Tuesday, March 11, 2014

HỒI KÝ THÉP ĐEN - ĐẶNG CHÍ BÌNH - PHẦN 9


1.  Giã  Từ  Hỏa  Lò

Mưa vẫn nhì nhẹt rả rích lê thê, gió Đông hàn từng làn tái tê, vẫn gầm rít vi vu, cả bầu trời xám xịt đìu hiu. Chiếc xe vẫn nặng nề, lầm lủi tiến ra ngoại thành, phía Bắc Hà Nội.
Từ nãy, tâm tư tôi đầp ắp bao nhiêu nỗi niềm đầy vơi trong nỗi chia cắt, mối yêu đầu của người con gái đất Hưng Yên nhiều màu mỡ và trong cảnh giã biệt Hỏa Lò, nơi sáu năm dài đằng đẵng, chồng chất bao nhiêu cuồng phong bão tố của đời tôi.
Những hình ảnh lúc chia ly ở cổng Hỏa Lò, đang bao trùm đè nặng tâm trí tôi. Mắt tôi mở nhưng như mơ, chẳng nhận rõ vật gì, thì đột nhiên một tiếng quát giật giọng “Đứng lại” của một tên công an vũ trang, làm tôi bàng hoàng như choàng tỉnh một cơn mê.
Chiếc xe ọp ẹp cũ kỹ đang từ từ ngừng lại. Nhanh như một con sóc, tên công an vũ trang vừa quát đã nhảy xuống đường. Tên cảnh sát ngồi ở trên chỗ tài xế cũng đã nhảy xuống theo. Hai tên đang hộc tốc đuổi theo một chiếc bóng con con chạy lủi vào một đám cây xanh, phía bên phải đường. Thì ra đây đã là con đường lên Hòa Bình, đã xa Hà Nội rồi.
“Đoàng!” Một tiếng súng nổ rổn rang vào mưa Đông, rồi hai tiếng súng nữa liền nhau. Một tiếng hét rống lên như con dê bị thọc tiết, trải dài vào mưa gió nghe thật thê lương thảm thiết. Trong xe ồn ào, nhiều đứa trẻ nhấp nhổm nhớn nhác. Tên công an vũ trang còn lại trên xe vật ngang khẩu CKC, lách cách lên đạn quát:
- Tất cả chúng mày ngồi im, đứa nào lộn xộn tao xử lý!
Lúc này tôi mới để ý toàn bộ trong xe; ngoài gần hai chục đứa nhừng nhừng nhỡ nhỡ lại có sáu, bảy đứa con gái, trong đó có hai đứa lớn, mười lăm, mười sáu tuổi. Tôi nhớ lại lúc ở cổng Hỏa Lò, khi lên xe vì tay tôi bị khóa thằng Trung Lý Thu đã quát con Thanh Móm:
“hãy ôm gói đồ cho chú Bình”.
Thế mà tâm hồn tôi đã bị người Hưng Yên cuốn hút hết, đến bây giờ con Thanh Móm ôm gói đồ quần áo của tôi, ngồi ngay bên cạnh mà tôi đâu có để ý.
Tôi lướt mắt nhìn thằng Trung Lý Thu, thằng Tiến Ga, con Tuyết Còi và con Thanh Móm, những đứa lớn nhất và có vẻ tinh nhanh nhất, đứa nào cũng ngồi yên phăng phắc, mắt đều lấm lét nhìn qua làn mưa giăng về phía những tiếng nổ và tiếng thét khi nãy.
Kia rồi, trong màn mưa bay dầy hạt, từ phía một cái hủng đất cây lá rậm xì, một bên là tên công an vũ trang, một bên là tên cảnh sát ở Hỏa Lò đang xách hai tay của một đứa nhỏ, chừng mười bốn mười lăm tuổi. Người nó ốm nhom như con chão chàng. Một bên mắt sưng tím gồ lên như một quả ổi, máu đang rỉ ra theo nước mưa chảy xuống đỏ cả mặt. Chiếc chân phải đã gãy lìa từ dưới đầu gối, lủng lẳng trong ống quần, cũng đã bị rách còn dính một tí. Chiếc ống quần đỏ lòm lẫn với bùn đất của nó, đang dật dờ nhấp nhô theo chỗ đất cao thấp mà hai tên công an đang kéo lê đi.
Mấy tiếng ồn ào thốt ra từ lũ trẻ đang ngồi:
”thằng Hoàng Sún chợ Mơ”.
Đã về đến xe, mắt thằng Hoàng nhắm nghiền, mồm dề ra méo xẹo, vẫn rên rỉ:
- Lạy các chú tha cho cháu, cháu xin chừa, cháu muốn về với mẹ cháu!
Từ ở trong mấy đường hẻm, hai bên đường đã có năm sáu tên du kích đeo súng ống nhớn nhác chạy tới. Những cặp mắt mở to băn khoăn, háo hức muốn biết là chuyện gì. Một chiếc xe Commanca bộ đội chạy ngược chiều, đến đó cũng dừng lại. Ba bốn tên đeo quân hàm trung úy, thiếu úy chạy bổ sang ngơ ngác. Chúng nhìn toàn bộ suốt lượt trên xe, rồi nhìn thằng Hoàng Sún, bây giờ đã được xách bỏ lên phía cuối xe. Quần áo ướt át đầy bùn đất, lẫn với máu đang gào ư ử như con lợn bị cắt tiết đã ra gần hết máu, miệng nó vẫn thều thào hổn hển ngắt quãng:
- Lạy…các…chú…tha…cho…cháu!
Tên cảnh sát Hỏa Lò quay lại lạnh lùng nói với những tên bộ đội và du kích như muốn xua đuổi đi:
- Có gì đâu, trốn tù đấy mà!
Nhưng một tên trung úy bộ đội, chừng ba mươi tuổi nghiêm mặt, tay chỉ vào chiếc chân gẫy của thằng Hoàng Sún:
- Đồng chí phải đưa nó vào bệnh viện băng cho nó ngay. Máu ra và bùn đất thế kia thì nó chết mất!
Mấy tên công an tỏ vẻ rất bực bội, cuối cùng tên cảnh sát Hỏa Lò nhìn thẳng vào tên trung úy gằn giọng:
- Chúng tôi có công vụ đặc biệt, không phải đi chơi!
Nói rồi y ra hiệu tay cho tên công an vũ trang:
- Lên xe đi, muộn rồi!
Xe đã chuyển bánh. Những tên bộ đội và những tên du kích nét mặt người nào cũng trầm tư, vẫn đứng dưới mưa bay nhìn theo chiếc xe. Họ nghĩ gì, thì làm sao tôi biết được. Nhưng có một điều, dù họ có nghĩ gì chăng nữa cũng không thể rời khỏi cái nồi cơm, là chỗ họ đang đứng hiện nay trong xã hội này.
Tiếng máy xe già cũ kỹ vẫn rống lên trên con đường lồi lõm đầy ổ gà, cũng không làm át được tiếng rên đau đớn, quằn quại, nghe đến não nùng của thằng Hoàng Sún.
Nhìn bàn chân gãy đã xám đen trong bùn và máu; nhìn chỗ đầu gối nó một mảnh xương vỡ nhọn hoắt phủ mấy miếng thịt lầy nhầy đã xám ngoét, máu vẫn rỉ ra, người tôi nóng lên. Liếc nhanh hai tên công an, thằng Trung Lý Thu; rồi nhìn đôi tay trong khoen cùm, tôi mạnh bạo quay sang con Thanh Móm nói to:
- Cháu cởi bọc của chú ra lấy một cái quần trại đưa cho thằng Thu nó quấn buộc chặt phía trên đầu gối cho nó, đừng để máu chảy mãi!
Con Thanh hơi rụt rè, lấm lét nhìn tên vũ trang, nhưng rồi nó đứng dậy làm ngay. Thằng Thu lách ra khỏi chỗ, hăm hở buộc quấn cho thằng Hoàng Sún. Hai tên công an mặt vẫn lạnh lùng, không nói một lời. Chúng vờ quay đi nhìn cảnh vật hai bên đường. Thấy vậy, thằng Tiến Ga cởi ngay cái ruột áo bông nó đang mặc, đắp cho thằng Hoàng.
Bây giờ mặt thằng Hoàng đã xám đen lại; vết thương ở trên mắt nó không còn chảy máu nữa. Có mấy đứa thốt lên “nó chết rồi”, nhưng một tiếng rên ai oán như xé tim người nghe, rồi vẫn những tiếng thều thào, lảm nhảm không rõ:
Lạy… chú…!
Chúng tôi đều đưa mắt nhìn nhau, mặt rầu rầu. Con Thanh Móm và một đứa con gái nhỏ nước mắt đoanh tròng. Nhiều đứa khác, mắt cũng đỏ lên. Con Thanh gục hẳn vào vai tôi, vai nó cứ run lên thổn thức. Có lẽ nó cũng chạnh nỗi niềm cho cuộc đời lầm than gió bụi không nhà không cửa của nó chăng? Chính tôi, lòng cũng quặn thắt, rối bời.
Nhìn quê hương, dân tộc lầm than rên xiết, rồi nghĩ đến chính mình, tấm thân tù tội đang đi vào rừng sâu nước độc tăm tối nơi đâu. Nhìn những giọt nước mắt thơ ngây thổn thức vơi đầy của chúng, tôi có cảm nghĩ rằng đây cũng là nước mắt của tôi đang khóc cho quê hương, tuổi trẻ và cuộc đời.
Đột nhiên thằng Hoàng Sún thét rống lên một tiếng rồi giãy đành đạch. Mắt nó mở to trợn trắng dã, làm những đứa ngồi gần nó xô dúm lại với nhau. Mồm nó cứ nhóp nhép nói kêu cái gì đó nhưng không nghe thấy tiếng. Đôi tay và chân nó xuội dần rồi im bặt. Hai bên mép nó rỉ ra hai giòng máu tím xậm. Đôi mắt chỉ còn lòng trắng cứ tưởng như đang ngước lên nhìn tên công an vũ trang ngồi trên ghế, chếch phía đầu nó để xin chú tha cho.
Chiếc quần trại của tôi quấn buộc chỗ đùi nó, bây giờ ướt đẫm máu. Những đứa con gái bắt đầu kêu gào, khóc râm ran cả lên. Ngay nhiều đứa con trai cũng la hét om sòm. Bây giờ thì chính mắt của tôi cũng thấy cay cay, cồm cộm rồi.
Xe đỗ lại, tên chuẩn úy cảnh sát Hỏa Lò mở cửa xuống xe. Y tiến lại nhìn vào xác thằng Hoàng Sún lúc này đã nằm duỗi dài phía sát cuối thùng xe. Mồm tóm tém, mắt y quắc lên sắc lạnh:
- Chúng mày khóc cái gì? Im ngay! Đứa nào muốn trốn, trông gương đấy, tao sẽ bắn bỏ hết!
Tiếng quát của y đã làm tụi trẻ con im bặt, đưa những đôi mắt trắng dã lấm lét sợ sệt nhìn y. Hai tên công an vũ trang và y lùi ra bàn với nhau một lúc, trong khi tên tài xế chừng bốn mươi tuổi, cũng mặc bộ đồ vàng công an nhưng không đeo quân hàm, đi xuống cúi vào nhìn xác thằng Hoàng rồi lại lạnh lùng lên xe ngồi. Hẳn y đang cho đây cũng chỉ là một câu chuyện bình thường, y có lạ đâu.
Đã gần mười giờ, mưa bay đã tạnh, trời hừng sáng dần. Chúng trao đổi với nhau lâu lắm. Có lẽ chúng thấy để xác thằng Hoàng trên xe, không có cái gì che đậy mà đưa đến trại sẽ tác động đến tư tưởng của nhiều đứa khác, lại còn ảnh hưởng đến chính trị nữa. Cuối cùng tên chuẩn úy, một mình đi rẽ vào một đường giong về phía làng xóm bên trong.
Một tên công an vũ trang ra phía hông xe đem theo một cuộn dây thừng dài, hì hục buộc những mép bạt. Chỗ khi sáng thằng Hoàng đã lợi dụng lúc xe chậm chạp bò lên dốc, nhẩy xuống chạy trốn.
Khoảng nửa giờ sau, tên chuẩn úy Nhượng (Tiến Ga đã cho tôi biết tên, y mới đổi về Hỏa Lò) từ trong đường hẻm đi ra với một tên khoảng ngoài bốn mươi mặc áo bốn túi. Theo sau có hai tên thanh niên du kích cắp một chiếc chiếu rách. Chắc chúng đã trao đổi với nhau từ trước. Đến xe, sau khi tên mặc áo bốn túi ngó qua xác thằng Hoàng, y hất hàm ra hiệu cho hai tên du kích nhấc xác thằng Hoàng, bỏ vào chiếc chiếu đã trải sẵn dưới đường. Chúng quấn lại rồi mang vào một đường hẻm khác chỗ nhiều cây cối rậm xì. Tên mặc áo bốn túi còn đứng lại nói gì một lúc với tên Nhượng rồi mới đi theo về phía hai tên du kích.
Xe lại bắt đầu chuyển bánh. Tôi nghĩ đến chiếc quần của tôi sẽ theo thằng Hoàng về lòng đất lạnh, rồi tôi liên tưởng đến những tiếng kêu xin của thằng Hoàng trước khi chết. Bây giờ nó đã đạt được ý nguyện là các chú đã đồng ý thể hiện lòng nhân đạo của Đảng, tha cho nó về với mẹ!
Chuyện của thằng Hoàng cứ ám ảnh lòng tôi. Tôi cúi gầm, óc cứ miên man suy nghĩ về những cảnh đời, của những kiếp người thì có tiếng thì thào vào tai tôi:
- Bố mẹ nó ở chợ Mơ. Bố nó là bộ đội phục viên đấy chú ạ!
À thì ra thằng Trung Lý Thu. Trong lúc lộn xộn nó đã len lách ngồi bên cạnh tôi từ lúc nào. Tôi liếc nhìn tên công an, rồi quay lại cũng nói nhỏ:
- Cháu hãy nhớ lấy địa điểm này, khi nào được tha ra nhớ về báo cho bố mẹ nó biết.
Nó đặt một tay lên chiếc còng số 8 của tôi vừa mân mê vừa nói thì thầm:
- Chú yên trí, chẳng cháu thì nhiều đứa khác nó cũng về báo.
Trẻ con thì cũng thường dễ vô tâm. Mới lúc nãy, đứa thì khóc, đứa thì kêu, dúm dó sợ sệt, thế mà bây giờ đã lại trêu chọc nhau chuyện trò ầm ỷ, để tên công an vũ trang thỉnh thoảng, lại phải quay vào đe nẹt.

