết.
Trời quá nóng, cái nóng của mùa khô ờ đây, với ánh nắng chói
chang trong vắt. Xe cộ đều để lại vết hằn trên đường nhựa đang mềm đi vì sức
nóng. Hai bên đường nhìn mút mắt là những rẩy rau cải được trồng ngay ngắn từng
ô vuông vắn ... Chúng tôi đi qua Hố Nai, một trấn nhỏ với 60000 dân công giáo
di cư từ Miền Bắc vào năm 1954. Hai bên con đường chính dẫn vào trấn Hố Nai. có
những tiệm buôn, những quán nhỏ bán đồ mỹ nghệ, và có một ngôi thánh đường hùng
vĩ nằm ngay sau một bồn cỏ tròn, nơi đó các trẻ em đang chơi, quanh 3 linh mục
mặc áo dòng đen.
Chiếc xe vọt lên con đường dẫn đến một khu đồi. Hai chục cây số
nữa là đến Trãng Bom rồi. Có mấy chiếc trực thăng đang lượn quanh, mấy hàng
binh sĩ đội nón sắt, và hai pháo đội 155 ly , tất cả đang trong cảnh ì ầm của
chiến trận. Có nhiều chiến xa lớn, mang đầy cành lá, đại bác chĩa ra phía
trước, đang tung tăng trong một đám bụi như có mùi thuốc súng. Còn vài cây số
nữa thì đến thị trấn, xe của tôi phải ngừng lại một lúc ở một ụ đất được đấp
lên trước một tượng đài bằng đá, dựng lên để kỷ niệm cho những người thợ rừng
đầu tiên người Pháp chết ở Nam Kỳ (nguyên tác: Cochinchine). Ngày xưa ở phía
sau tượng đài nầy là một trong những vườn bách thảo phong phú nhất ở vùng Đông
Nam Á: có đến 6000 loại cây giống, cây kiểng, và lan quí, đã được chọn trồng
trong gần 70 năm. Bây giờ thì không còn gì nữa cả , vì vào năm 1968, người Mỹ
đã ủi bỏ và đốt sạch để cho hai bên đường được trống trải, dễ giữ an ninh cho
các đoàn xe. Ở chỗ vườn cây giống bây giờ chỉ còn lại một bãi cỏ ngắn èo uột và
vài cây chuối khô cằn.
Chiếc xe của tôi tiếp tục đi trong vòng 5 hay 6 cây số nữa giữa
những làng xóm tiếp giáp nhau, sau đó rẽ sang trái, đi vào một con đường đất gồ
ghề dẫn tới một lô trồng cao su. Giữa những hàng cây cao su cách nhau chừng 10 thườc,
tôi thấy các chiến xa đang trấn giữ một khoảng đất trống khá rộng. Chạy đến
khoảng trống đó chiếc xe của tôi ngừng lại và những anh lính thiết giáp còn trẻ
cởi trần trùng trục chạy ra nhận các thùng đạn và lựu đạn tiếp tế. Tôi nhảy
xuống đất. Hai xe cứu thương từ mặt trận đưa những thương binh về đây, các băng
ca được khiêng đến một chiếc lều kaki lớn, ờ đó có một toán quân y lưu động
đang làm việc. Anh em binh sĩ tản ra, tôi nhận ra được đại úy Niệm trên một
băng ca, đại úy Biệt động quân mà tôi đã quá giang với ông hôm thứ sáu vừa qua.
Mặt ông nhợt nhạt, đôi môi cắn chặt lại, ông bị mất bàn tay trái. Vết thương
chưa được băng bó lại, trông thật là thiểu não, máu tươi thỉnh thoảng từ cánh
tay bắn lên, và gân tay chỗ đó hình như nát hết. Tôi đi theo băng ca của ông
đến toán quân y Tôi nắm thật chặt bàn tay mặt của ông, ông nhìn tôi, nhíu mày
lại. Một đại úy quân y gạt tôi ra và nói: "Ông cứ để anh ta ở đây, tôi sẽ
lo cho ông ta ngay." Tôi trở lại một trong những xe cứu thương đang trở ra
đường và ngồi đằng sau với anh em khiêng cáng. Sàn xe nơi để các băng ca vương
vãi đầy vết máu và đầy "cứt đái", xông lên một mùi nồng nặc, mùi hôi
thúi của phần phía dưới bụng bị vỡ tung ra, gần như có mùi của sự chết chóc,
của tử thần ...