2. Đường Lên Núi Rừng…

Trời gần trưa đã hừng nắng. Tự nhiên một số đứa nhấp nhổm lố nhố chỉ trỏ nhìn chéo về bên phía trái đường làm cho bao nhiêu con mắt đều hướng về phía đó kể cả hai tên công an vũ trang. Tôi cũng nghểnh đầu liếc theo ra. Từ chéo mải phía trong của một nghĩa trang “liệt sĩ” có hai ngôi mộ nằm song song nhau, đất còn vàng au:
- Mả phi công Mỹ!
Lại có đứa nói:
- Mả phi công của ta nữa!
Lung tung beng, tôi chả hiểu ra sao thì thằng Thu đã ghé vào tai tôi thì thầm:
- Có gì đâu chú! Gần hai tháng trước, ầm cả Hà Nội lên về chuyện màng lưới cao xạ phòng không ở Kỳ Sơn này. Một buổi trưa thấy có hai máy bay quần đuổi nhau từ phía Hà Nội lên đây. Họ tập trung cao xạ bắn như pháo rang. Cuối cùng hạ được cả hai cái đó. Hai phi công lái hai chiếc máy bay đó đều bị chết. Nhưng có một điều là một phi công của ta và một của Mỹ. Vì lộn xộn nên cũng không biết cái nào đuổi cái nào và đều lầm tưởng là máy bay Mỹ cả. Nhất là lúc đó Hà Nội đang có trận không tập của nhiều máy bay Mỹ. Vì vậy họ đã chôn cả hai viên phi công cạnh nhau, cùng một nghĩa trang.
Khi xe đi rẽ vào một con đường thì những đứa trẻ lại nhốn nháo lên; thì ra đã đến trại Kỳ Sơn rồi! Lúc xe ngừng, trong lúc chúng ồn ào, í ới gọi nhau khi được lệnh xuống, tôi chưa biết ra sao nên vẫn cứ ngồi yên.
Con Thanh Móm định mang luôn cả gói đồ xuống cho tôi, thì tên chuẩn úy Nhượng đã hẩy tay ra hiệu:
- Anh ngồi lại đấy!
Chỉ một mình thằng Trung Lý Thu kịp cầm tay tôi lắc lắc:
- Chắc họ đưa chú đi trại trung ương. Thôi, chú đi khỏe nhé!
Tôi chỉ mỉm cười chào lại nó, không nói một lời. Lúc này tôi mới thấy buồn heo hút. Nhìn đàn trẻ ríu rít như đàn sẻ tranh nhau ăn, lòng tôi nặng chĩu bời bời. Biết thân mình trôi dạt về đâu? Nhìn đôi tay chắp lại trong khoen cùm, đến những đàn trẻ đang xếp hàng đôi đi vào cổng trại cho một tên công an đang cầm cái bút và quyển sổ điểm số. Qua chiếc cổng trại bằng tre nứa ghép lại thành một cái khung có chòi gác, tôi nhìn lướt vào phía trong. Có bảy tám dãy nhà tranh dài thượt cứ song song hai cái một. Màu đất của sân, của vách còn ẩm sau trận mưa đêm hãy còn xám xịt. Bao bọc chung quanh trại là hai hàng rào thép gai dựng cao chừng hai mét. Phía ngoài, bên trái trại trong những lùm tre xanh um tùm, có bốn năm cái nhà cũng bằng tranh. Một ngọn cờ máu, sao vàng đang lơ láo ngơ ngác, giẫy dụa trên ngọn một cây luồng dài. Có lẽ đấy là khu của ban giám thị và công an vũ trang coi trại. Nhìn sang phía phải của trại là hai dãy lều xiêu vẹo cột tre, không có vách, trống trơn. Bảy tám con trâu gầy giơ xương. Mắt con nào cũng đầy rỉ, đang nhai rơm do hai đứa nhỏ bốc từ một chiếc xe bò bên ngoài vào.
Một đoàn các cậu loai choai đi hàng dọc, đang từ một con đường hẻm phía sau trại, tiến về phía cổng trại; có một tên công an áo vàng vác súng đi phía sau. Cậu nào cũng è vai gánh hai sọt sắn (củ mì) nặng trĩu, mặt đỏ gay.
Khi đoàn gánh gồng đi ngang qua khu chuồng trâu, một cậu nháy mắt với một cậu đang bốc rơm cho trâu. Cậu gánh sắn, cố lắc gánh đẩy rơi xuống đường một củ sắn bằng bắp tay. Cậu bốc rơm, lợi dụng chờ tên bộ đội phải đi một khúc quành che khuất. Nhanh như một con sóc, xông ra nhặt ngay củ sắn nhét vào cạp quần bên trong tà áo. Nhưng không kịp nữa rồi, tên bộ đội cũng vừa thò mặt ra khỏi chỗ khuất đã nhìn thấy. Y hộc tốc chạy lại quát:
- Mày vừa ra ăn cắp sắn phải không?
Cậu ôm rơm, chừng mười lăm hay mười sáu tuổi, hai cẳng chân đen đũi, khẳng khiu như hai ống nứa ngâm. Mặt tái mét, hai tay chắp vào nhau vặn vẹo lúng túng:
- Thưa chú, cháu không dám! Cháu chỉ ra…
”Bốp” một cái báng súng CKC quật ngang vào hông đã chặn mất câu nói của cậu bé. Cậu ngã đổ vật ra bờ cỏ. Củ sắn từ trong bụng lăn lông lốc ra ngoài. Tên công an định tiến đến đánh nữa, trong khi cậu bé đang cong lưng lên, mồm méo xệch, mặt nhăn như chiếc giẻ. Nhưng không biết y nghĩ thế nào, y chỉ cúi xuống nhặt củ sắn rồi đi theo đoàn tù gánh gồng đang đặt những gánh sắn trước cổng trại chờ điểm số. Trước khi đi, tên công an còn quay lại dứ dứ khẩu súng vào cậu bé đang nằm vặn vẹo.
- Ta tha cho, lần sau đưa vào trại lập biên bản kỷ luật!
Một lúc sau, cậu bé mới lào cào bò dậy. Hai tay ôm bên hông ngắc ngoẻo mà còn ngoái bộ mặt nhăn nhúm lại những gánh sắn đầy ắp xa xa phía cổng trại, như luyến tiếc. Chân cậu chậm chạp đi dần về phía chuồng trâu, khác hẳn với dáng điệu khi ra vồ củ sắn.
Ngồi một mình trên xe cùng với tên công an, tôi ngẩn ngơ theo dõi cảnh đó bầy ra trước mắt. Một tiếng thở dài không chủ định xì xì dần ra như muốn đẩy bớt nỗi tủi nhục đắng cay của những cảnh đời trâu ngựa. Tôi liếc mắt nhìn tên công an đang dựa lưng vào thành xe. Tay y hờ hững cầm khẩu CKC dựng trước mặt; mắt hướng về mấy ngọn tre đang lắc lư với gió bên hông trại.
Giòng suy tư của tôi vẫn cứ chìm nổi miên man, cho tới lúc nhìn thấy một anh chừng ba mươi tuổi, mặc chiếc áo bông rách đã vá chằng vá đụp. Anh ôm một bọc quần áo cũ với hai nắm cơm trèo lên xe. Anh chìa bàn tay sần sùi đưa cho tôi một nắm cơm bọc trong một miếng lá chuối:
- Phần anh đấy, tôi cũng đi trại đây!
Hai tay tôi giơ ra đỡ nắm cơm; chưa kịp nói, hỏi gì thì đã nghe tên Nhượng ở dưới xe đã nghiêm giọng nói với anh:
- Chiếu cố anh là thành phần tự giác tiến bộ, tôi không khóa tay. Nhưng nếu trên đường đi anh lộn xộn tôi sẽ xử lý ngay!
Anh mới lên, mặt tươi hẳn ra, có vẻ xum xoe:
- Thưa cán bộ, cháu đã được ban giám thị cho làm tự giác ở trại này một năm rồi. Án cháu chỉ còn một năm nữa thôi, cháu chả dại đâu!
Nói rồi anh ta ngồi vào một góc thùng xe, bẻ nắm cơm ăn với vẻ hí hửng ra mặt. Thấy thái độ của anh ta như vậy, tôi trở nên rất lạnh lùng như một người câm không biết nói trên suốt đường đi. Xe lại chuyển bánh rẽ ra phía đường cái.
Lúc này mới quá trưa thế mà trời đã sầm lại. Phía Đông Bắc xám xịt, từng cuộn mây đen đang túa về trùm lấp cả bầu trời. Một đàn cò trắng từ những triền đồi trọc phía ấy đang vội vàng theo gió bay về chân trời phương Nam xa xa. Vài nếp nhà tranh chìm lần vào những lùm cây xanh hai bên đường.
Mưa lại bắt đầu nhì nhẹt rả rích của buổi cuối Đông. Từng làn gió bấc đẩy những luồng lạnh cắt da vào xe. Không gian mờ mịt tím ngắt như cõi lòng tôi lúc này. Lạnh run, tôi muốn lấy cái màn từ trong bọc ra quấn vào người cho đỡ rét, nhưng hai tay tôi loay hoay mãi mà không mở được mấy nút buộc của chiếc tay nải. Chỉ vì tôi không ưa anh ngồi cùng xe, nên nhất định thà chịu lạnh chứ không nhờ. Hình như anh ta cũng thấy nét lạnh lùng của tôi, nên anh ta ngồi quay mặt về phía đầu xe, dựa đầu vào thành xe nhắm mắt.
Bụng đói cật rét, người tôi lạnh run lên. Dù hai tay bị khóa chặt tôi vẫn cố gắng gặm dần nắm cơm hẩm với muối rang mà anh tù tự giác vừa đưa cho tôi lúc nãy. Xe đã chạy được gần một tiếng. Có lẽ bây giờ cũng phải gần hai giờ chiều. Tôi đang nhắm mắt, người vẫn dập dờn rung rinh theo chiếc xe đang lầm lủi trên con đường dài thì những tiếng trống thùng thùng. Rồi tiếng loa gào ré lên: “Nỗ lực, tích cực, tất cả cho vụ mùa Đông Xuân”. Tôi mở choàng mắt ra thì hai bên đường đã là những cánh đồng lúa. Chung quanh xa xa đã có nhiều những dãy núi cao dựng đứng, mây đen phủ kín ngọn. Một cánh đồng trải dài tới chân núi, đây đó đã có nhiều chỗ lúa chín vàng. Hương nồng, ngào ngạt, của lúa chín, lùa vào đầp ắp trong xe.
Qua làn mưa giăng mờ mịt, ở ngay chéo bên một con đường làng ăn ra đường cái, một đoàn đến hai mươi người, đa số là đàn bà con gái. Người thì khoác áo tơi lá, người thì khoác miếng nylon đang cúi gò lưng, bì bõm gặt lúa. Trên bờ cắm mấy lá cờ đỏ đang rũ rượi vì ướt. Hai băng khẩu hiệu trắng chữ đỏ cắm ngay trên đường làng:
“Không bỏ trời mưa, không chừa trời nắng”
“Không xa mặt trời, không rời mặt trăng”
Một anh cũng khoác chiếc ni-lông, đội mũ cối, cầm chiếc loa đi trên bờ đang hò hét. Xe đã chạy xa rồi, tôi chỉ còn trông thấy chiếc loa khua lên, khua xuống nhưng không nghe thấy lời. Nhìn cảnh người nông dân cặm cụi làm việc trong cái lạnh cắt da, tôi chợt nhớ đến một bài học thuộc lòng khi tôi lên mười, hay mười một tuổi, học tiểu học dưới chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” ở quê tôi:
“Hôm qua, hôm nay, lại ngày mai.
Người dân quê còng lưng cho khó nhọc.
Từ ngàn năm đè chĩu lấy hai vai.
Họ làm việc, làm việc và làm việc.
Từ tinh sương dậy trước cả đàn gà.
Đêm tối mù giá lạnh sương sa”.
Bài học thuộc lòng này, những người cộng sản đã khêu gợi, nêu lên những nỗi đắng cay, lầm than, tủi nhục của người nông dân dưới sự thống trị tàn bạo của thực dân phong kiến. Tuy hai thời đại, nhưng vẫn cùng một cảnh đời. Có hơi khác. Cũng vẫn gò lưng bì bõm đất trong mưa phùn gió bấc. Nhưng bây giờ có trống, có loa và có cả khẩu hiệu. Còn một điểm khác nữa do công lao của người cộng sản: ngày xưa người nông dân gặt lúa xong phải đưa về nhà. Còn bây giờ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt, lương tâm của loài người thì người nông dân gặt xong được gánh lúa đó lên nhập kho của nhân dân.
Mải đắm chìm trong mớ bòng bong thế sự ngược xuôi, chiếc xe ngưng lại lúc nào tôi không hay. Cho đến lúc thấy tên công an vũ trang nhẩy xuống đường rồi quay lại xẳng giọng:
- Đi xuống!
Tôi hơi bàng hoàng, vội vàng kéo bọc quần áo về cuối thùng xe. Loay hoay mãi tôi mới xuống đất được. Trời vẫn sụt sùi mưa bay nhè nhẹ. Một con đường đất chênh vênh ngoằn ngoèo chia hai ba ngã. Nẻo nào cũng khuất hút vào những triền đồi bạt ngàn là sắn và khoai lang. Ngay phía trái trên một bãi bằng rộng là một bức tường thành xây bằng đá hộc cao 4-5 mét. Bên trên tường chăng nhiều đợt dây thép gai, nhiều chỗ đã ngã xiêu vẹo. Dưới chân, lau, cỏ đã mọc có chỗ đến lưng bức tường. Ngay mặt đường, cách khoảng 300 mét phía đầu xe là một chiếc cổng to xây kiên cố. Hai cánh cổng không còn nữa. Bên mép tường chỉ còn lại những chiếc bản lề to tướng đã cáu rỉ.
Bên trên cổng là một căn nhà lầu có nhiều phòng quét vôi vàng đã loang lổ. Nhìn chéo vào bên trong cổng, không còn một căn nhà nào.
Rải rác đây đó là những đống gạch vữa trên những nền nhà cao thấp, cỏ dại mọc um tùm. Chứng tỏ chỗ này đã bỏ hoang phế hàng năm. Dù tôi chưa có ý niệm một trại tù tuy chưa biết vì sao lại bỏ hoang.
Tên Nhượng sau khi đã dặn dò người tài xế, y quay lại tôi và anh tù hình sự (dọc đường tôi đã biết, khi nghe anh ta nói chuyện với tên công an vũ trang). Tay y chỉ con đường dốc phía bên phải:
- Đi theo con đường kia!
Đến lúc này tôi buồn đi tiểu quá rồi nên tôi nói thẳng với y. Thật là buồn cười. Gần một ngày trời ngồi chết dí ở trên xe thế mà y còn nhìn tôi với ánh mắt vừa nghi ngờ vừa khó chịu. Cuối cùng, y quay lại tên vũ trang:
- Đồng chí đưa anh ta đi tiểu!
Chỉ là một bụi cây dại ngay gần cạnh mé đường, thế mà tên công an cũng phải cầm súng đi sát ngay phía đàng sau. Thật là khó khăn lúng túng chỉ vì hai tay chặt cứng trong khoen cùm. Tuy đau mỏi rã rời, tôi cũng phải mỉm cười: đi tiểu cũng có kẻ cắp súng theo hầu. Hai tên công an to khỏe lực lưỡng, một tên súng dài, một tên súng ngắn mà vẫn phải nể sợ một thằng tù gầy ốm khỏng khoeo. Chúng không dám mở khóa tay cho tôi. Cũng vì vậy, trên đường đi tôi thật vất vả với bọc quần áo.
Đường dốc, ướt át trơn như xoa mỡ. Từng luồng gió lạnh như kim châm vào da thịt. Cảnh núi rừng hoang vắng trong mưa. Tấm thân gầy gập ghềnh bước cao, bước thấp ngã nghiêng. Đường lầy lội có hai tay làm thăng bằng thì dễ đi. Hai tay đã chắp lại, rồi phải xách gói đồ nên khi đến một đoạn chênh vênh ngang lưng đồi, tôi bị trượt chân ngã nằm ngửa chơ hơ. Bọc quần áo tung mải vào vườn sắn bên cạnh đường. Quần áo tay chân đầy bùn đất, tôi phải cố gắng nhiều mới đứng dậy nổi.
Chắc hai tên công an cũng đã thấy nỗi cực nhọc, khó khăn của tôi. Phần khác, chúng thấy tôi đi thật chậm chạp, tên Nhượng chỉ tay lớn tiếng với tên hình sự:
- Anh hãy ôm bọc quần áo cho anh ta!
Tôi ngạc nhiên, vì thấy mặt anh tù hình sự tỏ ra rất tươi, lăng xăng đến ôm gói đồ của tôi. Chỉ một lúc sau tôi đã hiểu: Anh ôm gói đồ chẳng phải vì muốn giúp tôi mà là anh thích thú được làm theo lệnh của tên công an.
Con đường đi dần vào một rừng nứa rậm um tùm. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nứa rừng, rậm rạp với những ngọn cao lêu nghêu đầy lá, đang vật vờ ngã nghiêng theo từng cơn gió. Những cành lá rũ rượi lao xao, xào xạc như tiếng rền rĩ than van triền miên của núi ngàn cô tịch. Vài tiếng chim hú lên, mãi trong rừng sâu càng làm cho lòng tôi thêm lạnh. Những hạt mưa bay dồn cuốn vào nhau từng đợt phả vào mặt người như xát muối. Đôi tay lạnh cóng trong khoen cùm cứ phải giơ ra ngoài mưa gió.
Xa xa chéo phía dưới chân đồi trước mặt, một lá cờ đỏ ối đang vật vờ giẫy giụa, giữa cái nền xanh đen bạt ngàn của núi rừng. Đây đó khuất nẻo trong những lùm cây, mấy dãy nhà tranh thấp thoáng nằm rải rác chung quanh chiếc cột cờ mầu trắng.
Tôi cứ lần mò lê bước trên con đường mòn gồ ghề chênh vênh ướt át. Khi đến một lối rẽ xuống một triền đồi trọc, một đoàn tù hơn 30 người đang đánh luống trồng khoai lang ngay cạnh đường đi.
Tôi bàng hoàng bâng khuâng dõi mắt nhìn. Họ còn quá trẻ, chỉ từ 18 đến 25 là cùng. Quần áo đủ kiểu lam lũ rách vá tả tơi, không đủ che kín những tấm thân gầy khẳng khiu co ro, run rẩy trong mưa phùn gió bấc. Người cuốc, người xẻng, cứ hai người một luống đất dài. Ở một góc xa, trong chiếc lều con ọp ẹp che bằng mấy tấm phên nứa, một tên công an áo vàng đang ngồi chỉ trỏ gì đó với một anh tù đang đứng khóm róm cạnh lều. Ngay trên đường, một tên công an vũ trang trùm kín cả người và súng bằng một chiếc áo tơi nhựa mầu xanh bộ đội. Y đang đi đi lại lại coi đoàn tù lao động.
Khi còn ở Hỏa Lò, tôi đã được nghe nói nhiều về những người tù phải đi lao động ở các trại giam trung ương. Nhất là khi tôi được biết, rồi tôi sẽ phải đi tù ở những nơi đó. Tuy vậy, tôi vẫn chưa thể hình dung đầy đủ được những cảnh đời tù tội nơi núi rừng biên cương hẻo lánh. Lúc tôi đi ngang qua, nhiều người dừng cuốc đưa những đôi mắt trắng xám trân trân nhìn theo.
- Tù mới chúng mày ơi!
- Cán bộ thì phải!
Những âm thanh cụt ngủn, dội lên rồi tắt ngủm trong mưa Đông. Họ sẽ nghĩ gì khi thấy súng dài, súng ngắn áp giải một người bị khóa chặt đôi tay; lại còn có một người ôm bọc quần áo theo hầu nữa.
Tên Nhượng, mắt vẫn hướng về khu có lá cờ. Lạnh lùng, hắn không hề một lời chào hỏi tôi với người đồng chí của hắn ở bên đường.