Xe rẽ về trái và chạy về hướng lửa đạn của mặt trận. Độ chừng 15
phút sau chúng tôi ngừng lại. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn vì được thở không khí
trong lành hơn. Chúng tôi đang ở ngay làng Hậu Nghĩa, làng cuối cùng trước khi
đến Ngã ba Suzannah.
Nằm dài theo các hố bên dường, cách nhau chừng 5 thước một, hàng
trăm binh sĩ đầu đội nón sắt đang hút thuốc nghỉ xả hơi chờ tiến ra trận. Toàn
là những người vạm vở, lớn con, rạm nắng, và có đôi tay kệch cộm của người nông
dân quen làm đất. Con đường hiện đang bị nghẽn vì một đoàn dân chạy loạn quá
dài. Hàng ngàn người chạy giặc đang đi lần xuống Trãng Bom, hết làng nầy đến
làng khác. Có những chiếc xe bò, có những xe ba bánh chở đầy đến bánh xe muốn
sạt ra vì chở quá nhiều bao lúa quá nặng, có nhiều chiếc xe đạp đã chở cả 3 đứa
con trên sườn trước rồi lại còn đèo thêm đứa thứ tư phía sau. Họ đến từ đường
đi Dalat, tù Túc Trưng hay từ Gia Kiệm. Họ đi trong yên lặng, trang nghiêm đáng
kính và nghèo khổ, vì họ đã bỏ hết tất cả lại sau lưng họ, từ làng mạc trù phú
đến nhà cửa ruộng vườn, mùa màng của họ, và cả mồ mã của ông cha nữa.!.
Đoàn quân tiếp tục tiến tới và băng xuyên qua một miếng ruộng cỏ
ngắn, có từng bờ đê vuông lác đác có vài đống đất khô nhỏ làm bụi đỏ tung lên
theo bước chân của chúng tôi . Tôi tìm một sĩ quan và cuối cùng gặp được một người,
đại úy Châu. Ông vừa đi vừa giải thích cho tôi nghe :
- " Cộng sản muốn bao vây Xuân Lộc và cắt đứt hậu tuyến của
chúng tôi ở phía sau ngã ba Dầu Giây (tức Suzannah). Trực thăng chúng tôi đã đổ 1000 binh
sĩ Dù xuống bìa rừng phía Tây của thị trấn nầy để tăng cường cho lực lượng
phòng thủ ở đó. Hai trực thăng đã bị cao xạ phòng không Bắc Việt bắn rớt. Và
lực lượng Dù đã chạm súng rất nặng, nhưng họ vẫn còn bám đất.
Hiện giờ chiến trận đang mở rộng trên 10 cây số về hướng Tây Bắc
giữa Gia Kiệm và Suzsnnah. Hai bên đang đành nhau trên các đường xe be và trong
các lô cao su. Cộng sản Bắc Việt đang cố cho bám chặt các trục di chuyển của
chúng tôi bằng những toán đặc công được võ trang rất hùng hậu, và cố giữ chúng
tôi để báo cho pháo binh của họ nện chúng tôi . Cách đây không đầy 7 cây số
đang có một cuộc chạm súng lớn lắm , vậy ông đừng rời khỏi hàng quân
nghen!"
Chúng tôi càng tiến tới thì càng nghe tiếng đại bác rõ hơn. Các
phi cơ khu trục phóng pháo bay ngang chúng tôi thật thấp và chỉ vài giây sau
tiếng rú là chúng tôi nghe được tiếng bom nổ điếc tai làm rung chuyển trận
địa.. Các khu trục nối tiếp nhau từng đợt 3 chiếc một, cách khoảng nhau chừng
20 giây.
Chúng tôi tiến lên đã được hơn một giờ rồi. Con đường mòn đi sâu
vào một rẽo đất có hàng tre già và vườn chuối bao quanh.Thình lình một tràng
đạn pháo nổ trên con đường mòn trước mặt chúng tôi chừng vài chục thước. .
Anh em binh sĩ nhảy xuống mấy cái hố, đặt súng máy và bắn vào
các hàng tre nhiều loạt đạn. Bộ đội Bắc Việt không còn xa nữa đâu. Tôi bám theo
đại úy Châu. đang dùng máy truyền tin cho lệnh bố trí các trung đội của ông.