3. Cố Nhân Bất Đắc Dĩ

Càng về chiều trời càng âm u, ảm đạm. Nhìn hình ảnh đoàn tù đói khổ lao động bên đường, giữa rừng núi hoang vắng, tôi liên tưởng đến những ngày tới của đời tôi. Những nỗi niềm ưu tư dâng đầy, bủa kín lòng tôi theo từng bước chân lặn lội, gập ghềnh, rã rời trong mưa gió cho mãi tới khi rẽ ra một lối đi khang trang, sạch sẽ. Một căn nhà lá, được dựng ngay bên bụi nứa nằm phía trái đường đi. Tuy chỉ là một gian nhỏ, nhưng thật gọn đẹp, nền và vách còn au lên mầu đất mới. Một chiếc băng con mầu trắng hình chữ nhật, kẻ hai chữ “phòng đợi” mầu đỏ tươi, nét chữ thật mềm.
Tên Nhượng nói gì với tên công an vũ trang áp giải tôi, rồi quay lại nhìn tôi, tay y chỉ vào vĩa hè đất nghiêm giọng:
- Cho anh ngồi đây nghỉ, chờ. Đi đái phải báo cáo ông cán bộ này.
Phần vì mệt nhọc, phần vì tâm tư đang rối bời với bao nhiêu những bỡ ngỡ, lắng lo cho cảnh đời sắp tới, nên tôi chỉ dạ khẽ, đầu gật nhẹ như đã thấy lời của y dặn, rồi tôi ngồi bệt xuống vỉa hè của căn nhà. Vẫy tay ra hiệu cho tên hình sự đi trước, rồi y quầy quả cắp cặp hồ sơ đi theo sau, trên con đường đất rất phẳng phiu không một nhánh cỏ, dẫn vào khu nhà có lá cờ. Dọc theo hai bên của con đường nhỏ, thỉnh thoảng lại thấy một bụi hoa vạn thọ hay thược dược. Có thể đây là khu nhà của ban chỉ huy trại cũng không chừng.
Tôi liếc nhìn vào căn nhà nhỏ. Ngay giữa nhà là một chiếc bàn và hai cái ghế dài còn mới. Trên đường, dưới tấm hình lão Hồ râu dài là chiếc băng khẩu hiệu đỏ loét: tất cả cho miền Nam ruột thịt.
Lúc này tôi mới để ý đến tên công an vũ trang áp tải tôi từ Hà Nội. Y chỉ chừng 20 hay 21 tuổi. Nhìn y đang vặt từng chiếc lá nứa non, ném xuống đường mương bên cạnh. Mắt y đang bâng khuâng đờ đẫn hướng về mấy dẫy núi cao, mây mù phủ kín ngọn ở phía xa xa. Tôi nhớ lại buổi sáng, lúc thằng Hoàng Sún trốn chạy, chỉ còn một mình y là công an ở lại xe. Y đã lên đạn, hung hăng quát lũ lau nhau, trong đó có cả tôi đang ngồi:
- Chúng mày ngồi im, đứa nào lộn xộn tao xử lý!
Mặt y lúc ấy thật là lạnh lùng cô hồn. Tôi ghét y từ đấy, nên suốt trên quãng đường đi, tôi chả thèm gợi chuyện nói với y một lời. Nhưng bây giờ, nhìn mặt y còn non choẹt; hơn nữa, thỉnh thoảng y liếc nhìn tôi với ánh mắt dìu dịu, xen lẫn nét băn khoăn, tò mò. Để giải quyết cái sầu hoang vắng trên đất lạ, tôi mỉm cười nhìn y:
- Ông đã lên đây lần nào chưa?
Y quay lại hơi ngỡ ngàng, rồi dè dặt chậm rãi:
- Chưa bao giờ!
- Có lẽ ông Nhượng đã lên đây nhiều lần? Ông ta chả phải hỏi thăm ai và rất quen thuộc đường lối.
Mở to mắt nhìn tôi, rồi như một con rùa rụt cổ vào mai, mặt y đanh lại, im lặng không trả lời. Ngay khi tôi vừa cất mồm lên hỏi, lưng chừng đã thấy, tôi thật quá lố, vô duyên. Cũng may vừa lúc đó, một bóng người đang bước những bước dõng dạc tiến ra từ phía khu nhà có lá cờ. Khẩu súng ngắn đeo trễ cạnh sườn y, đang lắc lư với những bước thật dài của một thân hình cao lớn. Tay cầm mấy tờ giấy, khi y tới gần, tôi chỉ thoáng thấy mấy dấu triện đỏ ối. Ve áo chỉ có chiếc lon hạ sĩ, thế mà phong độ của y nghiêm nghị, lạnh lùng có vẻ như là một sĩ quan. Ngay từ còn ở xa, y đã nhìn tôi chằm chằm; lúc tới nơi, y và tên công an vũ trang hơi gật đầu chào nhau. Hất hàm về phía tôi rồi nhìn tên vũ trang, y buông một câu gọn lỏn như ra lệnh:
- Đồng chí hãy mở khóa cho nó!
Chẳng phải vì chiếc lon hạ sĩ, mà chính vì tác phong của y đã làm cho tên vũ trang vội vàng, lấy chìa khóa để mở còng tay cho tôi. Khi tên vũ trang vừa tháo xong còng, tên hạ sĩ nhìn tôi, tay chỉ vào phía trong, khu nhà có lá cờ, gằn giọng:
- Ôm quần áo vào đó!
Tên công an vũ trang sau khi đút chiếc còng vào túi áo mưa, quay lại, tươi nét mặt, chắc định nói hay chào tên hạ sĩ. Nhưng mắt y đã chùng xuống nét sượng sùng, vì tên hạ sĩ đã xoay gót đi theo tôi như quên mất y rồi. Mặc chúng nó đối xử với nhau, tôi nghĩ vậy. Hai cánh tay và hai vai ê mỏi rã rời, tôi đứng dậy vươn vai mấy cái; đôi tay đã mất tự do suốt từ sáng sớm ở dưới Hỏa Lò. Tôi ôm bọc quần áo chậm chạp đi trước, tên hạ sĩ lẽo đẽo đi phía sau. Khi đi qua mấy căn nhà có vẻ khang trang ngăn nắp; thấp thoáng mấy tên bận đồ vàng, nam cũng như nữ đang ngồi làm việc bên trong, với những tiếng máy chữ tí tách liên hồi.
Chéo phía bên kia cột cờ, chỗ có mấy luống hoa lớn là một căn nhà mái ngói đỏ au, mà sau này tôi hiểu là một loại nhà “kiến thiết cơ bản” của miền Bắc. Tôi đang bâng khuâng tự hỏi, từ nãy đến giờ, không hề thấy tên Nhượng đâu nữa, thì tên hạ sĩ phía sau giật giọng:
- Rẽ phía phải!
Y dẫn vào một con đường mòn, vòng ra phía sau một bụi nứa lớn, rậm um tùm. Ngay trước mặt là một căn nhà bếp rộng, ngọn lửa trong lò hừng hực đun hai chiếc chảo lớn đang sôi sùng sục, bốc khói nghi ngút. Ba, bốn chị phụ nữ quần đen, áo vải; người thì lặt rau, người lúi húi quét dọn. Tên hạ sĩ dẫn tôi vào. Y chỉ cái phản gỗ, cạnh một bể nước con:
- Anh ngồi đây, cấm không được đi đâu!
Rồi y bước lên đường hiên của một căn nhà cạnh đó. Mấy chị phụ nữ đều quay lại nhìn tôi với những đối mắt tò mò, lấm lét. Tôi đưa mắt nhìn ra núi rừng bên ngoài; trời đã hết mưa phùn, nhưng lúc nào cũng âm u, đầy sương mù. Tôi không thể đoán lúc này là mấy giờ chiều. Một tên cán bộ áo xanh (công an vũ trang mặc đồng phục xanh, tới sau hội nghị Paris, chúng mới mặc đông phục mầu vàng như công an) chừng 40 tuổi, đeo lon trung úy, từ trong phía sau bếp đi ra, đến bên tôi. Chậm chạp, y hỏi, giọng quê một cục:
- Ở “Hà lội nên” à?
Thấy nét mặt y không có vẻ gì ác ôn lắm, nên tôi khẽ “dạ” như thừa nhận. Y quay lại mấy người phụ nữ, ra vẻ băn khoăn như ngạc nhiên, sao không có vũ trang dẫn giải? Thì một chị đã nhanh trí, chỉ tay về phía ngôi nhà trên:
- Báo cáo ban, cán bộ Ý vừa lên đó!
Chị đang nói thì cũng là lúc, tên Ý ở trên đó đi ra. Đến trước mặt tên trung úy, y chụm chân, giật đứng người, giơ tay nghiêm chào, đúng tác phong quân sự. Tên trung úy gật đầu nhè nhẹ:
- Đồng chí dẫn giải “ló” vào trại E?
Rồi y kéo tay áo xem đồng hồ, giọng lại thúc hối:
- Ba rưỡi rồi đấy, đi ngay đi!
Trên đường đi, tuy đôi tay không còn bị khóa, nhưng nhìn con đường mòn hun hút, chui mãi vào rừng sâu. Hết đồi tre, lại nứa rồi lại đồi vầu; mới 3 rưỡi chiều mà sương lạnh đã phủ kín chân đồi. Tâm tư nặng trĩu đầy vơi, tôi chớt nhớ đến một vần thơ hoa mộng:“Chiều nay sương khói mờ nhân ảnh. Ai biết lòng ai…..”
Tôi đang đắm chìm, buông hồn nhấp nhô theo từng bước chân, thì đột nhiên tên Ý đi sau nhẹ nhàng cất tiếng hỏi làm gián đoạn nguồn tư tưởng của tôi:
- Ngoài cái tên Đặng Chí Bình, anh còn cái tên gì khác nữa?
Tôi hiểu, có lẽ y thấy suốt từ lúc gặp, tôi tuy lạnh lùng không nói, nhưng vẫn ngoan ngoãn làm theo ý của y; hơn nữa, đường vắng chỉ có 2 người, buồn tình nên y hỏi tôi chăng? Vì vậy, tôi cũng nhã nhặn:
- Tôi còn một tên nữa là Lê Viết Hùng.
- Thế, tên nào là tên thật, lúc còn nhỏ của anh?
- Dạ, Đặng Chí Bình!
Lâu ngày, nên đi đã thấy mỏi chân, tôi đang định hỏi y trại E còn phải đi xa không thì tôi đã thấy thấp thoáng, từ một lủng rộng xa xa, mờ mờ trong sương đục; một lá cờ máu đang ngúng nguẩy, nhăn nhó trong gió chiều. Như vậy chỉ cách khu trại chính khoảng 2 cây số, đường chim bay. Lúc này thì khu nhà đó đã hiện ra, gồm 3 – 4 cái to, nhỏ. Tuy rằng chỉ bằng gỗ, lá nhưng chắc hẳn là nơi ở và làm việc của ban chỉ huy trại E. Vì tôi cũng đã nhìn thấy về phía trái không xa là một chiếc cổng gỗ to, cao lênh khênh. Trên chòi, một tên công an vũ trang đang đeo súng ngồi bên một chiếc kẻng sơn đen xì, làm bằng một cái vỏ của quả bom 50 kg.
Đến nơi, tên Ý dẫn tuột tôi qua cổng, vào hẳn trong trại. Y chỉ khoảng sân trống, cạnh một bụi chuối già phía trong cổng. Giọng y đã bớt lạnh lùng:
- Anh đứng đấy chờ!
Chân tiến đến khóm chuối, nhưng mắt tôi đang chăm chú nhìn vào những dẫy nhà trong trại. Loáng thoáng một vài người chống gậy, đang đứng ở hiên nhà nhìn ra, nên tôi cũng chả trả lời tên Ý. Trước khi ra cổng, y còn ngửa cổ lên chòi, nói với tên công an vũ trang gác cổng, cũng đang nghiêng đầu ngó xuống:
- Đồng chí cho gửi tên phạm!
Rồi y cắp chiếc cặp đen, bước những bước thật dài về phía khu nhà có lá cờ, ngay chéo cổng vài chục thước. Tôi mệt mỏi, ném bọc quần áo xuống sân rồi ngồi lên trên trốc, mắt vẫn vươn qua cái sân trại, hướng vào 3 ngôi nhà dựng theo một hàng dài.
Lúc này cảnh vật chợt hồng lên, vì phía Tây mặt trời hơi ló ra khỏi đám mây dầy, để nhìn lại cảnh chiều của núi ngàn. Một vài ánh nắng quái vàng ửng, nhún nhẩy trên mấy nóc nhà và những ngọn nứa khô của cái hàng rào thật dầy, chung quanh trại. Tôi còn đang mải mê nhìn một ông già tóc bạc phơ, lụ khụ chống gậy ở một góc sân, thì một tên cán bộ đeo lon trung úy từ ngoài cổng đi vào. Một tay y cầm quyển sổ, một tay cầm cái bút, tất tả đi vào giữa sân. Y chỉ tay vào chỗ 2 – 3 người đang đứng sớ rớ trên hè, quát to:
- Vào gọi trật tự ra đây.
Một tiếng dạ thật sốt sắng, rồi một người nhanh nhẩu đi về phía cuối trại, trong khi tên cán bộ quay lại phía tôi. Cái nhìn của y thật sỗ sàng, hách dịch để tỏ quyền uy. Có lẽ vì tôi vẫn còn ngồi yên trên bọc quần áo, mà lẽ ra phải đứng dậy, khi thấy y đến. Vì vậy, với vẻ hằn học y quát:
- Mở bọc quần áo ra, để kiểm tra!
Thấy thái độ của y như vậy, mặt tôi cũng lạnh lùng, không nói một lời. Ngồi xịch ra, tôi cúi xuống loay hoay cởi chiếc bọc. Cũng chẳng có cái quái gì, vài bộ quần áo, một chiếc màn cá nhân Phúc “Thổ” và Thọ “Lột” các cậu ấy chuẩn bị cho từ dưới Hỏa Lò. Khi tôi đã mở tung bọc quần áo để rải ra sân, y hất tay lên người tôi:
- Cởi cả quần áo ngoài!
Tôi hơi cau mày, vì trời rét lại ở ngoài sân, thì cũng là lúc mắt tôi chợt nhìn thấy tên trật tự. Tay y xách một cái hộp gỗ con đang từ phía trong tiến ra, dáng dấp thật quen thuộc. A, tên Tân, Phạm Huy Tân. Tên chó chết đã ăn cả vỏ chuối; đã gạ đổi thuốc lá lấy cơm của tôi ở buồng số 4 xà lim II, Hỏa Lò. Đã gần 5 năm rồi, lúc này trông y mập ra. Hai con mắt của y, hình như lồi ra hơn, có rất nhiều những tia máu đỏ, nổi gân ngoằn ngoèo trên tròng trắng. Mãi đến lúc y đến sát chỗ tôi, và khi tên cán bộ bảo y khám thật kỹ; đóng dấu vào hết quần, áo tư trang của tôi, thì mắt y chợt sáng ra một chút, rồi trở lại lạnh lùng ngay. Tôi đã hiểu, y đã nhận ra tôi. Ngay từ nãy, y cứ nhìn chằm chặp vào miệng tôi, chỗ 3 chiếc răng gẫy hàm dưới với đôi mắt vừa như băn khoăn, vừa như lạ lùng. Y ngờ ngợ là phải, vì khi tôi và y ở buồng số 4 xà lim II thì răng tôi đâu đã gẫy.
Tôi trù trừ đắn đo một lúc rồi, cũng đành phải cởi áo và cởi quần ra. Sau khi nắn nót, lục xét từng ve quần, xống áo, y lấy con dấu bằng gỗ có hai chữ “cải tạo” to tướng, dầm vào một cái khay đựng hắc ín đen xì. Tôi đã thấy cái ác ý của y là dầm thật đẫm hắc ín, rồi mỗi ống quần một dấu; áo thì một dấu phía sau lưng và hai dấu, hai bên vạt phía trước. Hắc ín đẫm đến nỗi, thấm cả sang những lần vải không đóng. Chỉ cái mùng cá nhân con mà nó đóng đến 8 cái dấu. Hắc ín đen nhẻm, nhớp nhúa hết đống quần áo. Mặt nóng lên bừng bừng, tôi định cho nó gục ngay xuống đó. Nhưng tôi nhìn tên cán bộ và khung cảnh của trại giam, một niềm nhẫn nhục đã đè xẹp nỗi uất hờn vào tim. Ngay khi còn từ Hỏa Lò, tôi đã hiểu tên Tân là một loại tiểu nhân, đồng thời còn là loại Zoóc (antenne trong Nam) nỗ lực nhất nữa. Vậy từ nay tôi sẽ chờ, khi có điều kiện hợp lý để giải quyết với nó.
Tuy trong lòng tôi đã có chủ trương như thế, nhưng khi tên Tân đứng lên, xách hộp đóng dấu mang đi, vẫn còn phải tránh ánh mắt, có lẽ hãy còn nhiều lửa của tôi.

4. Người Xưa Mới Thật Là…Người Xưa

Nhớ lại khi nãy nghe tên cán bộ hỏi tên Tân thì hôm nay là ngày 15 tháng, như vậy chỉ còn 15 hay 16 ngày nữa là đã Tết rồi. Tụi cán bộ Hỏa Lò để vừa đúng 15 ngày, hết hạn chống án, chúng đã vội vàng giải tôi đi ngay. Mà chỉ đi có một mình.
Giòng tư tưởng của tôi còn đang chảy dài về Hà Nội xa xôi thì tên cán bộ đã hối thúc:
- Ôm quần áo về buồng rồi hãy xếp!
Rồi y chỉ chiếc chiếu con và một chiếc chăn đơn đã nửa mục, khi nãy tên Tân đã mang đến:
- Chiếc chiếu và chăn kia phát cho anh. Phải triệt để bảo quản tài sản xã hội chủ nghĩa.
Mặc y nói, tôi cắm cúi túm vội bọc quần áo, rồi ôm chăn, chiếu đi theo y về phía căn nhà nằm ở giữa. Tay ôm bọc quần áo, nhưng mắt tôi đã bị mấy luống hoa dài, nằm dọc theo phía trước hè của mấy căn nhà cuốn hút. Nhìn thoáng qua những cánh hoa bách hợp, cúc đại đóa đang lắc lư, rung rinh theo từng làn gió nhẹ như đón chào, đã làm cho tâm hồn tôi giãn nở ra, bâng khuâng một vài giây trong cái dồn dập của buổi ban đầu đến trại.
Tôi theo tên cán bộ bước hẳn vào trong buồng. Căn nhà, trông hun hút thật dài, sàn trên, sàn dưới bằng gỗ để mộc, làm dọc theo hai bên vách nhà, để chừa ra một lối đi ở giữa nhà rộng chừng 2 mét. Cả buồng trống trơn, sàn dưới chỉ có 2 người nằm đắp chăn ở trong góc đang vội vàng bò dậy. Tên cán bộ chỉ cho tôi một chỗ ở sàn dưới, phía bên trong, gần ngay cửa ra vào. Tôi vừa để bọc quần áo và chiếc chiếu xuống sàn, y đã đưa cho tôi 2 tờ giấy in sẵn, nghiêm giọng:
- Từ ngày mai, đi lao động theo toán, nhưng tối về phải học thuộc 4 tiêu chuẩn cải tạo, 10 điều nội quy và 12 điều nếp sống văn hóa mới này. Trong một tuần, tôi sẽ gọi lên sát hạch, nếu không thuộc, anh sẽ chịu trách nhiệm.
Ngỡ ngàng, xốn xang với nhiều thứ mới, nên cho tới khi tên cán bộ đã ra rồi mà tôi vẫn còn ngồi ghệ vào mép sàn như bất động. Tay tôi vẫn còn mân mê 2 tờ giấy, mắt nhìn khắp căn buồng. Hai anh ở trong góc bây giờ đang lúi húi hút thuốc lào ở chỗ chiếc đèn con dưới gầm sàn. Kiểu chiếc điếu nứa này thật lạ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Nó có một chiếc nõ dài nghêu đến gần một gang tay. Tôi mỉm cười chào, khi 2 anh cũng vừa cười vừa tiến lại phía tôi. Một anh chừng 40 tuổi, dáng cao gầy cất tiếng khàn khàn hỏi tôi:
- Anh mới bị bắt vào?
Thấy tiếng anh trọ trẹ không rõ, tôi chỉ gật đầu và hỏi lại:
- Anh không đi lao động?
Xịt mũi mấy cái rồi anh từ từ:
- Hôm qua tôi có cái bệnh sốt!
Chỉ trả lời mấy tiếng mà anh cứ ngập ngừng, lúng túng mãi, tôi hỏi ngay:
- Anh tên gì?
- Tôi là Lý A Chén và anh này là Sín Cà.
Vừa nói anh vừa chỉ anh kia, đứng phía sau. Giữa lúc này thì đột nhiên nghe có tiếng ồn ào, sùng sục như chạy giặc ngoài phía cổng trại.
- Trại đã về!
Anh Chén vẻ nhớn nhác nói xong, rồi cả 2 anh hấp tấp về chỗ nằm đắp chăn như những người đang bệnh. Sau đó là những bước chân chạy rầm rập, đầy người chen chúc nhau vào buồng. Tiếng vất nón, ném áo tơi, tiếng bát nhôm, bát sành cọ xát, tiếng gầu tôn, thùng gỗ chạm nhau; tiếng chân chạy thình thịch, lẫn với những tiếng gọi nhau í ới buồng này với buồng kia. Tôi cứ ngồi ngây ra, mắt mở to nhìn một cảnh đời tất bật, lam lũ, lầm than. Hầu như ai cũng quần áo rách và nhem nhuốc, chỉ dăm ba người hoặc có chiếc quần lành hay áo không vá còn tươi mầu tro xậm.
Sau này tôi mới hiểu: một năm trại phát cho mỗi người 2 bộ quần áo. Phần vì sợi vải tạp không được bền, phần khác, lao động nặng nhọc quần quật với gió mưa, với mồ hôi, bùn đất nên chỉ 3-4 tháng là đã mục rách rồi. Cho nên ai cũng phải biết vá đụp cho lành nhất là vào những vụ Đông hàn. Cũng do khả năng và ý thích của mỗi người khác nhau, nên rất nhiều kiểu mũ, áo chằng đụp đủ mầu để che đầu, che tai.
Tôi đang ngẩn ngơ nhìn cảnh người chạy ngược xuôi vội vã trong nhà cũng như ngoài sân thì một bóng người mặc cái áo bông tã mầu nâu đất, to xù xụ. Chân anh đi dép râu dính đầy bùn, trèo lên sàn ngay cạnh tôi, để lấy 2 cái bát sắt to, tráng men mầu lá chuối non, cóc đã gặm nham nhở trên cái kệ phía trên đầu nằm. Tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy anh chột một mắt. A, à Phan Thanh Vân đây mà! Trung úy phi công C47, trong điệp vụ máy bay bị bắn rơi ở Cồn Thoi, Ninh Bình năm 1960. Cũng là lúc mắt anh mở to nhìn tôi không chớp, nhưng có lẽ những thúc hối của việc cơm nước nên anh chỉ nói vội vàng:
- Tối vào buồng chúng mình sẽ nói chuyện.
Rồi hấp tấp, anh mang 2 cái bát sắt chạy ra sân. Tuy anh đã đi rồi, mà tôi vẫn còn băn khoăn ngạc nhiên. Lúc nhanh lại ký ức đầy hình ảnh xưa. Không! Chỉ có tôi mới biết về Vân, chứ Vân chưa hề biết về tôi. Do đấy, mai đây tôi sẽ phải làm sáng tỏ điều băn khoăn này của tôi.
Mãi lúc này mới thấy một anh chừng 40 tuổi, tay cầm một tập sổ sách vào buồng. Cởi chiếc mũ trùm tai, vất xuống chỗ sàn nằm ngay cạnh cửa ra vào, anh quay lại cười, chào tôi và niềm nở:
- Tôi là Lân, toán trưởng mà cũng là buồng trưởng. Anh có gì đựng cơm, canh đem ngay ra cho họ chia?
Lúng túng ra mặt, tôi làm gì có bát đĩa. Ngay lúc ấy, một anh ở sàn trên phía đối diện, cúi rạp người thò xuống một cái rổ con, bé như cái bát to:
- Tạm thời, cho anh mượn cái này để đựng cơm.
Chưa biết anh là ai, tôi chỉ biết giơ tay đón nhận tình anh và mỉm cười tỏ ý biết ơn. Anh Lân dẫn tôi ra sân, đến một chỗ túm tụm 9 -10 người đang đứng vây quanh 9 -10 cái vừa bát, rổ, rá con và một soong nhôm cơm ngô xay vàng ươm (hạt ngô xay vỡ thành nhiều miếng như tấm) đặt cả xuống nền sân đất. Một anh đang cầm cái môi con làm bằng một mảnh gáo dừa. Nhẹ nhàng, anh xúc từng môi cơm vào một cái bát nhôm, rồi đặt vào một cái cân do một anh đang cầm điều chỉnh. Cái cân thật đơn giản nhưng lại thật bén nhậy, chỉ vài hạt cơm hơn, kém đã thấy khác rồi. Nó chỉ là một chiếc que gỗ vót tròn, giùi 3 cái lỗ, khắc vài chỗ làm dấu nhất định, vài sợi dây và một hòn đá hay miếng gạch con là được rồi.
Khi anh Lân dẫn tôi đến nơi thì mấy người đều quay nhìn ra. Anh Lân quay lại cầm cái rổ ở tay tôi đặt xuống sân cạnh những bát khác. Tay anh chỉ vào con số viết bằng phấn ghi ở cạnh cái soong nhôm cơm:
- Anh Đồng, đây là anh Bình mới nhập trại, cùng ăn mâm của anh. Số soong ghi là 11 đấy!
Một vài anh quay lại mỉm cười với tôi như chào rồi lại tập trung mắt vào cái cân cơm. Bỗng một anh kêu tướng lên:
- Có chết cha người ta không chứ! Từ nãy, mình cứ đinh ninh 10 suất như mọi khi. Thấy soong cơm đầy, mình cứ lẩm nhẩm tạ ơn đảng, ơn bác mãi. Bây giờ thì xin rút!
Chỉ một mình anh nói, mọi người mặt vẫn lạnh lùng, không một ai hưởng ứng. Một vài ánh mắt rụt rè liếc về phía tôi. Anh Lân lại kéo tôi sang một đám bên cạnh cũng có 10 cái bát vừa nhôm, vừa sành đủ loại, Một soong nhôm canh, rau và nước đen sì, nhìn mãi mà tôi chưa hiểu là canh gì. Cho đến khi, một anh gắp từng miếng sau vào từng bát, tôi mới biết là lá rau cải bắp già. Nhưng không hiểu họ nấu với muối hay mắm gì mà lại có mầu đen. Anh Lân lại lên tiếng:
- Anh Bình đây chưa có bát đĩa, ai có tạm thời cho anh mượn bữa nay?
Một anh còn rất trẻ, chỉ chừng 20 hay 21 tuổi là cùng, quay lại vồn vã kéo tay tôi theo anh vào buồng. Anh trèo lên sàn trên, lấy cho tôi một cái rá con tý đã bục rách một bên cạp. Anh lục mãi trong bọc lôi ra một miếng ny lông xám đã cũ, nhẹ nhàng khéo tay, anh lót vừa vào chiếc rá để đựng canh. Tôi được biết tên anh là Toàn. Trong lúc trở ra chỗ chia canh, Toàn hỏi khẽ:
- Anh ở đâu đến?
- Hà Nội.
Toàn ghé gần vào tai tôi thì thầm:
- Em ở Thái về 1956.
Tôi đang định hỏi tiếp thì nhiều người ở phía mâm cơm đã hối hả giục:
- Mau lên còn vào buồng chứ!

5. Một Mảnh Đời Tù

Sau khi đã đặt cái rá lót ny-lông xuống sân để lấy canh, tôi đưa mắt nhìn rãi ra chiếc sân trại dài. Đầy sân, lố nhố chừng mươi người một nhóm, ồn ào, xôn xao, như đang mổ bò lúc làng vào đám. Chợt có tiếng huỳnh huỵch, ầm ầm ở gần bụi nứa phía cuối hội trường, ngay dưới cái khẩu hiệu dài nền trắng, chữ đỏ choét: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Một anh chừng 40 tuổi thấp lùn, và một anh chừng 30 tuổi gầy nhỏng. Cả hai đang trợn trừng mắt chồm vào nhau để thoi, trong khi tên trật tự Tân đang cầm cái roi, phải nói là cái gậy vì bằng một đoạn song dài đến một thước, đang chạy từ phía nhà bếp đến.
- Mày qua mắt anh em sao được. Đã nhiều lần rồi, mày cứ xúc cơm trên đã bốc hơi cân cho bát của mày. Cơm dưới hoặc vừng, tảng còn ướt thì mày cân cho người khác. Lưu manh, lưu manh chính trị!
Anh thấp lùn đang choi choi xỉa tay về phía anh gầy, hổn hển nói từng lời ngắt quãng. Anh gầy cũng chẳng vừa. Anh dề cái miệng, cong cái môi nhọn ra như môi con heo nái:
- Im mẹ cái mồm đi! Cứ làm ra cái vẻ trí thức, mồng 2/9 vừa qua đứa nào bưng soong thịt của toán từ nhà bếp lên, bốc thịt bỏ túi? Trí thức vét phân!
Tên Tân vừa chạy đến nơi, thấy không còn đánh nhau nữa. Dù vậy, có thể muốn chứng tỏ cái quyền uy của một người trật tự, y dứ dứ cái roi song về phía 2 người còn đang cãi nhau:
- Các anh là con người hay con vật? Miếng ăn mà cũng hục hặc đánh nhau!
Nghe tên Tân mắng 2 người, tôi liên tưởng tới thời gian y ở buồng số 4, xà lim II dưới Hỏa Lò Hà Nội, tới cái bánh chưng tới điếu thuốc. Một nỗi đầy vơi, khắc khoải với trò đời đen, trắng đang rỉ dần ra trong lòng tôi. Khi có những cảnh đời tốt đẹp, người ta thường dễ quên những ngày tối tăm, khổ đau của họ. Cảnh sôi động huyên náo như vậy mà chỉ 15 – 20 phút sau lại im phăng phắc, vì lúc này cơm, canh đã chia xong. Tùy theo chỗ dăm người, chỗ 3 người hoặc một mình, tìm một nơi riêng biệt để tận hưởng của ngọc thực ông trời đã ban cho loài người.
Một tay cầm chiếc rổ cơm, một tay cầm cái rá con đựng canh, tôi đang ngác ngơ, lúng túng để tìm một chỗ ngồi thì Toàn giơ tay vẫy vẫy tôi. Toàn đang ngồi ăn một mình trong một cái bàn khuất nẻo phía mấy tấm bảng đen trong nhà hội trường. Hội trường, hay cũng gọi là nhà ăn. Tuy có bàn ghế, nhưng trời mùa Đông, mới 5 giờ trong nhà đã mờ mờ tối nên đa số anh em thường trải những mảnh chiếu rách ngay ngoài sân ngồi ăn với nhau. Chỉ có một số người vì không có chiếu, hoặc thích ngồi trong bóng mờ để tìm cái thú vị trong cái ăn mới mò vào hội trường.
Tôi đã đặt cơm canh lên bàn. Tôi liếc nhìn đây đó tìm cách để ăn vì không có thìa, đũa thì Toàn đã moi trong chiếc túi con một cái cùi dìa bằng nhôm đã gãy cán, đưa cho tôi giọng niềm nở:
- Hãy dùng tạm cái này ăn rồi mai kia sẽ kiếm.
Tôi hơi xúc động đón nhận niềm dạt dào tình người của Toàn. Sau một vài câu chuyện thăm hỏi, Toàn lại ghé gần tai tôi vẻ thân tình:
- Anh Bình hãy dè dặt, thận trọng, ít ngày nữa anh sẽ hiểu.
Rồi Toàn thấp giọng nói như thì thào:
- Coi chừng Phan Thanh Vân nằm cạnh anh.
Tôi khẽ gật đầu và nhìn Toàn bằng ánh mắt đã hiểu ý. Ngay từ lúc mọi người đi lao động về, giữa biết bao nhiêu người tôi đã trông thấy hoặc đã gặp, có những ánh mắt nhìn tôi vừa như tò mò, soi mói, vừa như muốn làm quen. Nhưng hình như họ bị một áp lực chìm lẳng nào đó để rồi những ánh mắt ấy vừa chợt sáng, nụ cười vừa động đậy, đã rút lại ngay nghiêm nghị lạnh lùng. Qua những phút trao đổi của buổi mới gặp, tôi biết sơ qua là Toàn năm nay 23 tuổi. Lúc 9 – 10 tuổi, Toàn theo bố mẹ về nước. Vì có họ hàng thân nhân ở Hà Nội nên bố mẹ Toàn được nhà nước cho về sinh sống ở Ngọc Hà, vùng ngoại ô. Toàn đã đi học nhiều năm dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Nhưng qua những năm tháng, dần dần đời sống của gia đình càng khó khăn khổ cực. Ngay ăn uống hàng ngày cũng bữa đói, bữa no nên Toàn càng chán nản không thể học hành được nữa. Hơn nữa cuộc bắn phá của máy bay Mỹ cũng càng ngày càng ác liệt.
Chiến tranh và cuộc sống đã giằng co, kéo đẩy để Toàn cùng một người bạn nữa cũng ở Thái Lan về; rủ nhau tìm cách vượt biên bằng đường bộ, qua Lào trở về Thái. Sau bao nhiêu khó khăn nguy hiểm, khi tới biên giới Lào Việt thì không may bị bắt. Người bạn kia phải đi trại giam khác. Riêng Toàn, bị giam ở Hỏa Lò, Hà Nội 6 tháng rồi đưa lên trại trung ương số I Lào Cai và được chuyển ngay về phân trại E này từ đầu 1965. Toàn cũng bị án lệnh tập trung cải tạo 3 năm, đến nay đã quá hạn hơn 6 tháng rồi. Giai đoạn này Toàn tỏ ra rất bất mãn.
Toàn thích tâm sự thì tôi ngồi vừa ăn vừa nghe, chứ trong lòng tôi cũng đang rối bời với bao nhiêu lắng lo cho những ngày tới của cuộc đời. Suất cơm ngô tuy chỉ khoảng 2 bát cơm ở gia đình nhưng sau khi ăn xong, mắt tôi mới nhìn cảnh vật được rõ ràng. Quá mệt và đói từ sáng sớm tới bây giờ! Mãi lúc này tôi mới để ý nhìn 2 bông hướng dương to như 2 cái bát chiết yêu ở ngay đầu luống trước cửa buồng tôi. Mắt tôi cứ đăm đăm hướng về những đóa hoa vàng tươi mơn mớn đang đong đưa nhún nhẩy dưới mưa bay căng phồng sức sống đương thì. Chập chờn tôi gửi hồn về miền xuôi Hà Thành lẩn quất với dáng hình ai buổi sáng sớm hôm nay, thì một hồi kẻng rổn rang lên lanh lảnh làm rung rinh những ngọn nứa già đang lắc lư xào xạc với gió chiều.
Tiếng ồn ào lại réo lên như nồi cơm sôi già lửa. Mỗi người, mỗi nhóm tráng rửa qua thìa, đũa, bát bằng nước chứa trong những chiếc gầu tôn hoặc gỗ. Để kịp thời gian, ai cũng phải xuống chiếc giếng phía cuối nhà bếp lấy nước về trữ sẵn ngay từ lúc đang chia cơm. Tuy ai cũng ghé xuống chiếc rãnh giọt gianh cạnh hội trường để rửa, dưới rảnh vẫn sạch trơn, chẳng hề có một hạt cơm hay cọng rau nào; cho nên vẫn không vi phạm điều nào trong 12 điều nếp sống văn hóa mới.
Sau hồi kẻng dứt là mọi người ở buồng nào vội vàng, đôn đáo vào buồng ấy; thứ tự ngồi hàng đôi. Theo quy định, người nằm sàn dưới ngồi phía trong, người nằm sàn trên thẳng chỗ, xuống ngồi phía ngoài. Mọi người đều ngồi xếp chân bằng tròng, thẳng lưng, hai tay để hai bên đầu gối; yên lặng, không một tiếng rì rầm.
Tên Tân xách chiếc đèn bão theo sau tên trung sĩ lúc sớm khám tư trang của tôi. Bây giờ tôi đã biết tên hắn là Cẩn, Chu Huy Cẩn, cán bộ trực của phân trại E. Y là người dân tộc thiểu số. Chẳng hiểu y có dính dáng gì với tên tướng Việt cộng Chu Huy Mân hay không? Một tay y cầm cuốn sổ điểm và chùm chìa khóa, một tay cầm cái bút. Khi tới trước cửa buồng, tên Tân đứng lại, tên Cẩn bước vào. Y thẳng đứng người, bước những bước đều nhau theo hướng phải. Mỗi bước chân là một đôi, y đi vòng chung quanh cái lối đi ở giữa nhà. Những lúc phải bước ngoặt sang phía trái hay phải, y đều xoay gót chân theo đúng tác phong quân sự.
Khi quành ra tới cửa, trong lúc y hý hoáy ký vào sổ trực, thì tên Tân đóng 2 cánh cửa lớn, khóa rồi chốt then ngang, bằng một súc cây bản 5 phân, 10 phân dài ngang qua cả hai cánh cửa.
Trong buồng, dù có một ngọn đèn bão thòng dây treo lủng lẳng ở giữa nhà nhưng ánh sáng chỉ mờ mờ, nhiều chỗ tối, chả nhìn rõ mặt người.

6. Sinh Hoạt Tổ, Toán

Sau khi điểm xong, anh Vân quỳ lên (sàn trên, sàn dưới cách khoảng 1 mét 50, đứng lên không đủ) cứ lục đục sắp xếp quần áo với cái túi bát đĩa của anh trên cái kệ. Chiếc kệ gỗ làm dọc theo sát vách phía dưới của gầm sàn trên. Kệ đó ngay trên phía đầu nằm dùng để chăn màn, quần áo và những thứ vặt vãnh của mình. Mỗi người cũng được một khoảng dài 70 phân, bằng chiều rộng của chiếc chiếu mình đang trải nằm ở dưới sàn. Mãi một lúc lâu, Vân mới ngồi xuống, quay lại từ tốn. Giọng anh vẫn còn pha giọng miền Nam:
- Bình từ Hỏa Lò lên, đi cả ngày chắc mệt lắm?
- Lúc sớm, chứ bây giờ thì đã đỡ rồi!
Tôi vừa cười nhẹ, vừa trả lời. Để có “thượng phong” khi sớm Vân đã tỏ ra như đã biết rõ về tôi, tôi ghé sát gần Vân, hạ giọng:
- Vân chưa biết gì về tôi, chứ tôi đã biết về Vân hơi nhiều và…đã lâu.
Trong bóng tối mờ, một mắt của Vân mở to, long lanh đầy vẻ lắng lo lẫn ngạc nhiên. Anh hỏi hơi gấp:
- Anh biết về tôi thế nào?
Vân chưa nói hết câu, tôi đang được cái thích thú đã “trộ” ngược lại Vân thì anh Lân phía sàn bên kia, vừa kéo một điếu thuốc lào xong đứng ra giữa nhà nói to:
- Đề nghị các anh toán 2, hút thuốc rồi vào sinh hoạt tổ ngay để nghỉ sớm.
Tiếp theo đó, một anh có cái thân hình ngũ đoản. Đặc biệt có đôi môi dầy xám ngoét, cong tớn bọc lấy mấy chiếc răng cưa mốc thếch hô ra, to như những con nhộng tằm. Anh chừng 40 tuổi, tôi đã biết anh là Đinh Khắc Sản, do Toàn chỉ cho tôi khi còn ở ngoài sân. Anh ngồi từ trong sàn dưới phía cửa, thò đầu ra chỗ sáng nghễnh cổ, cao giọng nhưng vẫn khàn khàn như vướng đờm trong cổ:
- Tôi cũng đề nghị các anh toán 3 hút thuốc rồi ta sinh hoạt sớm.
Cả buồng lại ồn lên như một động cơ máy nổ lúc mới khơi động. Chỉ sau một, hai phút, các dáng hình đen thẫm tản mạn sàn trên, sàn dưới đã vón tồ lại từng cục rải rác khoảng cách đều nhau ở sàn dưới. Mỗi cục, tùy theo mươi hoặc mười lăm người là một tổ.
Từ lúc vào buồng tôi đã hơi có khái niệm: hiện nay tôi ở toán hai, là toán làm một thủ công do anh Lân làm toán trưởng. Toán này có 4 tổ gồm tất cả là 49 người. Toán 3 là toán xẻ gỗ do anh Đinh Khắc Sản làm toán trưởng. Anh có cái dáng dấp là một anh trương tuần ở nông thôn, mà tôi vừa nói đến ở trên. Tuy trong thực tế, trước đây anh là con một ông chánh tổng ở Phùng (Sơn Tây). Toán 3 chỉ có 2 tổ xẻ gỗ và một tổ rèn gồm 45 người. Toán xẻ này, động tác nghề nghiệp đơn giản; chỉ có kéo xẻ bằng tay, nên không phức tạp, rắc rối như bên toán làm mộc.
Như vậy, buồng số 2 (tức buồng ở giữa) tổng số là 95 người, kể cả tôi mới nhập. Do thế, toàn thể phân trại E tôi đã có thể dự đoán xấp xỉ trên dưới 300 người; sống âm thầm ở một nơi khuất nẻo sâu mãi trong rừng già.
Thì ra Phan Thanh Vân là tổ trưởng, tổ II của toán 2. Họ ngồi quây tròn, sinh hoạt ngay sát chỗ tôi. Riêng tôi, vì chưa được phân bổ về tổ nào nên đem mấy tờ nội quy, tiêu chuẩn cải tạo ra đọc. Thực ra tâm tư của tôi lúc này cũng đang bồng bềnh, chìm nổi với bao nỗi niềm ngược xuôi của một kiếp tù. Tôi chỉ muốn những phút vắng lặng, nằm yên hay ngồi trầm lắng để lần giở da diết cõi lòng. Vậy mà những lời phát biểu của cái tổ II ở bên cạnh cứ ngoáy, chọc vào lỗ tai của tôi.
Tiếng của Phan Thanh Vân reng rẻng cố ra vẻ nói tiếng Bắc nhưng nhiều chỗ vẫn te te, cà cà của miền Nam:
- Hôm nay tổ ta cũng sinh hoạt như thường nhật. Hiện nay, tổ mình có nhận của toán một kế hoạch nhỏ là hoàn thành 50 giường cá nhân, thời gian ấn định là 15 ngày. Nhưng trong đợt thi đua lập thành tích góp phần cùng cả nước chào mừng nhân dân ta anh hùng đã hạ 2000 máy bay của giặc Mỹ xâm lược. Tổ ta sẽ hạ quyết tâm, ra sức phấn đấu vượt chỉ tiêu 3 ngày. Như chúng ta đều hiểu: lao động là phản ảnh của tư tưởng. Muốn lao động tốt, đạt được hiệu quả cao thì phải có tư tưởng tốt. Vậy anh em hãy xoáy mạnh vào vấn đề tư tưởng trong buổi sinh hoạt hôm nay.
Vân đã phát biểu xong, miệng hãy còn tóm tém. Cục hầu ở cổ chạy lên, chạy xuống mấy cái, có lẽ nuốt nước bọt vì Vân vừa nói hơi dài. Một con mắt của Vân ngó nghiêng, chớp chớp như một bên mắt của con gà mái đang mắc đẻ. Anh lướt nhanh một vòng như thúc giục, cổ vũ trong tổ phát biểu ý kiến. Gần một phút chết, nặng nề với những nét mặt đăm đăm, đắn đo nhìn nhau như dọ dẫm, đợi chờ. Bỗng một anh giơ tay cao nói rất đanh:
- Tôi có ý kiến!
Trong bóng mờ, tôi nhớ không lầm, chính anh này lúc chiều chia cơm đã phát biểu “biết ơn đảng và bác”. Vân, nét mặt đang nặng nề tươi lên roi rói:
- Hoan nghênh anh Khải, người nổ phát đầu hôm nay. Xin anh phát biểu!
- Tổ tiên mình đã dạy: “có thực mới vực được đạo”. Tôi muốn một người làm việc bằng hai, bằng ba lắm. Nhưng nếu muốn cho cái máy nó chạy 10 giờ thì dầu phải đổ đủ 10 giờ, nếu chỉ đổ cho 6 giờ thì 4 giờ nữa máy làm sao chạy?
Môi anh Khải vừa dề xuống để ngắt câu, mắt ai cũng loáng sáng lên như ngọn đèn cạn dầu được đổ thêm. Chứng tỏ, ai cũng thấy sướng cái tai nghe anh Khải phát biểu như thế. Nhưng chỉ một thoáng rất nhanh, nét hân hoan như ánh đèn pin lướt qua trong đêm tối rồi tắt ngủm. Mắt họ lại sầm xuống lộ dần lên nét phản đối. Họ đều nhao nhao lên, 3 người giơ tay xin phát biểu ý kiến.
Mặt Vân cũng đã bốc máu hồng. Anh chỉ tay vào một bác có đôi tai to như ông địa, chỉ có khác là cái mặt quá dài và hai bên má hõm vào nên hàm răng càng vẩu ra:
- Mời bác Chánh phát biểu trước!
Ông Chánh hơi dướn người lên, liếc nhanh khắp lượt rồi quay về phía anh Khải, giọng miền Nam đặc sệt:
- Ngay từ đợt tổng kết cuối năm vừa qua, anh Khải đã nhiều lần phát ngôn bừa bãi. Cụ thể nhất, anh ta mới được tha kỷ luật ra mươi ngày trước đây. Nhưng anh vẫn chưa gột rửa được những tàn tích phong kiến trong bộ óc đã đen kịt, cáu rỉ của anh, nên anh nhìn sự việc chỉ một chiều, cục bộ. Trong khi cả nước mọi người như một vì miền Nam ruột thịt. Anh lại cũng không nhìn thấy bao nhiêu anh em đồng phạm khác làm và đã làm nhiều hơn anh mà không hề kêu đói. Họ vẫn hăng say lao động để tạo ra nhiều của cải vật chất cho trại. Trên quan điểm khắc phục mọi trở ngại khó khăn, họ xả thân thi đua trong phong trào “một người làm việc bằng hai” để góp phần cùng toàn dân đánh thắng tên đầu sỏ đế quốc Mỹ thì anh Khải vẫn lẩn quẩn trì trệ. Tôi thấy đây là chỗ khúc mắc tư tưởng của anh Khải, đề nghị tổ phải mổ xẻ để giúp đỡ anh.
Không khí tổ II căng lên. Trong khi các tổ khác cũng đang có nhiều anh phùng mang, trợn mắt; tay chân hất lên, hất xuống say sưa phát biểu. Tôi cố cúi xuống đọc bản “12 điều nếp sống văn hóa mới” mà tôi chả hiểu gì cả. Mặt chữ cứ hoa lên nhẩy chồm chồm vì bầu không khí ngột ngạt, đầy những tranh giành, cấu xé lọc lừa nhau trong buồng đã lôi cuốn hết tâm trí của tôi rồi. Nỗi ưu tư càng lúc càng tràn ắp lòng tôi.
Mãi hơn một tiếng đồng hồ sau, anh Nguyễn Huy Lân, toán trưởng từ trong một tổ phía góc buồng lại đứng ra giữa nhà cao giọng:
- Hôm nay chỉ sinh hoạt thường lệ của tổ, đề nghị các anh tổ trưởng ghi nhận những vấn đề chính để ngày mai thứ sáu sinh hoạt toán sẽ cùng đưa ra thảo luận. Bây giờ hãy tạm nghỉ!
Nhiều người ở những tổ của toán 2, sau khi nghe anh Lân tuyên bố đã đứng bật dậy vặn người, vươn vai làm cho toán 3 cũng giải tán dần. Đa số đều dồn ứ về phía nhà xí, chen chúc chờ vào tháo cống. Mấy chiếc điếu cầy, thi nhau rít lên như những tiếng kêu van, rên xiết của những kiếp người bất hạnh đang ngập chìm trong tăm tối lầm than.