Một số đạn pháo khác đang nổ trong bờ chuối, phạt ngã một số. Xuyên qua kẻ hở
của vườn chuối vừa bị phạt ngã, tôi thấy có mấy cái nhà lá đang bốc cháy. những
nhóm thường dân từ bốn phía chạy túa ra, đàn bà thì mặc đồ đen, đội nón lá, tay
dắt con, tay xách bọc quần áo chạy băng ra đường mòn. Một chị bị một mảnh đạn
vào bụng té sấp xuống phia trước như một con thỏ bị đạn trong lúc đang chạy.
Một bé trai bị thương ở trán, máu chảy đỏ cả chiếc áo trắng của em, vừa đi, vừa
run vừa khóc. Một em bé gái ốm yếu nắm vai em lại và dắt em đi .
Anh em binh sĩ đã tiến đến bờ dậu của mấy căn nhà lá đang cháy
với tiếng lên cò súng nghe lắc cắc. Một số thường dân chạy túa ra từ các hầm
trú ẩn và chạy xuyên qua cánh đồng. Họ lợi dụng sự tiến quân của binh lính
Chánh Phủ để cố chạy ra thẳng quốc lộ trước mặt họ. Các khu trục phóng pháo cơ
đang dùng đại bác yểm trợ quân bạn chừng trăm thước trước mặt chúng tôi. Có
nhiều cột khói lên thẳng trên không trung. Hàng quân bị đạn bách kích pháo chận
đứng lại. Có mộ số bị thương. Đại úy Châu nói nhanh với tôi :
- "Anh hãy đi với đám thường dân lánh nạn nầy đi. Không có
gì ở đây đáng cho anh xem nữa đâu.. Rồi anh sẽ bị bắn gục như một con thú vậy.
"
Và tôi quay gót trở lại con đường mòn, đi ra quốc lộ.
Trở lại con đường, qua khỏi bờ tre, đến cánh đồng trống, tôi
nhập vào với đoàn người chạy di lánh nạn. Đoàn người quá dài đang sắp rời khòi
cánh đồng. Có nhiều người bị thương, một ông già lạ thường với chiếc áo trắng
và nón cối kiểu thực dân, đang lảo đảo đi vì một vết thương to bằng nấm tay
trên vai . Ông đi chừng trăm thước là ngã quỵ xuống. Tôi cố gắng đở ông ta dậy,
nhưng ông không còn nhúch nhích gì nữa, ông đã chết rồi ! Một bà mẹ đi ngang
qua tôi, vai gánh một đôi gióng. Có một em bé phúng phính má bầu được cho ngồi
trên một cái gối đặt ở một đầu gióng đang vô tư đùa nghịch theo nhịp đi của bà
mẹ. Phía bên mặt của tôi cũng có một bà khác mặt mày biến dạng lơ láo vì lo sợ
và đau khổ, vừa đi vừa lớn tiếng cầu nguyện. Bà ôm cứng đứa con gái khoảng 4
hay 5 tuổi vào lòng, bị trúng đạn ở đầu, tóc tai bê bết máu. Trông thật là
thiểu não chịu không nổi !
Tôi đang ở đây, lẫn lộn với một dân tộc mà tôi rất thương. Tôi
được sanh ra trong lòng dân tộc nầy, tôi lớn lên trên đất nước của họ phần nào
cũng là đất nước của tôi, mà giờ đây tôi chỉ đứng nhìn họ đang đau khổ, đang
chết dần mà không làm gì hơn được, chỉ biết cùng đi trên con đường này với họ
mà không có một miếng thuốc, không có một cuốn băng, cũng không thể bế giùm một
trong những đứa bé nầy, vì chúng hiện là tài sản quý báu nhất mà mẹ của chúng
không lúc nào muốn buông ra, và tôi rất hiểu tâm trạng của họ. Nhưng mà tôi
muốn kêu lên, muốn hét lên thật to để cho cả thế giới cùng được nghe: "Hãy
để cho họ được sống ! hãy chấm dứt sự đau khổ của họ đi..! hãy xúm nhau lại để
ra sức cố dập tắt giùm các họng súng đi....."
Nhưng làng mạc cứ thay nhau cháy ... hết làng nầy đến làng khác,
như những bó đuốc.. và dân chúng nghèo khổ chạy trốn với con cái của họ, quá
ray rức vì nỗi lo sợ. Tôi chỉ là một nhân chứng không có một chút quyền hành .
Quá thất vọng, người mẹ ôm chặt đứa con gái bị thương chỉ còn biết kêu Trời,
gọi Chúa xin Người hãy ban cho sự cứu giúp.
Cuối cùng thì đoàn người lánh nạn cũng ra đến quốc lộ. Có nhiều
xe vận tải đang chờ họ. Một số Dân vệ và sinh viên công giáo tình nguyện từ Hố
Nai đến, đã giúp đưa họ lên xe.