7. Ân Tình Chiến Hữu

Mặc dù tôi đã được Toàn và một anh nữa chưa biết tên, khi gặp anh trong nhà xí đã nói nhỏ với tôi phải coi chừng Phan Thanh Vân. Tôi vẫn có chủ trương, tối nay hoặc những ngày tới phải hỏi chuyện Vân để biết rõ về quan điểm tư tưởng thực sự cũng như về điệp vụ chiếc C47 bị bắn rơi. Hơn nữa, còn một điều tôi vẫn băn khoăn từ sớm, vì sao mà Vân đã tỏ ra như đã biết về tôi rồi? Vì sao như vậy, thì tôi cần phải tìm hiểu. Thực ra chỉ có tôi biết về Vân trước là do một buổi sáng nghe đài ở Cấp (Vũng Tầu). Rồi, một ngày Chủ Nhật, khi tôi mới bị bắt vào Hỏa Lò nhìn thấy Vân ngồi ở gốc một cây bàng ở sân. Sau đó, tôi được chuyển về buồng 4, xà lim II. Trong một buổi tối nghe Vân đọc bản kêu gọi anh em binh chủng không quân lái máy bay vào vùng giải phóng theo cách mạng v.v… Vả lại, những ngày còn lang thang trên khắp các phố phường của Hà Nội, khi chưa bị bắt, tôi đã mua và đọc cuốn C47. Điệp vụ máy bay xâm nhập không phận miền Bắc bị bắn rơi ở Cồn Thoi, thuộc tỉnh Ninh Bình mà cộng sản đã xuất bản thành sách ở miền Bắc, nên lại càng biết rõ về Vân hơn.
Lúc này chả biết là mấy giờ. Nhìn ra bên ngoài qua cánh cửa sổ mở hé, trời đã đen kịt. Đột nhiên nghe tiếng léo nhéo, rè rè, nho nhỏ tiếng nhạc khởi đầu của đài phát thanh. Dưới ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn bão, tôi nhìn lên chiếc loa nhỏ vuông vắn, bằng gỗ gắn liền vào vách phía trên cửa ra vào. Tôi đang lạ lùng, bần thần lắng nghe tiếng nói quá nhỏ của chiếc loa thì anh Lân buồng trưởng đã lớn tiếng dõng dạc:
- Đề nghị toàn buồng im lặng để nghe đài!
Sau tiếng nói của anh Lân, buồng đang râm ran, ồn ào bỗng im bặt. Chỉ còn những tiếng rầm rì thì thầm, chỉ đủ cho một người ngồi gần sát nghe. Giọng người con gái xướng ngôn viên nhỏ và rè quá. Tôi có cảm tưởng như cô ta đứng nói trong một cái tủ kín để xa tôi hàng chục mét. Tiếng đài nói nhỏ như thế, họa chăng chỉ có một số người nằm gần chung quanh phía cửa mới nghe được mà thôi. Anh Vân từ trong nhà cầu ra, ghé về chỗ. Sau khi tháo đôi dép râu ở chân, đút sâu vào gầm sàn, (sàn dưới cao hơn nền nhà chừng 30 phân) ngửng lên, thấy tôi đang nhìn anh. Hơi cười bằng ánh mắt, anh chỉ vào đôi dép của tôi dưới nền, thì thào:
- Bình hãy đút dép vào gầm sàn. Gót của dép vừa bằng mép sàn theo quy định.
Tôi liếc nhanh toàn buồng. Dưới gầm sàn dưới, dép được để đều đặn trong gầm sàn, thẳng tắp với mép sàn; vì thế, tôi khẽ gật, cúi xuống làm theo lời Vân. Nê vào bên trong phía đầu sàn, Vân quỳ lên lúi húi phía trên kệ tối mò vì không có ánh đèn. Lôi xuống một chiếc túi vải nâu, anh ghé nghiêng về tôi, khẽ nói:
- Ở đây còn nhiều điều quy định lắm, rồi Bình sẽ biết!
Vừa nói anh vừa dịch ra chỗ ánh sáng đèn (do ngọn đèn treo ở trên cao, giữa nhà nên sàn dưới chỉ có ánh đèn từ giữa sàn trở ra). Anh móc trong túi vải ra lủng củng một số thứ. Mãi tôi mới hiểu, khi anh mở đến một bọc giấy, trong có một nhúm thuốc lá sợi, mầu nâu xám. Mở một gói con có ít cơm ngô lúc chiều, anh nhặt từng hạt cơm riêng ra phết, dính. Sau đó, với một chiếc hộp gỗ con con, trong đó có mấy bộ phận đơn giản: chỉ một tí anh đã cuộn được một điếu thuốc lá bằng giấy rơm mỏng, vàng khè mà anh đã cắt sẵn từng tệp. Dùng chiếc kéo con, nhẹ nhàng anh cắt những sợi thuốc thừa ra khỏi hai đầu giấy. Tôi đang mở to mắt theo dõi anh làm thì anh đã giơ điếu thuốc đầu tiên vừa cuộn xong về phía tôi. Một mắt của anh chớp chớp, miệng anh mấp máy:
- Bình hút thử xem!
Tôi vừa cảm ơn, nhận điếu thuốc anh mời, thì anh Lân từ sàn đối diện vừa mỉm cười, vừa tiến lại chỗ tôi và Vân. Dịch vào phía trong để chỗ cho anh ngồi, mắt tôi vừa thoáng nhìn đây đó trong ánh đèn không đủ sáng. Sàn trên, sàn dưới có nhiều con mắt đang hướng về phía chúng tôi. Ngay sàn trên, phía đối diện, Toàn và anh Đồng đang ngồi trùm chăn nhìn xuống, Vân cũng cầm một điếu thuốc lá đã cuộn rồi đưa cho anh. Lân vừa lơ đãng giơ tay cầm điếu thuốc, vừa quay sang tôi vồn vã:
- Sáng mai, Bình đi làm theo toán 2. Khi ra lán sẽ tùy theo cán bộ toán phân bổ công việc.
Anh hạ giọng nói tiếp:
- Bình án hay tập trung?
Tôi đang nhăn mặt nhả làn khói thuốc, mà tôi thấy đắng và khét lẹt; còn hăng hăng như nhai ớt. Hơi ngỡ ngàng chưa hiểu ý Lân thì Vân đã giải thích:
- Án là đem ra tòa xử, còn lệnh tập trung cải tạo 3 năm thì không có án.
Chợt hiểu, tôi trả lời hơi đắn đo:
- Án tôi 18 năm, và 5 năm mất quyền công dân.
Cả hai đều nhìn tôi đăm đăm. Anh Lân phà hết khói thuốc, hơi nheo mắt hỏi tiếp:
- Xử ở đâu, đã lâu chưa?
- Hà Nội, mới nửa tháng trước đây!
Trong khi anh Lân đang nói về người tập trung thì tiêu chuẩn mỗi tháng là 13 đồng, còn có án thì chỉ 12 đồng. Vì thế, tù tập trung mỗi tháng được lĩnh phụ trội 1 đồng, thì cái tên “Lân” đã làm óc tôi chợt gợi lại câu chuyện toán Boone biệt kích mà tôi đã nghe từ dưới Hỏa Lò. Để thăm dò, hơi ngập ngừng, tôi hỏi anh Lân:
- Xin lỗi, anh họ gì?
- Nguyễn, Nguyễn Huy Lân!
Vừa trả lời, anh vừa quay hẳn lại nhìn tôi; mắt anh đổi mầu vàng vẻ dò hỏi. Tôi đã ngạc nhiên đến ngỡ ngàng. Chẳng lẽ thằng Long Châu Sa nói, đây là chuyện có thật ư? Để chắc chắn là sự thực ở ngay trước mặt tôi, nên tôi hỏi ngay:
- Phải anh là toán trưởng toán Boone biệt kích?
Đến lượt Lân, mắt anh nhìn tôi tưởng đến lồi hẳn ra rồi gật đầu. Cả một cái cảnh buổi sinh hoạt đấu tố Lê Văn Lượng ở buồng số 5 dưới Hỏa Lò như mới hôm qua, hôm kia hiện ra trước mắt tôi. Tôi đưa cả hai tay cầm chặt tay Lân vồ vập:
- Câu chuyện không thể tin được, anh có biết không? Một người đã bị cả buồng sinh hoạt, sỉ vả suốt một buổi sáng và bị 15 ngày kỷ luật vì chuyện của các anh đấy!
Tôi chưa nói hết câu, nét mặt Vân và Lân đều bị lôi cuốn, háo hức muốn biết diễn tiến của sự việc, thì đột nhiên một hồi kẻng gióng lên lanh lảnh, âm thanh nhọn hoắt chĩa vào tai mọi người. Trong khi Vân xếp vội đồ nghề cuộn thuốc vào trong chiếc túi thì anh Lân đã đứng lên nói nhỏ:
- Kẻng cấm rồi, mai mình sẽ nói chuyện tiếp.
Nhìn sàn trên, sàn dưới, mọi người đang vội vàng, ai về chỗ nấy, cũng là lúc tiếng loa vẫn rả rích, ẽo ợt nói thầm im bặt. Thấy Vân giở chăn chuẩn bị đi nằm, tôi cũng kéo chiếc chăn đơn từ chiều vẫn gập để trên phía đầu sàn để ngả lưng . Đầu óc tôi đang ngổn ngang bởi bao nhiêu thứ mới lạ của một cảnh đời tù tội thì Vân khẽ ghé sang thì thào:
- Chín giờ kẻng cấm, tuyệt đối không được ai nói chuyện. Ai cũng phải về chỗ nằm, dù muốn ngủ hay không!
Đã cuộn chăn nằm rồi, tôi chợt nhớ đến cái lõi chì mật. Buổi sáng ở dưới Hỏa Lò ra đi, vì chưa thể biết sẽ đi về đâu, với tình huống bất trắc thế nào nơi xa xôi núi rừng mờ mịt, nên tôi đã thận trọng nhét vào hậu môn. Trong chăn, tôi nhẹ, khẽ lần mò rút ra, nhét vào chiếc lỗ nhỏ dưới gấu vạt áo, nơi tôi vẫn để miếng dao nhỏ ở dưới Hỏa Lò. Có lẽ Vân thấy tôi hãy còn rục rịch chưa ngủ, cố ghé hẳn sang rỉ tai:
- Ngày mai có ai hỏi thăm, anh đừng nói nhiều, không có lợi đâu!
Một nỗi hoang mang, lắng lo đang len dần vào lòng tôi. Tuy mỏi mệt suốt từ sáng, từ dưới Hỏa Lò lên, đến bây giờ, biết bao nhiêu sự việc trong cảnh đời tù mới lạ nơi rừng núi thâm u. Một cảnh mà trước đây, tôi chỉ được đọc trên sách báo. Cho nên tôi cứ trằn trọc, thao thức mãi, không ngủ được. Trong đêm trường đầu tiên ở giữa rừng già, tôi chỉ nghe tiếng gió ngàn xào xạc. Thỉnh thoảng, có những tiếng hú dài lê thê xen lẫn những tiếng kêu cụt ngủn, ngoắc ngoải, không biết là tiếng của loài thú hay loại chim gì từ trong rừng sâu vẳng ra, càng khoét sâu niềm băn khoăn, thấp thỏm trong lòng tôi.

8. Tình Người Trong Mớ Bòng Bong

Tôi đang mơ màng đi dần vào giấc ngủ muộn rã rời, mỏi mệt thì đột nhiên có tiếng ai đó vang lên trong đêm:
- Báo cáo ông cán bộ, tôi xin đi tiểu!
Tiếng báo cáo giật giọng như gọi mọi người thức dậy của một người ở sàn trên, làm tôi giật mình mở choàng mắt. Vài tiếng ho húng hắng, xen lẫn tiếng trở mình, rồi tất cả lại chìm vào im lặng.
Cứ như vậy cho đến sáng, thỉnh thoảng đây đó, sàn trên hoặc sàn dưới lại dội lên tiếng báo cáo thì làm sao tôi ngủ được. Nhìn những người khác, tôi thấy họ vẫn ngủ đều. Có thể họ đã quen hàng đêm từ lâu như vậy rồi.
Vì không ngủ được nên tôi cũng mót đi giải. Tôi cứ nằm rụt rè đắn đo mãi, trong cái lần đầu phải báo cáo cái rắc rối này. Cho đến khi tưởng không còn có thể rụt rè nữa thì may quá vừa lúc đó có một anh ở sàn bên báo cáo; tôi cũng ngồi dậy báo cáo và theo họ vào nhà cầu.
Nhà cầu là một gian hẹp phía cuối buồng, chỉ rộng chừng một mét. Một đầu là một bệ xi măng nhỏ, chỉ có một chỗ cho người đi đại tiện. Một đầu là một cái giá gỗ ba tầng úp đầy những nón lá và áo tơi. Ngay phía giữa, sát dưới nền đất có cái máng bằng xi măng để cho gần một trăm người trong buống đi tiểu tiện. Vì vậy khi tôi bước vào, một mùi khai nồng nặc xông lên làm cho mắt cay xè. Tôi vừa đi tiểu, vừa nghênh ngó nhìn chiếc đèn dầu hỏa con con treo sát vách tường chiếu ánh sáng lờ mờ, không rõ. Một anh vào trước đã đi tiểu xong, quay lại: tôi hơi tò mò vì anh cũng chỉ một mắt như Phan Thanh Vân, tuy rằng anh còn quá trẻ. Anh mỉm cười gật đầu chào tôi rồi hơi ngập ngừng dè dặt:
- Anh ở trong Nam ra ạ?
Nghe giọng nói hơi ngang, không rõ âm tiếng Việt nên tôi mỉm cười gật đầu. Anh sôi nổi:
- Em cũng là biệt kích ở trong Nam ra.
Tôi mở to mắt nhìn anh. Anh tiếp:
- Toán em bảy người, hiện nay ở đây có năm người.
- Ủa, thế tên cậu là gì?
Tôi hơi ngạc nhiên hỏi.
- Em là Shè Khửu Sáng.
Tôi hơi đắn đo:
- Thế Sáng là người dân tộc à?
Anh đã mở cửa đi ra, còn ngoái lại nói khẽ:
- Em là người Nhắng, quốc tịch Việt.
Khi trở về chỗ nằm mãi, vẫn không ngủ được, tôi nằm nghe tiếng đêm thâu với bao nhiêu nỗi khắc khoải cho ngày mai của cuộc đời. Bên cạnh tôi, Vân vẫn ngáy đều đều, ngay từ mười giờ tối.
Tôi đang chập chờn chìm dần vào cơn ngủ khuya thì một hồi kẻng rền rĩ, xé tan cái tĩnh mịch, âm u của núi ngàn làm tôi choàng tức dậy. Có tiếng loa “nói thầm” cũng bắt đầu lí nhí dạo điệu nhạc khởi đầu bài tập thể dục buổi sáng.
Căn buồng tôi như sôi lên tiếng lục sục gấp chăn, gấp màn. Tôi đã ngồi dậy nhưng vẫn còn ngơ ngác trong giấc ngủ nửa vời. Vân đang gấp chăn màn bên cạnh, quay lại giục giã:
- Kẻng báo thức rồi, gập chăn màn theo qui định trật tự nội vụ. Tranh thủ đi đái rồi vào ngồi điểm số. Cán bộ vào điểm bây giờ.
Thấy tôi cứ lúng túng mãi với màn, với chăn, Vân cầm lấy giũ tung ra rồi vừa gấp vừa nói:
- Bình phải nhớ màn gấp như thế này và chăn gấp như thế này!
Chỉ hai phút, Vân đã gấp xong gọn ghẽ. Màn bên trong, chăn bên ngoài thành một hình hộp chữ nhật; phải vuốt, nắn cho vuông thành, sắc cạnh. Chưa xong, sau đó Vân nghiêng đầu xuống sát sàn, ngắm, ra hiệu tay cho hộp chăn của người nào còn thụt vào, nhô ra. Cuối cùng, sao cho thành một hàng thẳng tắp: cách vách đúng một gang tay (20 phân). Vân vừa làm, vừa như căn dặn, giải thích:
- Mỗi sàn có một người chịu trách nhiệm trật tự nội vụ. Khi cán bộ điểm buồng xong, ban thi đua sẽ đi khám: chấm từng buồng trong nếp sống văn hóa mới, lấy điểm bình bầu của toán mỗi tháng, mỗi quý (tam cá nguyệt) và cuối năm.
Trong buồng, mọi người đã ngồi xếp hàng thứ tự, ngay ngắn từng đôi một ở sàn dưới. Vì buổi ban đầu còn nhiều lớ ngớ, chậm chạp nên tôi chưa kịp đi giải thì cửa đã loạch xoạch mở rồi. Trời mùa Đông, lại ở miền rừng núi nên bên ngoài vẫn mờ mờ chưa sáng hẳn. Tên Cẩn đã bước vào cửa buồng, đột nhiên y nghiêm trang đứng lại một vài giây liếc toàn buồng. Sau đó, tay y xách chiếc đèn bão, bước những bước dài theo lối đi giữa nhà điểm phạm; mỗi bước chân của y là một đôi. Tên Tân cầm chùm chìa khóa rủng rẻng, thập thò phía bên ngoài cửa. Nhiều buổi thấy tên Cẩn đứng lại một vài giây ở cửa trước khi điểm, tôi không hiểu thì sau này đã hiểu: khi cán bộ bước vào buồng điểm, toàn buồng mọi người đều ngồi xếp chân bằng tròn. Thứ tự, anh sàn dưới ngồi trong, anh sàn trên ngồi phía ngoài thành từng đôi một. Hai tay để trên hai đầu gối, ngực ưỡn, đầu thẳng, người ngồi sau trông thẳng gáy người ngồi trước sao cho thẳng hàng ngang, hàng dọc, toàn buồng không một ai còn động đậy. Nếu ai đó đầu còn ngúc ngắc, hay còn xê dịch cho thẳng hàng thì cán bộ quay ngoắt trở ra ngay, đi điểm buồng khác.
Lúc đó thì buồng này thật khốn khổ. Thường thường cán bộ đi điểm hết các buồng rồi về phòng thi đua trật tự, cộng số phạm toàn trại thiếu, đủ. Giải quyết những việc đột xuất xẩy ra trong đêm có khi 15 hoặc 20 phút. Buồng đó vẫn cứ phải ngồi yên, chờ cho cán bộ trở lại điểm. Lúc này thì ai cũng nhớn nhác, vắt chân lên cổ mà chạy lo mọi việc. Ai cũng bị trễ, vì những giờ giấc từ lúc kẻng báo thức cho đến lúc kẻng tập họp đi làm, kẻng xuất trại đều đã được ban giám thị nghiên cứu tính sát nên ai cũng phải khẩn trương mới kịp.
Trong buồng, chỉ còn trút hết sự buồn giận vào anh nào đã không ngồi ngay ngắn để cả buồng bị phạt. Chưa hết, anh đó còn bị cả buồng sinh hoạt phê bình, sỉ vả trong tuần. Không những cá nhân anh đó mất điểm thi đua, mà cả toán, cả buồng đều bị giảm điểm thi đua. Chính vì thế cho nên ai cũng phải giữ nghiêm ngặt.
Trở lại chỗ tên Cẩn đang điểm. Khi tên Cẩn đi vòng ra tới cửa, một tay tên Tân đưa tập sổ điểm cho tên Cẩn, tay kia y nhận chiếc đèn bão do tên Cẩn đưa. Lúc tên Cẩn hý hoáy ký sổ đã điểm đủ người của buồng II là lúc tên Tân xách chiếc đèn bão và chùm chìa khóa vội vàng rảo bước, chạy sang mở tiếp cửa buồng bên cạnh. Như vậy, điểm cả ba buồng cũng chỉ hết 6 – 7 phút là cùng.
Khi tên Cẩn ra khỏi cửa buồng cũng là lúc tù túa ra sân như kiến động tổ. Người cầm bát, người cầm rỗ, người xách gầu. Anh nào đến phiên trực của mâm thì hộc tốc chạy xuống bếp lĩnh sáng về chia cho các anh em trong mâm. Thật là ồn ào, ngoài sân, trong nhà, người chạy đi, người chạy lại í ới gọi ngoài sân, chỗ thì chia ở góc hè. Đã được anh Lân nhắc khi nãy là lấy sắn sáng ở mâm anh Đồng, vì vậy tôi theo Toàn lại một góc sân đặt rổ để lấy sắn.
Tuy vừa qua một đêm ít ngủ, chật chội ngột ngạt trong buồng, ra đến ngoài được thở hít bầu không khí trong lành của buổi ban mai; nhưng mùi sắn luộc nồng lên, tỏa ngát khắp sân đã cuốn hút hết cả tâm hồn tôi. Nhìn những củ sắn to nhỏ, trắng mát mắt xếp dầy một chiếc soong nhôm của mỗi mâm, nước chân răng tôi đã ướt dầm chỉ vì bụng tôi đã lép kẹp ngay từ tối hôm qua. Hơn nữa, từ lâu rồi cả ở trong Nam cho tới khi ra Bắc, cũng như dưới Hỏa Lò tôi chưa được ăn sắn luộc. Trong khi chờ mâm cân, chia sắn, tôi theo Toàn, vì Toàn có cái gầu gỗ con, chạy xuống phía giếng nước trước nhà bếp; cách buồng II chừng 50 – 60 mét. Chiếc giếng thật rộng, đường kính đến 3 – 4 mét. Bờ giếng được xây cao hơn mặt đất khoảng 40 – 50 phân. Giếng thật sâu, nhưng về mùa Đông nước nhiều nên chỉ cho gầu xuống 4 – 5 mét là tới rồi. Còn chiếc khăn mặt bằng miếng vài xoọc sé từ chiếc áo tù cũ ở dưới Hỏa Lò, tôi tranh thủ dùng nước để lau qua cái mặt. Nước lạnh buốt làm những ngón tay tôi cứng ra và đỏ lên.
Trời đã sáng dần, về hướng Đông, chìm sâu phía rừng già đã hồng đỏ lên một góc. Chắc hẳn mặt trời mùa Đông dậy muộn, sắp mò lên nhìn cảnh vật. Tôi vừa lau mặt, vừa nhìn mấy bụi chuối cạnh giếng. Lẫn vào đám lá xanh có một bắp chuối con đã thò ra đỏ chót. Tôi đưa mắt nhìn quanh những tấm liếp bằng nứa đan dầy vây quanh giếng, lòng nghĩ ngợi mông lung: nước buốt và lạnh thế này thì tắm làm sao? Nhưng Toàn đã ra khỏi giếng, quay lại giục tôi về ăn sắn kẻo sắp đến giờ tập họp đi làm.
Trở về đến chỗ mâm chia sắn, thì chỉ còn cái rổ của tôi và chiếc rá rách của Toàn để chơ vơ giữa nền sân. Phần của tôi cũng như của Toàn mỗi người, lớn thì 2 đoạn, nhỏ thì 3 đoạn sắn gồm chừng 2 lạng. Cầm rổ sắn, tôi theo Toàn vào mé hè của hội trường ngồi ăn. Tuy củ sắn có vài chỗ chạy máu đen xì hơi đắng, nhưng những chỗ còn tốt thì thật là tuyệt cú mèo; vừa bở, vừa ngọt lại vừa thơm. Miệng nhai, nhưng hồn tôi lặng lờ chảy ngược về những ngày xưa, lâu lắm rồi. Khi tôi còn nhỏ, thỉnh thoảng mẹ tôi đi chợ về mua cho mỗi đứa một đoạn sắn luộc. Mấy anh em chúng tôi bẻ ra từng miếng nhỏ, rủ nhau mang chiếu ra mải góc bờ ao dưới bóng của cây mơ già. Mỗi lần, mỗi đứa chỉ được lấy ra một miếng để ăn. Thành ra nó vừa thòm thèm, vừa ngon, ngon hơn cơm, ngon như một món quà. Tôi lại nhớ đến một lần ở dưới Hỏa Lò ngoài trại chung. Một buổi chiều, mụ Hoa và cô Vân ríu rít, hí hửng đã đem 2 cái bánh mì để đổi lấy 2 củ sắn mà một anh tù từ một trại trung ương phải về xử lại đem theo.
Đối với người ít khi được ăn sắn luộc thì nó như một món quà lạ miệng, ngon ơi là ngon! Mới chỉ vài phút, suất sắn của tôi đã sạch trơn. Trong khi tôi liếc Toàn và một số người khác thì họ vẩn còn ngồi nhai chậm chạp.
Tôi đang tính cầm rổ đứng dậy để vào buồng thì một bóng người cầm một chiếc đĩa nhôm đựng một suất sắn tiến lại phía tôi và Toàn đang ngồi. Anh chừng 35 – 40 tuổi mà tôi đã biết anh cũng ở buồng số II với tôi. Anh mặc bộ quần áo nâu, tuy cũ nhưng không có miếng vá nào; khác biệt với đại đa số tù, thường mặc là loại vải mầu xám xậm mà trại phát. Đặc biệt anh có đôi mắt lươn. Khi anh nhìn, tôi cứ tưởng như anh đang lim rim mơ màng. Cầm đĩa sắn, anh hơi ngập ngừng nhìn tôi:
- Anh thích ăn sắn lắm hả? Anh có ăn được nữa không?
Trời, sao lại hỏi lạ lùng như vậy. Tôi muốn nói là tôi còn thích hơn ăn cơm nữa ấy chứ! Nhưng tôi cũng hơi ngượng và chưa hiểu hết ý của anh nên cũng ngập ngừng, chậm rãi:
- Nhưng đó là phần của anh!
Anh nhìn tôi vẫn đôi mắt lim rim, rồi đặt ngay đĩa sắn vào cái rổ của tôi, nói kiểu coi pha cuộc đời:
- Tôi không ăn, anh thích thì cứ ăn. Tôi đã ăn sắn quá nhiều rồi!
Giọng anh nằng nặng của miền Nghệ An. Anh nói rồi bỏ đĩa sắn đấy đi luôn vào buồng. Tôi đang đắn đo thì Toàn đã nói nhỏ:
- Anh cứ ăn đi, Lê Sơn đấy! Anh ta vẫn không thích ăn sắn.
Tôi đang muốn hỏi “vậy anh ta ăn bằng cái gì” thì thoáng thấy tên cán bộ trực trại và tên Tân từ phía nhà trật tự bên cạnh nhà bếp, rảo bước đi lên, rồi vào buồng số II của chúng tôi. Mọi người ở sân, kể cả tôi và Toàn đều ngạc nhiên nhìn theo với những đôi mắt dè dặt, lấm lét. Mới mấy phút, tôi chưa kịp hỏi Toàn thì đã thấy một anh chừng 25 – 26 tuổi, da trắng trẻo, nét mặt đăm đăm ôm chăn và chiếc chiếu từ trong buồng đi ra. Tên Cẩn theo sát phía sau, rủng rẻng lắc chùm chìa khóa. Tôi chợt nhớ ra anh bạn này, người đã phát biểu “xin cảm ơn đảng cho soong cơm đầy” bữa chiều, lúc chia cơm hôm qua.
Tôi đã dõi nhìn theo bóng chiếc áo vàng của tên cán bộ Cẩn và túm chăn chiếu đi trước y, về phía cuối nhà số III; chỗ có một căn nhà nhỏ làm thụt vào gần phía hàng rào cấm của trại. Tên Tân nhận chùm chìa khóa từ tay tên Cẩn chạy lên trước, đến căn nhà đó mở cửa. Tôi quay lại nhìn Toàn như hỏi han, thì Toàn chỉ khẽ nói:
- Nhà kỷ luật!
Tôi còn định hỏi Toàn tiếp là anh ta tên gì và bị bắt vào tù vì tội gì v.v… Nhưng tôi thoáng cảm thấy một vấn đề: tại sao, từ tối hôm qua, đến sáng hôm nay, ai đã báo cáo cho cán bộ đã vào đưa anh ta đi cùm? Giòng liên tưởng của óc tôi cứ trôi mãi: vì sao mà nhiều người chỉ lấm lét nhìn tôi mà không ai dám đến trò chuyện? Vì sao bên ngoài thì máy bay Mỹ bắn phá như thế. Trong Nam thì trận chiến đang khốc liệt, thế mà từ hôm qua đến nay không có một ai, kể cả Nguyễn Huy Lân, Phan Thanh Vân; không hể một ai tò mò nhắc đến? Hầu như mọi người chỉ nói chuyện sinh hoạt, ăn, ngủ và lao động?
Bao nhiêu vấn đề, trong cái không khí ngột ngạt, đầy đe dọa này. Trong cái mớ bòng bong câm lặng nhiều hố tối, rồi đây tôi sẽ phải tìm hiểu. Mới có hơn một ngày mà ngay cả tôi cũng đâm ra dè dặt với cả mọi người. Bao nhiêu những hiểu biết, bao nhiêu những cái tai nghe, mắt thấy. Mỗi người đang buộc chặt, câm nín, đè ép lại trong lòng. Còn một điều nữa càng làm cho tôi phải dè dặt, thận trọng. Buổi tối hôm qua, lúc tôi đang nói chuyện với anh Lân và Vân; ở mãi góc sàn trên phía đối diện, có một cậu còn rất trẻ, bộ mặt rất hiền lành. Tôi bắt gặp nhiều lần ánh mắt của cậu ta nhìn tôi: nửa như tò mò, nửa như thiện cảm. Sáng nay, trong lúc mọi người đang chạy ra, chạy vào lúc điểm xong, cậu ta đã đi sát vào người tôi nói nhỏ:
- Anh hãy coi chừng thằng Toàn!
Nói rồi, cậu ta đi luôn, để tôi cứ thỉnh thoảng phải để ý theo dõi cậu ta. Dù tôi chưa hề biết gì về cậu ta, ngay cả tên và tuổi.
Mải nghĩ suy về cảnh đời tù, tôi cảm thấy cả sân và hội trường đã thưa vắng hẳn người. Tôi nhìn lại Toàn thì cậu ta cũng đã đi từ lúc nào. Vội vàng, tôi mang chiếc rổ chiếc đĩa nhôm của anh bạn Lê Sơn đi vào buồng. Thì cũng là lúc một hồi kẻng nữa, từng tiếng một lại rền vang trong sương sớm. Đã bước gần vào tới cửa buồng, tôi còn ngoái lại liếc lên chòi gác phía cổng trại. Trong căn chòi nhỏ, thấp thoáng một tên bộ đội vũ trang đang cầm chiếc búa con, giang thẳng cánh, thong thả đập vào cái vỏ quả bom 50 kg treo lủng lẳng trong chòi. Cũng là lúc từ các buồng, tù nhân túa ra ngoài sân như vỡ tổ kiến càng.
Trong khi mọi người đổ xô ra thì tôi lại chen vào. Nhét vội cái rổ và chiếc đĩa nhôm lên cái kệ phía đầu giường rồi chạy ra.

9. Buổi Lao Động Ban Đầu

Chỉ 2 phút sau, người đã ngồi xếp hàng kín cả sân trại. Mỗi toán được xếp hàng đôi và ngồi dọc theo chiều dài. Tôi lướt nhìn, đến gần một chục toán, họ ngồi im phăng phắc. Thoáng thấy Toàn, Vân, một số người quen mặt ngồi trong hàng và nhất là trông thấy Nguyễn Huy Lân đang đứng ở đầu toán, tôi bước đến người ở phía sau. Tôi nghiêng người khẽ hỏi một anh ngồi bên:
- Sao kẻng tập họp đi làm sớm thế, bây giờ là mấy giờ?
Quay lại, anh nói rành mạch:
- 6 giờ rưỡi, kẻng tập họp để 7 giờ thì xuất trại.
Tôi không hỏi anh nữa, nhưng trong lòng tôi đang nghĩ ngợi: 5 giờ báo thức. Như vậy, chỉ có 1 giờ 30 phút mà bao nhiêu là việc, chả trách ai cũng nhanh nhẩu, nhớn nhác chạy như ma đuổi. Có nhiều con mắt nhìn về phía tôi, thậm chí nhiều người ngồi mải hàng trên còn ngoái lại. Có thể vì tôi là người tù mới đến trại. Hơn nữa, tôi vẫn còn mặc chiếc quần tergal mầu vàng và cái ruột áo bông còn tốt mà các cậu Phúc Thổ, Thọ Lột, Tiến Ga v.v… ở dưới Hỏa Lò đã trang bị cho. Loại quần áo này, làm khác hẳn với quần áo mầu xám xịt, hoặc nâu đất của anh em toàn trại. Bên ngoài cổng, một lũ công an vũ trang mặc quần áo xanh lá cây, đeo súng dài cũng đang đứng xếp hàng đôi một loạt. Cạnh đấy, một lũ công an mặc áo vàng mà lúc này gọi là quản giáo, đang đứng tùm hụm phía trong cổng. Một lúc sau, có lẽ chúng trao đổi, hoặc nhận chỉ thị chung gì đó, mỗi tên tản ra đến gặp toán trưởng từng toán tù.
Nhìn Lân ôm một chồng sổ sách đang đứng báo cáo với một tên cán bộ ở phía góc sân; tôi dự đoán có lẽ y là cán bộ của toán 2, tức toán của tôi. Nhất là, thấy y cứ liếc nhìn về phía tôi, hẳn Lân đã báo cáo với y có tù mới nhập toán. Tuy rằng, là cán bộ y đã phải biết trước Nguyễn Huy Lân nhiều ngày. Y khoảng 4 chục tuổi, có cái đầu cắt ngắn kiểu Tăng Gô làm cho mặt y hơi chất phác, không có vẻ ác ôn, láu lỉnh.
Trời sớm, chợt sáng bừng lên. Lơ đãng, tôi đưa mắt nhìn về phía Đông, mặt trời đã ngoi lên khỏi rừng nứa đến 3 gang tay, làm cho mầu đỏ nét chữ của khẩu hiệu: “Vì miền Nam ruột thịt, bộ đội đổ máu nơi chiến trường, nhân dân đổ mồ hôi trên đồng ruộng” tươi rói lên, tương phản với cái nền mầu trắng của tờ giấy dài, dán lên tấm phên nứa che giếng nước của trại. Tấm biểu ngữ ngay trước mặt như đập vào mắt những toán tù đang ngồi xếp hàng. Trời mùa Đông, nhưng hôm nay trong xanh. Một vài vạt mây trắng nằm trải dài trên những ngọn nứa xa xa như đang cố muốn ngóc đầu lên, để nhìn xuống sân trại xem đám tù ra quân; xả thân lao động vì miền Nam ruột thịt.
Chừng 20 phút sau, tên Cẩn và một tên cán bộ vũ trang đeo lon thiếu úy. Mỗi tên tay cầm một cuốn sổ, tay cầm cây bút đứng sát hai bên phía cổng trại. Tên Cẩn bắt đầu gọi từng toán một. Mỗi toán khi gọi đến tên, đều đứng hết dậy, rồi theo hàng đôi tiến ra phía cổng. Khi toán ra hết khỏi cổng trại, toán trưởng của toán đó, đứng lại báo cáo to nhân số xuất trại của toán mình; nếu phù hợp đúng với số người mà 2 tên đang điểm; khi đó, ở bên ngoài cổng sẽ có hai tên vũ trang đã được phân công từ trước, tách ra khỏi hàng, đeo súng đi theo toán tù đó.
Toán 2 và 3 là hai toán làm việc trong khu thủ công ngay cách cổng trại chừng 150 mét, vì vậy thường được gọi sau cùng. Lúc toán 2 ra khỏi cổng trại, Lân, lão cán bộ áo vàng quản giáo và hai tên bộ đội vũ trang đi sát liền phía sau. Ra đến bên ngoài, tôi lại nhìn thấy con đường đất đỏ mà ngày hôm qua tên Y đã dẫn tôi vào đây. Nhìn chéo phía trái, cũng vẫn lá cờ máu đang ngơ ngác trên ngọn chiếc cột là một cây muồng to thật dài sơn trắng. Phía bên trong là một khu nhà, trong đó có một cái nhà khá to, tuy cũng vẫn là gỗ với nứa. Bên ngoài, phía trước có nhiều chậu cảnh và những luống hoa dài mà tôi đã đoán từ hôm qua, đó là nhà của giám thị và bọn cán bộ coi trại.
Ngay phía bên phải đường theo một đường mòn khoảng dăm chục thước là một chiếc cổng bằng gỗ để mộc đã mốc đen xì vì mưa nắng. Bên trên là một chiếc biển đề: “Khu thủ công”. Chiếc biển có lẽ đã mang nặng tuổi đời nên đã cong méo đi. Nét chữ đỏ nhiều chỗ sơn đã dộp lên như gỗ mục lâu ngày đang mọc nấm mèo.
Khi toán 2 đã vào hết trong sân khu thủ công, vẫn phải đứng xếp hàng đôi ở giữa sân. Anh Lân toán trưởng đi từ đầu toán xuống đến cuối, miệng lẩm bẩm, mắt nhìn từng đôi một. Sau đó, anh quay lại, tiến đến đứng nghiêm trước hai tên vũ trang, từ nãy vẫn đứng chờ ngay phía cuối toán:
- Báo cáo cán bộ, toán 2 điểm số 49 người, đủ!
Hai tên cùng lạnh lùng gật đầu. Bấy giờ toán mới tản mác , mỗi người chạy về cầu bào chỗ làm của mình. Tôi đang nhìn theo tên quản giáo toán đi phía trước, Lân ôm chồng sổ sách quầy quả đi theo sau về phía một chiếc nhà con, đầu tôi chợt nghĩ: mới có từ trong trại ra đây chỉ hơn một 100 mét, thế mà đã phải điểm lại, báo số. Thật là một nguyên tắc giáo điều!
Vì chưa được phân bổ công việc, trong khi tên cán bộ toán và Lân chắc còn đang hội ý trao đổi hay báo gì đó trong căn nhà con. Hơn nữa, mỗi người mỗi việc chả ai nói gì đến tôi, cho nên tôi đi lang thang trong lán nhìn những cảnh lạ của cuộc đời mới lạ.
Một không khí lao động hùng hục, ai cũng luôn chân, luôn tay cưa, đục, đẽo; thấy tôi đi qua cầu bào chỗ họ đang làm. Thỉnh thoảng mới có một anh ngẩng lên nhìn tôi, hơi mỉm cười như chào, rồi lại cúi xuống say mê vào với công việc. Thấy Toàn đang mắm môi, gò lưng cưa một miếng gỗ dầy, tôi rảo bước tiến lại. Toàn ngừng tay, ngẩng lên vừa hỏi tôi vừa thở:
- Anh Bình chưa được phân về tổ nào à?
Tôi tươi mặt trả lời Toàn là chưa và tôi định hỏi làm như thế này thì có mệt lắm không. Nhưng Toàn đã lại gò người xuống, chồm chồm cưa rọc như bổ củi. Thấy vậy, tôi khẽ gật đầu chào Toàn vì tôi đã liếc thấy Phan Thanh Vân đang dạng hếch chân ra trên cầu bào, tay cầm chiếc dùi đục to tướng, đang vẹo người nện lấy nện để vào cái đục ở trong tay kia. Một tay ngoáy đục, một tay anh nện liên hồi, tôi đến kề bên mà anh vẫn không thấy. Chờ một giây, tôi đành cao giọng, lên tiếng vì tiếng đục, tiếng cưa vẫn cứ chan chát:
- Làm gì mà ghê thế? Chắc Vân đã quên ngày cầm càng lướt gió rồi à?
Vân ngẩng lên, mặt đỏ gay, chắc anh đang mệt. Một mắt của anh ánh lên hơi cười rồi liếc nhanh một anh bào soàn soạt ở cầu bào bên cạnh. Anh cố lờ ý nói đùa của tôi mà chỉ hỏi:
- Trước đây anh đã biết tí gì về nghề mộc chưa?
Vẫn giọng đùa cợt, tôi hỏi lại Vân:
- Thế ngày xưa Vân có biết làm mộc không?
Vân hơi nhếch mép cười rồi lại giơ dùi lên tiếp tục nện. Tôi cảm thấy rằng nhiều người không dám nói chuyện trong khi lao động. Nghĩ vậy tôi rảo bước sang chiếc lán nhỏ, chỗ có lò rèn và mấy bác già đan lát. Tôi rẽ ra một lối đi nhỏ, rồi bước lên hè của căn lán lò rèn. Ở đó, tôi thấy một số bác già đang cúi xuống, mải mê đan những chiếc giành. Tôi khẽ lách chân để đi qua, nhưng mấy bác đã lục đục đứng cả dậy hơi cúi đầu lễ phép:
- Xin chào cán bộ ạ.
Tôi ngạc nhiên nhưng chợt hiểu. Chỉ vì chiếc quần tergal màu vàng của tôi. Hẳn rằng các bác đang cắm cúi làm việc, thấp thoáng thấy chiếc ống quần mầu vàng, nên họ mới lầm như vậy. Tôi vừa đặt tay nhẹ vào một bàn tay nhăn nheo của một bác, vừa nói:
- Cháu cũng là tù đây mà bác!
Bác già hơi mở to mắt, rồi mấy bác cũng vừa cười vừa ngồi xuống, còn ngoái nhìn theo tôi mãi. Tôi thầm nghĩ: “thì ra cái mầu vàng ở đây cũng có oai thực”.