Đối với những người nầy, coi như cơn ác mộng tạm chấm dứt. Nhưng
còn những người khác, hằng ngàn người khác còn đang lang thang trong rừng nằm
giữa hai lằn đạn của đơn vị Dù và bộ đội Bắc Việt, dưới tầm đại bác của các
chiến xa đang bắn nhau, dưới các quả đạn của bách kích pháo, của pháo binh, của
hỏa tiễn, và cả dưới bom đạn của phi cơ. Họ đang kẹt cứng trong cái bẫy sập của
hai bên Miền Nam và Miền Bắc đang ra sức hăng say tiêu diệt lẫn nhau ...
Đến Trãng Bom, lúc tôi rời khỏi đoàn dân lánh nạn mà không có đủ
can đảm dám nói với họ được nửa lời, thì một thiếu tá chỉ huy một đơn vị Dù tưởng
tôi là một nhà báo Mỹ chụp cổ tôi và cho tôi một câu với một giọng khinh bĩ :
" Ê ! Nầy anh Mỹ kia, ở chiến trường về, anh hãy viết rõ trong tờ báo của
anh là lính Dù Miền Nam chúng tôi không cần phải có đô la mới có đủ can đảm
chết cho Đất nước chúng tôi đâu nghen !"
°
°
Thủ đô Phnom Penh đang trong cơn hấp hối. Quân Khmer Đỏ chỉ còn
5 cây số nữa là đến phi trường Pochentong, một phi trường mà họ đang nện bằng
bách kích pháo hạng nặng và các loại Súng Không Zdật (SKZ) Các phi cơ vận tải
loại nặng của Hoa Kỳ còn có nhiệm vụ tiếp tế cho Thủ đô nầy, đáp xuống mà vẫn
cho máy nổ, bỏ hàng xuống thật nhanh trong vài phút xong cất cánh bay lên ngay,
dưới những tràng đạn pháo.
Tất cả nhân viên dân sự người Campuchia làm việc cho phi trường
đều nghỉ hết. Việc hướng dẫn cho phi cơ Mỹ đáp xuống được tiến hành bằng các
đài kiểm soát không lưu lưu động được thiết lập tạm dưới đất, trên các nạn
chống, tháo ráp ra được . Tòa đại sứ Hoa Kỳ, cơ sở ngoại giao duy nhất còn làm
việc ở Nam Vang, đã cho di tản hết ba phần tư nhân viên và tất cả hồ sơ lưu
trữ. Phần lớn các nhà báo đều đã rời khỏi đây.
Các bệnh viện đầy người bị thương, chất nằm trên băng ca đặt ờ
ngoài các hàng hiên. Dân chúng, điềm nhiên và thụ động, lo chôn cất những người
chết một cách yên lặng. Những người dân chạy loạn tiếp tục đổ về đây, che lều
trại bằng ván thùng, bằng giấy bồi hay bất cứ thứ gì mà họ kiếm được kể cả lá
chuối và những mảnh tôn vụn , và nằm tràn lan khắp các lề đường. Đôi khi, sau
một tiếng nổ khủng khiếp, một quả đạn hỏa tiễn cuốn phăng đi cả hàng chục căn
lều tạm bợ nầy, vứt ra đường những mãnh vụn của thân người nát bét cùng với nồi
niêu, ván, gổ.. giữa những vũng máu tươi to lớn.
Dửng dưng với thảm cảnh chung quanh chúng, những con bò sữa đói
khát đang tìm gậm vài cọng cỏ hiếm hoi trong các công viên. Tất cả các xe cộ
nhất là các mô tô và xcutơ đã không còn chạy được nữa vì không có xăng, được
dành cho xe vận tải công cộng và quân xa..
Chánh Phủ đã mang về từ Kompong Cham và Siemreap 8000 quân nhân
để tăng cường và hiện có 30 tiểu đoàn đang nằm chung quanh thủ đô.. Nhờ có cầu
không vận, họ còn được 20 ngày lương thực và đạn dược, Từ khi chiếm được Neak
Luông, một vị trí then chốt trên sông Cửu Long, quân Khmer Đỏ đang sẵn sàng dàn
hàng ngang đến 60 tiểu đoàn. Quân trú phòng Neak Luông đã chống cự suốt trong
hai tháng nhưng cuối cùng vị trí nầy đã thất thủ ngày 1 tháng 4 trong những
điều kiện hơi phi lý.