10. Những Ngày Đầu Trong Lán Thủ Công

Sau đó, tôi định bước vào chỗ mấy ống bễ, thì phía lán của toán 2 đang ầm ầm những tiếng nói to như cãi nhau. Tôi vội vàng trở về lán vì cũng nhác thấy tên cán bộ toán và Lân đang từ trong buồng con đi ra và đang tiến về chỗ đám cãi nhau.
Một đám đông, độ mười mấy người trong đó có cả Phan Thanh Vân, Bùi Tâm Đồng cạnh chỗ một đống to vỏ bào ở góc sân. Có hai người đang đỏ mặt tía tai giằng co mấy tấm ván gỗ. Khi tên cán bộ đến, thì hai anh này đều bỏ tấm ván xuống rồi tranh nhau báo cáo. Tên cán bộ mặt đanh lại, chỉ vào người có dáng mảnh khảnh (sau này tôi mới biết tên anh là Châu), cho báo cáo trước. Anh Châu, tuy đã tỏ ra lễ phép nhưng vẫn còn toát ra nỗi uất giận trong giọng báo cáo:
- Báo cáo cán bộ, những tấm ván này, mấy hôm trước anh Lân toán trưởng đã phân về cho tổ chúng tôi. Chúng tôi chưa kịp lấy về thì tổ anh Vân hôm nay đã cho người ra khuân về.
Anh kia, người lùn tịt, hẳn là ở tổ Vân, cũng hấp tấp báo cáo:
- Thưa ông cán bộ, anh Châu đã nói không đúng, những tấm ván này, ngay từ tuần trước, tổ chúng tôi đã mất thời gian chọn lựa từ trong đống gỗ ra. Chúng tôi đã sắp xếp chuẩn bị từng khâu theo kế hoạch lao động của tổ chúng tôi.
Tên cán bộ nhăn mặt lại, dõng dạc giọng miền Nam:
- Bây giờ, không được ai dùng những tấm ván này. Tất cả hãy về chỗ, không được lãng phí thời gian trong lúc lao động.
Mọi người đều dãn ra, đâu trở về đấy, không còn một tiếng ho hay hắng dặng. Nhìn và nghe cảnh này, tôi cũng chịu. Có lẽ tôi không hay chưa hiểu nổi vì sao. Tôi đang định chuồn ra phía sau để tránh mặt tên cán bộ thì Lân đã trông thấy. Nhìn tôi, Lân cao giọng:
- Anh Bình lên cho cán bộ gặp!
Tên cán bộ liếc nhìn tôi như ý bảo theo y, rồi quay lưng lại đi về phía căn nhà con. Tôi lặng lẽ, chậm chạp đi theo phía sau y. Khi tới cửa, tôi ngừng lại, thì y đã chỉ chiếc ghế đẩu trước bàn của y rồi nhìn tôi nhẹ nhàng:
- Anh vào ngồi đây!
Y cúi xuống, lật qua mấy tờ ở tập sổ hay hồ sơ ở trước mặt, đoạn ngẩng lên nhìn tôi, thong thả:
- Anh tên gì?
- Dạ thưa, Đặng Chí Bình.
Y lại nhìn xuống cuốn sổ. Tôi liếc nhìn toàn bộ trong chiếc phòng con. Trong góc chỉ có một chiếc tủ con bằng gỗ mộc, một cánh khép hờ. Trên mặt tủ, một cành hoa giấy mầu vàng nhạt, chắc vì lâu ngày nên đã xỉn lại. Bên cạnh là một chiếc lọ mực Waterman cũ kỹ không có nắp. Trên vách, phía sau lưng y, tấm hình tên Hồ già dán vào vách nứa. Đôi mắt lão lờ đờ vàng kệch vì tấm tranh đã sờn mép. Bên dưới có khẩu hiệu viết tay: “Hồ chủ tịch muôn năm”, nét chữ còn mới, rất mềm. Nhất là hai bông hồng hai bên vẽ thật tươi, đầy sinh động, nhìn như hoa thật. Tôi cứ lơ đãng nhìn hai đóa hồng, trong lòng thầm ca ngợi người họa sĩ thì y lại hỏi:
- Trước đây, anh có biết tí gì về nghề mộc không?
Câu hỏi giống hệt anh chàng Phan Thanh Vân, tôi vội trả lời:
- Thưa, tôi không biết!
- Anh có nghề gì?
Tôi vừa lắc đầu, vừa nói “không”. Y hơi cau mày, hỏi tiếp?
- Vậy trước đây ở miền Nam, anh làm nghề gì?
Tôi định nói, tôi biết làm nghề thợ vàng, nhưng tôi trả lời:
- Trong Nam, tôi chỉ đi học!
Mặt y có vẻ hơi dịu lại. Chiếc môi xam xám của y hơi rung rung. Nhìn tôi có vẻ nhẹ nhàng, tay y gập tập sổ lại, nói với một giọng mà tôi cảm thấy chân thành:
- Hiện nay ban giám thị chiếu cố cho anh hưởng 15 kg chất bột một tháng. Anh phải ra sức tích cực cải tạo lao động, nghiêm chỉnh chấp hành mọi điều khoản nội quy trại đã đề ra; ra sức phấn đấu trong lao động và học tập tiến bộ. Bây giờ anh xuống gặp anh Lân, toán trưởng đưa anh về tổ anh Quý.
Qua dáng dấp, cách nói, cách nhìn của y, tôi cứ cảm thấy y tương đối có tấm lòng thẳng thắn, bộc trực của người miền Nam. Cho nên tôi cũng nhìn lại y bằng ánh mắt dìu dịu tình người trước khi chào y và đi xuống lán.
Vừa xuống đến lán, anh Lân từ một cầu bào phía đầu lán đã đi lại phía tôi. Sau khi tôi nói với anh là cán bộ phân công tôi về tổ anh Quý, nhưng anh tỏ vẻ như đã biết rồi. Anh vẫy tay tôi đi theo vào một căn nhà xép làm nối liền với lán về phía sau. Đi qua một cái giậu gỗ thấp, vừa bước lên mấy bực thềm tôi đã thấy anh Lê Sơn, người đã cho tôi suất sắn sáng hôm nay; chiếc đĩa nhôm của anh tôi vẫn còn giữ. Anh đang cúi khòm người xuống nền đất viết, kẻ một khẩu hiệu lên một miếng bìa mầu trắng vừa to, vừa dài. Đây đó những hộp sơn, những bút vẽ để bừa bãi. Chung quanh vách, trên bàn còn treo nhiều băng khẩu hiệu vẫn còn tươi mầu mực, chắc là đang để cho khô.
Lán phụ này tuy có hai gian, nhưng chỉ thấy có hai người làm việc. Anh Lân vào gặp một anh phía trong cũng đang lúi húi quét sơn, hay dầu bóng vào một cái đầu giường còn mới nốt bào. Thấy Lân đến, anh đó đã đứng lên, tôi hơi ngạc nhiên vì anh chỉ có một tay. Anh Lân chỉ tay về phía tôi, quay nói với anh đó vẻ đầy thân tình:
- Bình nó về tổ Quý đấy nhé!
Từ nãy tới giờ, tôi đang băn khoăn; sao tự nhiên hôm nay Lân đối với tôi có vẻ vồn vã, thân tình hơn thì Lân đã hạ thấp giọng làm tôi đã hơi hiểu:
- Như vậy là Bình cũng ở trong Nam ra à?
Nghe thấy thế, Lê Sơn và Quý đều liếc nhìn lại phía tôi, Lân vẫn vừa cười, vừa nói tiếp:
- Thấy cậu ăn mặc chỉnh tề, tưởng cậu là cán bộ hay sinh viên du học bị bắt chứ, ai ngờ!
Trong khi nói thế, mắt anh ta vẫn cứ nhìn trân trân vào chỗ hàm dưới thiếu mấy cái răng cửa của tôi. Lê Sơn, từ lúc tôi vào vẫn cặm cụi tô vẽ, bây giờ đứng hẳn lên niềm nở, vẫn giọng Nghệ An nặng chình chịch:
- Hay quá, đang bù đầu, vào đây làm với anh em mình cho vui.
Khi Lân đã quay ra, trở xuống lán mộc thì anh Quý nhìn tôi nói nhỏ nhẻ, tuy cũng giọng miền Trung:
- Bình được vào tổ này là hay đấy! Đây là tổ vernie chỉ có tôi và Lê Sơn. Khi nào công việc nhiều thì mới gọi thêm người phụ, bình thường chỉ có hai người, nên văn nghệ lắm; không rắc rối, sinh hoạt như những tổ khác.
Nhìn thoáng qua công việc làm, tuy không phải năng khiếu của tôi, nhưng tôi cũng cảm thấy thích thú hơn là đi học mộc. Hơn nữa, thấy hai người tính tình cởi mở, gần gũi đã làm giảm hẳn nỗi nặng nề, lắng lo trong lòng tôi lúc mới bước chân vào khu thủ công này; cho nên tôi cũng tỏ sự chân thành:
- Những việc này tôi chưa hề biết làm, mong các anh chỉ dẫn dần dần cho.
Lê Sơn chỉ bức khẩu hiệu đang kẻ dở dưới sàn hỏi tôi:
- Những chữ này chắc anh kẻ, viết thừa sức?
Tôi đang nhìn chăm chú một cành hồng tươi roi rói, còn thắm au lên mầu mực mới. Những chiếc lá uốn éo, mềm mại tự nhiên, những cánh hoa lả lướt lung linh làm tôi cảm thấy như có làn hương ngan ngát, thoang thoảng của một cành hồng nở rộ đón Xuân sớm. Cho nên khi nghe câu anh hỏi, tôi chỉ lắc đầu và hỏi lại anh một cách trầm trồ:
- Thế hai đóa hồng trên buồng ông cán bộ cũng do anh vẽ đó ư?
Anh cười hềnh hệch, đôi mắt lươn của anh càng nhắm tít lại. Luồn trong giọng trả lời của anh có nét tự kiêu:
- Ông ta muốn thì tôi phải chiều. Tôi chỉ phóng tay mươi phút, thế mà cũng được hai điếu Điện Biên đấy!
Chắc để hưởng ứng cái tài của Lê Sơn, anh Quý cũng tiến lại vừa cười, vừa nói:
- Lê Sơn có tài hai tay vẽ như một. Hầu hết những ngày lễ, Tết của trại cũng như của ban giám thị, bao nhiêu khẩu hiệu cũng đều do Lê Sơn vẽ cả. Thậm chí, những trang trí phòng ốc để đón các phái đoàn quan khách cũng đều phải gọi đến Lê Sơn. Ngay ở ngoài trại chính, khi có việc cũng cử cán bộ vào gọi Lê Sơn.
Tôi nhìn Lê Sơn bằng đôi mắt ngưỡng mộ, sốt sắng hỏi anh:
- Ngoài những cánh hồng tươi thắm, nổi bật như thật là biệt tài của anh; anh có vẻ được những loại hoa khác hoặc như chim, bướm v.v…?
Anh gật gật đầu, mắt anh càng như nhắm lại, sôi nổi trả lời tôi:
- Tôi không phải là họa sĩ, nhưng nhiều thứ tôi làm được.
Nói rồi, anh liếc nhìn về Quý, lúc này đã lại cặm cụi vào chiếc đầu giường cách xa 4 – 5 mét; anh quay lại hạ thấp giọng chỉ đủ mình tôi nghe:
- Ở trong này, chúng nó bóc lột mình đến xương tủy, tội gì mà đưa máu cho chúng nó hút!
Tôi ngẩn người ra nhìn, nghe anh ta nói. Tôi chưa hiểu gì về anh và anh cũng chưa hiểu gì về tôi; thế mà anh phát biểu một câu động trời như vậy, tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Nhưng xem ý anh ta cũng chẳng quan tâm, để ý xem thái độ của tôi khi nghe anh nói thế, ra sao. Tôi ngồi sát lại bên anh, chỉ băng khẩu hiệu anh đang kẻ, nói nhẹ nhàng:
- Tôi không có khả năng kẻ chữ như anh, nhưng để tô những nét anh kẻ rồi thì tôi làm được.
Mỉm cười, tôi nói tiếp như đùa:
- Tôi không có khả năng sáng tạo, nhưng lại có khả năng mô phỏng. Nghĩa là anh cứ chỉ dẫn, tôi sẽ làm được theo ý anh.
Nói rồi, tôi lựa một cái bút vẽ, cũng gò người cặm cụi tô những chữ anh đã kẻ. Như vậy cũng có thể thay được cái thời gian mà anh phải tô, để bắt đầu kẻ khẩu hiệu khác. Vừa làm vừa chuyện trò, chỉ có hai người nên cũng thoải mái. Hơn nữa, công việc này cũng ít nhiều là nghệ thuật nên không bị thúc ép mấy. Chính những lúc chuyện trò, trao đổi này, sơ lược tôi được biết về anh:
Anh là thiếu úy, làm quân báo hơn một năm, rồi về làm cận vệ cho ông Hồ Tùng Mậu. Anh đã theo ông Mậu đi khắp nơi trong những nẻo núi rừng Việt Bắc trong cuộc chiến tranh trường kỳ chống Pháp. Thậm chí anh đã lặn lội 2 – 3 lần theo ông Mậu sang Trung Quốc. Nhưng sau, phần vì cá tính của anh trực, thẳng thắn xen lẫn ý ngông cuồng. Phần khác, anh đã lập được nhiều công trạng với khả năng của anh, nhưng anh đã không được đền đáp xứng đáng. Trong khi nhiều kẻ không có tài, chỉ biết cách luồn cúi, nịnh bợ thì lại nhẩy lên vùn vụt trên đường hoạn lộ. Chính vì anh mang sẵn trong lòng sự bất mãn để cuối cùng anh bị bắt vào tù với cái tội “phát ngôn bừa bãi” và “chểnh mảng nhiệm vụ được giao”. Bắt anh là lệnh tập trung 3 năm. Nhưng hiện nay anh đã sang lệnh thứ 4, nghĩa là đã 11 năm rồi.
Mải mê làm việc, và cũng mải mê trao đổi nghe chuyện của anh thì một hồi kẻng, dòn vang lên từ phía cổng trại làm tôi ngơ ngác nhìn Lê Sơn. Anh đã từ trong góc nhà, chỗ gần chiếc bàn có chồng bìa để kẻ khẩu hiệu đi ra, miệng rối rít giục:
- Bình xếp gọn sơ các thứ lại cho gọn ghẽ còn ra tập họp điểm số, 11 giờ rồi!
Tôi liếc nhìn ra lán mộc. Cả một bản đại hòa tấu các loại âm thanh hỗn độn lúc này đã ngưng bặt. Mọi người đang lục đục xếp gọn dụng cụ. Khi chúng tôi xuống đến lán mộc thì toán 2 và 3 đã xếp hàng đầy ở sân rồi. Anh Lân đang điểm người toán 2, quay lại nhìn chúng tôi đang chạy ra. Chắc rằng anh đã thấy đủ số, nên tiến đến chỗ 2 tên bộ đội vũ trang đang đeo súng đứng gần đấy. Anh Lân lại phải đứng nghiêm chân, thẳng người báo cáo con số.
Toán nào về đến cổng trại đều phải đứng lại. Trước khi toán vào trại, tên trật tự Phạm Huy Tân và tên Cẩn trực trại đến đầu toán. Lần lượt từng anh một, giơ hai tay thẳng lên đầu. Tên Tân dùng hai tay vuốt hai bên nách; vuốt lưng, bụng, hai chân từ háng trở xuống trước sự chứng kiến của tên trực trại Cẩn. Những ngày sau tôi đã hiểu rõ: nội quy cấm đưa vào trại mọi loại kim khí, mọi thức ăn (rau, sắn, gạo v.v…) củi, đóm, trà. Nếu trật tự khám thấy ở trong người anh nào thì anh đó phải đứng ra một bên phía trong cổng trại, chờ cán bộ sẽ xử lý kỷ luật. Nhẹ nhất là mấy chiếc đóm nứa để hút thuốc lào. Hoặc một mẩu sắn con, hay nắm rau dại luộc. Anh đó cũng bị đứng giam trơ trơ ra ở cổng trại. Ráng chịu rét về mùa Đông; nắng cháy về mùa Hè hàng nửa giờ, có khi hàng giờ. Trong khi cơm nước không có ai đi lấy cho, tới khi được tha thì cơm đã nguội. Phải ăn hộc tốc, vội vàng để còn kịp giờ lại phải đi lao động. Thôi thì phải chịu nhiều thứ khó khăn sau đó. Chưa nói đến tối hay cuối tuần còn bị tổ, toán nạo cho mềm người.
Tên trật tự Tân, phần vì phải tích cực làm tròn hết mình nhiệm vụ được giao. Càng tìm khám ra được các thứ vi phạm nội quy thì càng có thể, được lòng tin của giám thị và cán bộ. Phần khác, nếu trật tự thông cảm hay tốt với người quen chẳng hạn. Thí dụ: sờ bụng anh đó thấy gói trà, lờ đi để anh đó mang được trà vào trại. Buổi tối hay Chủ Nhật, họ sẽ lén lút, vụng trộm đun nấu trà để uống (nội quy cấm tuyệt đối không được đun nấu trong trại, trừ nhà bếp). Uống trà, nấu thì phải có khói nên những tên joóc (antene) sẽ báo cáo, hoặc chính cán bộ rình bắt được. Lúc đó, khuyết điểm của tên trật tự sẽ lòi ra. Bởi vậy, để không phải lo hậu họa, tên Tân chẳng để qua cho một ai. Khi đến lượt tôi phải giơ tay lên cho tên Tân vuốt người. Một nỗi sượng sùng, nhục nhã cứ rỉ ngấm dần vào để lòng se sắt ngậm ngùi cho một kiếp tù.
Sau khi tên Tân khám xét xong, bấy giờ tên Cẩn mới lùi về phía cổng trại thì anh Lân tiến lên đứng nghiêm trước mặt y rồi hô ta, dõng dạc:
- Toán 2 xuất trại 49. Nhập trại 49, đủ. Xin cán bộ cho nhập trại.