Ngày đó, vào lúc 12 giờ trưa, thống tướng Lon Nol từ dinh
Chamcar-Mon dùng trực thăng bay ra phi trường Pochentong để rời vĩnh viễn khỏi Campuchia
trên một phi cơ Hoa Kỳ . Một tiếng đồng hồ trước khi ông rời khỏi sân bay, tất
cả các đơn vị Không quân chiến đấu của Campuchia (trên 30 chiếc khu trục T.28)
đều nhận được lệnh cấm bay vì lý do an ninh (sợ họ mưu sát thống tướng Lon Nol)
nên tất cả đều nằm bất động tại chỗ dưới đất.
Vào lúc 12 giờ 15, tướng Limsi- Seath chỉ huy căn cứ NeakLuong,
nơi binh sĩ vừa đẩy lui một cuộc tấn công của Khmer Đỏ dữ dội đến độ có lúc
phải đánh xáp lá cà, đã lên tiếng trên máy truyền tin :
"Tôi đòi hỏi một sự yểm trỡ cao độ của tất cả các khu trục
còn xử dụng được để đánh mạnh địch quân trước khi họ tái tổ chức được trên
tuyến xuất phát và trở lại tấn công chúng tôi. Đó là cơ may duy nhất để giữ
vững được Neak Luong, nếu không thì tối đa chỉ trong hai giờ nữa thôi thì chúng
tôi sẽ bị tràn ngập."
Bộ Tổng Tham Mưu của Phnom Penh chỉ biết trả lời là "Do
lệnh thượng cấp, các khu trục không được cất cánh"
Và như thế là 2 giờ sau đó, Neak Luong thất thủ. Tướng
Limsi-Seat bị thương, 80 sĩ quan và 2000 binh sĩ bị bắt làm tù binh với cả pháo
đội 6 khẩu 105 ly.
Quân Khmer Đỏ dùng 6 khẩu pháo 105 ly đó để bắn vào thủ đô coi
như để dọn đường chuẫn bị cho trận tấn kích cuối cùng của họ vào Phnom Penh. Họ
hy vọng chiếm được thủ đô trong dịp đầu năm âm lịch của họ (từ 13 đến 15 tháng
4 dương lịch). Như vậy là quân thủ thành sấp được hưởng một cái Tết hứa hẹn là
sẽ khủng khiếp và đầy tang tóc vì họ đang bị vây khổn trong một cái rọ sắt đầy
lửa.
Chiếc hàng không mẫu hạm Okinawa (chuyên chở trực thăng) đậu tại
cảng Kompong Som (trước kia là Sihanouk-ville) với 120 trực thăng và 900 Thủy
quân lục chiến, sẽ can thiệp để bảo đảm sự "di tản" trong vòng trật
tự và an toàn của 80 hay 90 người Mỹ còn đang có mặt tại Phnom Penh. Dĩ nhiên
họ cũng sẽ lo cho một vài nhân vật Campuchia nào đã dính sâu vào cuộc chiến và
những người khá giả giàu có.
Nhưng còn 3 triệu người dân
tị nạn đã bỏ tỉnh bỏ làng chạy loạn, bỏ hết tất cả.... để "chọn tự
do" và cần có sự bảo vệ của những người thuộc chế độ Cộng Hòa "đồng
minh của Hoa Kỳ" thì phải ở lại trong cái bẫy đang từ từ đóng sập xuống
trên đầu họ. Đó là những nông dân nghèo khổ, chất phát và dễ tin. Vả lại, họ sẽ
làm được gì nếu người ta mang họ ra ngoại quốc ? Họ không biết nói tiếng Anh,
Họ lại không có tiền và cũng không có một ai là thân nhân ở đó ? Họ không có
con còn nhỏ và trần truồng mà họ chỉ ôm trong tay những bình tro hài cốt mà họ
sẽ đem đi chôn ở các chùa. Tro cốt của những người đàn ông rạm nắng vì phải lội
sình hằng ngày dưới ruộng sâu, đi theo sau những con trâu đen mập mạp nhưng ngu
đần, không có thì giờ để kịp nghe theo lệnh gọi lên tỉnh thành để nhập ngũ đánh
đuổi giặc "Việt Nam xăm lược" ! Họ đã giết người Khmer và chết vì bị
người Khmer giết, và không một ai biết được, hay vì họ không muốn và cũng không
cần biết, biết tại sao họ chết, chết cho ai hay chết bằng cách nào ....
No comments:
Post a Comment