11. Tiền Âm Phủ

Thời gian ăn, ngủ, lao động luôn luôn có hạn khít khao. Vì thế khi toán 2 bắt đầu nhập trại; những anh đi hàng đầu, đôi nào vào đến bên trong cổng trại là đã vội vã chạy về buồng. Người nào đến phiên trực của mâm thì chạy rẽ ngay vào nhà bếp để lĩnh cơm, canh. Khi xếp hàng ở bếp chờ lĩnh được rồi, hai tay bê soong canh hay cơm chạy hộc tốc về ngay buồng. Tìm đến chỗ vẫn chia cơm, canh của mâm đặt xuống, rồi lại hấp tấp chạy về buồng mình lôi bát đũa của mình ra. Người nào trực mâm thì cũng giữ cân của mâm. Hai người lúi húi chia cơm và canh. Những anh không phải ngày trực mâm thì cũng chả được nhàn rỗi. Sau khi đặt bát lấy cơm, canh cũng tất bật chạy xuống giếng múc gầu nước về để khi ăn xong rửa bát. Vả lại cũng cần lo toan mọi việc cho nhanh chóng để còn về đứng chứng kiến người chia cơm canh thì mới yên lòng. Trong hoàn cảnh đói khổ, thiếu thốn thế này thì chẳng ai tin được ai.
Tôi chạy vội về buồng lấy chiếc rổ và chiếc rá cơm để ra lấy cơm, canh. Nhìn thấy chiếc đĩa nhôm của Lê Sơn, liếc lên sàn trên, thấy Lê Sơn đang lúi húi lấy đồ trên cái kệ. Tôi giơ cao cái đĩa gọi với lên:
- Anh Sơn! Tôi gửi lại anh cái đĩa để anh lấy cơm.
Chắc đang bận lục tìm cái gì, quay lại anh chỉ nói ngắn ngủn:
- Anh cứ dùng đi, tôi có rồi!
Không đủ thời gian để trả lời anh, tôi lập cập mang cái đĩa lẫn rổ ra chỗ chia cơm, canh. Chỗ cơm cũng như chỗ canh, mọi người đã đặt đủ bát đĩa rồi, chỉ còn thiếu một mình tôi. Nhiều người quay lại có vẻ sốt ruột. Một anh cầm chiếc đũa cả bằng nứa, đang đảo sùng sục soong cơm ngô, quay lại nhìn tôi:
- Sao chậm thế! Mọi người đang chờ mỗi mình anh.
Mặt anh còn rất trẻ, trắng trẻo mà nói tiếng kinh lại không rõ. Thấy tôi còn vẻ ngơ ngác chưa quen. Anh Đồng đã cầm chiếc rá lót ny lông của Toàn đưa hôm qua ở tay tôi. Anh đưa đến đặt ở chỗ chia canh, rồi kéo tôi lại chỗ chia cơm, chỉ anh trắng trẻo đang đảo cơm:
- Đây là anh Lù Chằn Páng. Hôm nay anh Páng và anh Yên trực mâm, Thành Xuân Yên.
Anh vừa nói vừa chỉ lại chỗ một anh chừng 40 tuổi đang cặm cụi chia canh. Một cậu đứng bên cạnh tôi, chỉ vào con số 10 ghi ở soong cơm thắc mắc:
- Sao, mâm 5 của mình hôm nay lại chỉ có 10 suất?
Anh Páng vẫn đang đảo cơm, ngửng mặt lên:
- Anh Khải đi kỷ luật sáng nay, quên à?
Tôi cứ băn khoăn, tại sao Páng cứ ngồi đảo cơm mãi, để cơm nguội hết. Tôi hỏi anh Đồng thì anh đã giải thích: việc này đã trở thành thông lệ của mọi năm rồi. Cơm cân, vì vậy phải đảo trên dưới cho đều, không còn để vầng, tảng. Cơm vầng và bên dưới, ướt sẽ nặng cân. Trước đây đã xẩy ra nhiều chuyện chửi bới thậm chí đấm, đá nhau chỉ vì cơm ướt, cơm khô. Cho nên bây giờ năm nào cũng vậy, trước khi cân đều phải đảo lộn, đánh cơm tơi ra.
Tôi đang nhìn mười chiếc gồm: rổ, rá, đĩa, bát đủ kiểu, đủ mầu đặt lộn xộn một đám giữa sân thì anh Páng đảo soong cơm đã rời đều. Anh chọn lấy một chiếc bát tráng men to mầu xanh thẫm trong đám lộn xộn rổ, rá này. Chiếc bát thứt thẹo, nhiều chỗ sét rỉ đã đen sì như mụn ghẻ đang làm vảy. Hẳn nó ra đời đã lâu ngày và đã vật lộn nhiều với cuộc sống lam lũ với bao lần thất cơ, lỡ vận. Quay lại, anh với chiếc túi vải xanh kiểu dân tộc Mèo để bên cạnh. Chiếc túi đã đụp vá bằng 2 -3 miếng vải vừa nâu vừa đen; chắc đã lâu ngày không giặt, đầy cáu ghét. Anh lấy trong túi ra một cái bát sành con để xúc cơm ở soong vào chiếc bát xanh lớn chừng 2 bát cơm con ở gia đình. Anh khẽ đặt vào một chiếc cân mà một anh trong mâm đang giơ ra chờ. Tùy theo chiếc cán cân, bổng lên hay hạ xuống. Anh rút trong túi áo bông ra một chiếc cùi dìa con bằng nhôm. Cẩn thận, anh lấy ra hay cho vào chỉ từ mươi hạt cơm đến nửa thìa là chiếc cán cân đã ngang bằng trước sự chấp nhận của gần mười cặp mắt đang nhìn chằm chằm. Xong rồi, anh cầm chiếc bát xanh to đổ vào một cái rổ, rồi lại tiếp tục cân suất thứ hai.
Trông anh “thao tác” nhẹ nhàng, nhuần nhuyễn; hầu như mỗi lần xúc cơm, anh ước lượng, ướm thử bằng mắt, nên nhiều lần cân không phải lấy cơm ra hay cho thêm vào. Thật là tài, có thể do lâu ngày, cái tay xúc, cái mắt nhìn đã thành quen. Tôi đang đứng coi anh Páng cân được 5 -6 suất thì Toàn từ dưới giếng xách gầu nước về đặt vào một góc sân, rồi đến kéo tay tôi lại chỗ chia canh.
Bây giờ tôi mới để ý. Canh gì sền xệt có mầu trắng xam xám; mãi đến khi anh Yên dùng cùi dìa bửa những cục to ra làm đôi, ba miếng tôi mới hiểu là sắn. Anh nhẹ nhàng xúc những cục sắn nấu chưa tan bỏ đều vào các bát, các rổ. Nếu cục nào to thì anh lại xắn bớt ra chuyển cho phần khác. Khi những cục sắn đã chia tương đối đều thành 10 suất, anh mới lấy, cũng một chiếc bát sành con múc cái nước sền xệt đổ vào từng suất cho đều. Khi đã làm hết lượt, còn một ít nào trong soong, anh lại lấy một chiếc muỗng nhôm múc thêm cho suất này, suất kia điều chỉnh cho đều tùy theo mắt anh quyết định. Đôi khi lại theo ý những người đang đứng theo dõi. Người bảo đổ thêm cho suất này, người bảo đổ thêm cho suất kia.
Thực ra điều này do tâm lý người đứng nhìn. Chỉ thấy bát mình ít hơn bát người khác, nên cứ chỉ chỏ lộn xộn. Cho nên, từ lâu đã nghiễm nhiên trở thành một nguyên tắc là không ai được chỉ hay nói. Hãy để tùy quyết định của người chia, vì ngày khác, đến lượt mình chia cũng được hưởng quyền đó.
Khi cầm cái rá đựng canh của tôi lên, thấy ướt nhèm. Nhìn xuống chỗ để chiếc rá, đất khoang ra một chỗ hãy còn ướt nguyên. Như vậy, miếng ny lông của Toàn lót hôm qua quá cũ nên đã bị rò. Tay còn đang cầm cái đĩa của Lê Sơn, tôi trút vội canh sang chiếc đĩa nhôm. Để chiếc đĩa nhôm chồng lên cái rá; đến lấy rổ cơm rồi theo Toàn vào hội trường.
Buổi trưa, trời còn sáng. Trong hội trường lại có nhiều bàn ghế vì nó vừa là nhà ăn, lại cũng vừa là hội trường dùng cho khi học tập hay khi ban giám thị nói chuyện. Lúc này người ta vào ngồi ăn kín cả hội trường. Dù tôi đang thích ăn sắn, vậy mà canh sắn lại đăng đắng do những củ sắn đã chạy máu, hơn nữa chỉ nấu với muối thành một thứ sền sệt, nên nhai với cơm ngô mãi không nuốt được. Tuy vậy, vì bụng đói nên cũng nuốt nhanh.
Ngồi nhai cơm, thoáng nhìn thấy Phan Thanh Vân và Lân ngồi cách hai ba bàn. Tôi và Vân đều gật đầu cười khi mắt gặp nhau. Nhìn thấy bát cơm của Vân hơn hẳn suất sơm của tôi với Toàn. Tôi ngạc nhiên hỏi Toàn mới hiểu được khái niệm: Toán hai có năm mâm, trong đó một mâm đặc biệt ăn 18 kg, ba mâm ăn 15 kg mà mâm chúng tôi là một. Ngoài ra còn một mâm ăn 13 kg, những người bị đi kỷ luật ăn 9kg thì không kể. Mâm ăn 18 kg là những người lao động khỏe, có năng suất, vượt chỉ tiêu lao động của trại. Hơn nữa, họ còn phải là những người cải tạo tiến bộ, không hề vi phạm nội qui của trại. Hàng tháng, hàng quí và hàng năm họ thường được bình bầu là những cá nhân xuất sắc của trại.
Mâm ăn 15 kg là những người lao động chỉ đạt chỉ tiêu. Tuy có người trong nhóm này làm vượt chỉ tiêu, lao động tích cực nhưng có thể vì khâu tư tưởng, hoặc tỏ ra không năng nổ, tích cực làm gương cho những phạm nhân khác v.v… nên họ vẫn ăn ở mức 15 kg. Mâm 13 kg là những người không đạt chỉ tiêu lao động, hay phạm nội qui hoặc hay đau yếu v.v… Toàn nhấn mạnh:
- Em vừa nói là nhìn cái chung như thế. Nguyên tắc là vậy nhưng trong thực tế cũng có đầy rẫy những điều khó kiểu. Có nhiều người đang ăn ở mức thấp, lại nhảy lên mức cao hay ngược lại. Cũng có người lao động rất khỏe mà không bao giờ được ăn 18 kg. Nhiều vấn đề trong toán, không ai hiểu được lý do.
Nghe Toàn nói như thế, làm tôi chợt nhớ tới Lê Sơn, nên hỏi Toàn:
- Thế Lê Sơn ăn mức bao nhiêu?
Nuốt hết miếng cơm, Toàn chậm rãi:
- Lê Sơn thì hết nói. Chẳng ai kể được với anh ta. Hứng thì làm, không hứng thì ì ra, chỉ làm phất phơ. Đi kỷ luật xoành xoạch ấy. Ngang bướng, cứng cổ với cán bộ lại hay phạm nội qui nhưng anh ta có nhiều tài. Vì vậy ban giám thị cứ phải cần đến anh ta luôn. Có lúc ban giám thị cứ phải lờ khuyết điểm của anh ta đi, chỉ khi nào quá lắm mới đưa anh ta đi kỷ luật. Năm ngoái, anh ta còn dám làm tiền giả của trại nữa. Anh ta làm tinh vi đến nỗi nếu không có người tố cáo thì không ai phát hiện được.
Tôi hơi ngạc nhiên khi nghe Toàn nói đến tiền trại. Chắc Toàn cũng hiểu rằng tôi chưa hề nhìn thấy loại tiền đó bao giờ, nên anh ta thò tay vào ngực lấy ở túi áo trong ra một miếng bìa giơ cho tôi: đây là một đồng này. Loại lớn nhất là năm đồng, sau đó là hai đồng, một đồng, 50 xu, 20 xu, 10 xu, 5 xu. Loại nhỏ nhất là 5 xu. Loại tiền 5 dồng to nhất, tờ bìa lớn gấp rưỡi tờ 1 đồng này. Rồi cứ nhỏ dần cho tới đồng 5 xu. Đồng 5 xu thì một bề 2 phân, một bề 2 phân rưỡi. Thấy tôi bần thần ra dáng chưa hiểu thì Toàn nói tiếp như giải thích:
- Những tiên này chỉ lưu hành trong trại tù trung ương số 1 Lào Cai bao gồm 5 phân trại mà thôi và trao đổi giữa tù và tù. Đôi khi tiền dùng để nhờ cán bộ mua hàng. Cũng có khi ban giám thị thông báo bán thuốc lào, kẹo, đường. Vì trại có mía, nên lâu lâu ba bốn tháng lại bán mía hay mật.
Trong trại, anh em thường gọi tiền này là tiền âm phủ vì ra ngoài xã hội không tiêu được. Cầm miếng bìa một đồng, tôi nhìn mãi. Tuy đơn giản nhưng với điều kiện hiện nay ở trong trại E mà làm được giả thì cũng chỉ có được một hai người.
Một miếng bìa mỏng mầu xám nhạt hình chữ nhật, một bề khoảng ba phân rưỡi, một bề năm phân. Một khung như con dấu này có một đường bờ rộng hai ly. Cái khung giữa miếng bìa, phái trên có chữ “một đồng”. Hai bên, phía dưới, một bên chữ “ban giám thị”, (có chữ ký). Một bên có chữ “C/B tài chính” (có chữ ký). Toàn bộ tờ giấy bạc đều in bằng mực mầu xanh cánh trà. Triện mộc của ban giám thị trại cải tạo trung ương số một đóng ½ vào một góc của tờ bìa.
Sau khi rửa đĩa, rổ xong với Toàn, tôi cố đưa mắt tìm anh Lê Sơn để trả lại cho anh chiếc đĩa và cảm ơn anh đã cho tôi sắn. Lúc này, nhà ăn đã thưa người vì thế tôi đã nhìn ngay thấy anh còn ngồi ở một bàn cuối. Anh đang nói chuyện với một anh tôi đã quen mặt. Phải rồi! Anh này là Lý A Chén, hôm qua cùng với anh Sín Cà ốm bệnh ở trong buồng mà tôi đã gặp. Anh ta là người dân tộc, chả hiểu là dân tộc gì? Lê Sơn tươi nét mặt khi thấy tôi đến. Đặt cái đĩa lên bàn, tôi nói trong niềm hoan hỷ ân tình:
- Anh đã thông cảm những khó khăn của buổi ban đầu, xin gửi lại anh cái đĩa.
Sơn vừa dịch người lại để chỗ cho tôi ngồi xuống chiếc ghế dài, vừa nói giọng người lính:
- Anh cứ giữ mà dùng, ở đây dần dần rồi sẽ có đủ. Để ý làm gì những cái vặt ấy!
Rồi anh chỉ người cùng bàn đối diện, quay lại tôi, cười giới thiệu:
- Đây là Lý A Chén, tự giác của toán mình đấy!
Tôi cũng cười, nói là đã biết anh Chén từ hôm qua rồi, chỉ không ngờ anh lại là tự giác của toán thôi. Qua buổi nói chuyện này, tôi hiểu thêm được một số vấn đề mới. Như vậy, mỗi toán có một người tự giác, người mà có thể ra vào trại đi lao động, không cần phải có cán bộ đi coi. Anh tự giác này, tất nhiên đã được thử thách lâu ngày về nhiều mặt. Anh có trách nhiệm phải chạy lo nhiều khâu ở bên ngoài cho toán như: nguyên vật liệu, dụng cụ hoặc trông nom, bảo quản tài sản v.v… của toán ở bên ngoài trại. So với toán trưởng, trật tự thì quyền hạn và nhiệm vụ khác nhau.
Trong trại, thì trật tự là nhất. Ra chỗ lao động thì do toán trưởng điều hành toán. Nhưng trật tự và toán trưởng không thể ra vào trại mà không có cán bộ dẫn giải. Vì thế, trật tự và toán trưởng vẫn phải thân mật, hẩu với tự giác. Chính do thành phần tự giác này là đầu mối móc ngoặc, mua bán, đổi chác thầm lén với các phân trại khác và đôi khi cả với người dân của những bản làng trong khu vực. Cũng qua Lê Sơn và anh Chén trong gần một giờ ở buổi trưa này tôi đã nắm vững được giờ giấc sinh hoạt của trại:
Sáng sớm, 5 giờ: kẻng báo thức. 6 giờ 30: kẻng tập họp đi làm. 7 giờ: kẻng xuất trại. 11 giờ: kẻng về trại buổi trưa. 12 giờ 30: kẻng tập họp đi lao động buổi chiều. 13 giờ: kẻng xuất trại. 17 giờ: kẻng về trại. 18 giờ: kẻng thu tù vào buồng. 21 giờ, tức 9 giờ tối: kẻng cấm, tất cả đi ngủ. Như thế là tròn một ngày của tù. Theo Lê Sơn nói: trước đây, trại còn nhiều lần kẻng như:
Kẻng giải lao 15 phút giữa giờ lao động buổi sáng. Kẻng vào lao.
Kẻng giải lao 15 phút giữa giờ lao động buổi chiều. Kẻng vào lao.
Kẻng thu dụng cụ 15 phút trước 11 giờ, giờ tù về trại buổi sáng.
Kẻng thu dụng cụ 15 phút trước 5 giờ chiều, giờ tù về trại.
Kẻng lấy cơm buổi sáng. Kẻng lấy cơm buổi chiều.
Nghĩa là, suốt ngày tiếng kẻng, chát chúa khua đập vào tai mọi người. Có thể chính ngay lũ cán bộ cũng điên đầu, đinh tai, nhức óc suốt ngày đêm với tiếng kẻng. Bởi thế, bây giờ bỏ sót, nên mỗi ngày chỉ còn lại 9 lần kẻng mà thôi.
Thông thường, buổi trưa tù đi lao động về, chia chác cơm nước, ăn uống chỉ trong vòng nửa giờ. Do đấy, từ 11 giờ 30 phút cho đến 12 giờ 30 phút là lúc kẻng tập họp đi làm. Mọi người phải nằm nghỉ, ngủ trong một giờ để hồi sức tiếp tục lao động buổi chiều. Trong một giờ ngủ trưa này, nếu anh không ngủ được thì tuyệt đối không được gây một tiếng động làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của người khác. Đó cũng là nội quy của trại và trong những điều khoản của 12 điều “nếp sống văn hóa mới”.

12. Một Chiều Vấn Vương

Trong buổi nói chuyện với Lê Sơn, Lý A Chén này, tôi thấy rằng: Lê Sơn là một con người có kiến thức, khá lanh lẹ, bén nhậy. Vì thế, anh đã nhìn sâu, nhìn sát được nhiều vấn đề nên có nhiều hiểu biết về cái chế độ mà anh đã nhiều năm xả thân phục vụ, cũng như hiện nay đang nằm trong nhà tù của nó. Bản tính của anh lại ngông cuồng, hơi kiêu ngạo. Một người như vậy thì không thể nịnh bợ, xum xoe, báo cáo lập công một cách hèn nhát. Còn Lý A Chén là người dân tộc. Tuy anh không nói rành tiếng Kinh, nhưng anh có cái láu cá, khôn lanh riêng của người thiểu số. Những chuyện lớn như trốn tù, phá trại, ăn cắp lớn của trại thì anh ta sẽ không ngần ngại, gì mà không báo cáo. Chứ còn những chuyện vặt vãnh như: vài lời nói phản động, dăm ba củ sắn, cái lược v.v… thì hẳn anh ta cũng biết dành ra một cách sống thích hợp.
Cũng một phần do sự chân thành nhã nhặn của tôi, nhưng cũng do sự hiểu biết và hiếu đượm tình người của các anh nữa nên buổi nói chuyện cởi mở có ít nhiều tin tưởng. Tuy vậy, từ sớm ý định của tôi muốn biết về anh Khải bị đi cùm sáng nay và còn nhiều điều nữa muốn thăm dò, hiểu biết, nhưng xét ra chưa vội. Hãy để những ngày tới cho tôi có thể nhìn kỹ hơn; vả lại thời gian buổi trưa cũng đã gần tàn.
Buổi chiều ở ngoài lán thủ công. Lê Sơn thấy tôi cũng làm được nhiều việc trong vấn đề sơn, vẽ và kẻ băng khẩu hiệu, phần nữa do phong cách sống trọng người của tôi nên anh đã thể hiện sự quan hệ thân mật hơn:
- Anh làm như vậy, chỉ ít ngày nữa là công việc chạy lắm. Mình phải biết điều chế cho vừa phải thôi, kẻo mệt về sau.
Anh cũng cho tôi biết, chỉ còn hơn 10 ngày nữa là Tết, vì vậy những khẩu hiệu này là để chuẩn bị treo dán cho trại cũng như cho cơ quan trong dịp Tết. Lê Sơn còn khoe: cứ vào dịp này hàng năm anh sẽ phải lên cơ quan để trang trí nhiều ngày, và như vậy có nghĩa: trà và thuốc lá là không chạy đâu được. Anh cười, nói thêm:
- Bộ đội và cán bộ có biết chó gì đâu!
Vừa để hưởng ứng, và cũng vừa muốn đề cao Sơn một tí cho anh vui, tôi cũng cười:
- Họ phải như vậy thì anh mới nổi bật và mới èo ọt với họ được chứ!
Không ngờ anh lại lắc đầu quầy quậy, nói giọng hơi bực:
- Thế mà có được cái chó gì đâu. Sang, hẩu lắm là một gói trà Đoàn Kết 2 hào, hay gói thuốc lá Trường Sơn 3 hào là hết bã.
Nói rồi, anh cúi xuống chỉ cho tôi làm tiếp một số công việc. Xong rồi anh hạ giọng:
- Bình làm đi, làm vừa phải thôi. Để ý thấy cán bộ hay người lạ lên đây, ho 2 tiếng báo động cho tôi.
Dặn tôi xong, anh quầy quả đi khuất vào phía trong nhà. Một lúc sau, tôi vào trong góc nhà chỗ Lê Sơn đang cắm cúi, hì hụi tôi mới hiểu: anh đang cưa một chiếc lược bằng nhôm. Thấy tôi vào, ngừng tay, anh rút trong túi áo nâu ra một cái bọc con bằng vải đen, bên trong là một cái lược nhôm sáng bóng. Anh nương nhẹ bọc nó trong miếng vải sợ tay sờ vào làm mờ cái bóng soi gương được của chiếc lược. Anh đưa cho tôi xem rồi nói trong dáng tự hào:
- Hiện nay lược nhôm này đang được anh em trong trại ưa chuộng lắm, để làm quà khi gia đình lên thăm. Ngay cán bộ, bộ đội cũng có người lén lút nhờ làm, cũng để làm quà cho thân nhân mỗi khi họ được về phép. Nhất là trại nữ tiêu thụ mới nhiều.
Tôi cầm, ngắm nghía chiếc lược: phía đầu có một cành hoa hồng cả nụ, hoa, lá uốn éo, mềm mại; phía chuôi là hai con thỏ say đắm ôm nhau. Nét khắc thật là điêu luyện, tuyệt vời. Nghe những chuyện anh nói tôi đã hiểu. Nhiều phạm nhân ở trại này cũng như ở các phân trại khác không thể làm lược được như Lê Sơn vì nhiều lý do: thời gian, uy tín, nguyên liệu là nhôm và dura, lại không biết liều lượng pha chế giữa nhôm và dura của máy bay Mỹ để cho lược vừa cứng vừa bóng, chưa nói là khả năng cưa và khắc nữa. Rất nhiều điều không thể, nên chỉ có mình Lê Sơn làm được chiếc lược tuyệt hảo như vậy. Điều đáng nói nữa là Lê Sơn biết kìm chế ở mức điều kiện cho phép, tham thì đổ, vỡ. Tất nhiên anh phải bắt mối với những anh tự giác để chạy nguyên liệu cũng như tiêu thụ. Giá Lê Sơn bán là: cái nhỏ 2 đồng, cái vừa 3 đồng, cái lớn 4 đồng.
Để có ý niệm thì một đồng bạc ở trong trại E hay trại trung ương số I lúc này thật là không nhỏ. Lương cả tháng của một người tù tập trung cũng chỉ có 1 đồng. Một ngày công lao động là 4 hào. Nếu ai lao động làm về một cái gì đó như mộc, rèn, xẻ. Có làm chết cha, chết mẹ gầy cả người đi thì một tháng mới may ra vượt được 3 – 4 ngày công. Như vậy cũng chỉ có 1 đồng 20 hay 1 đồng 60. Nhưng cả toán cũng chỉ dăm ba người làm được thôi.
Qua chuyện trò với Lê Sơn về việc này, tôi cũng có suy nghĩ: tôi mới lên trại được vài ngày, Lê Sơn và tôi tiếp xúc với nhau chưa nhiều, vậy hẳn anh cũng có cái nhìn về tôi như thế nào. Tôi cũng hiểu về kinh nghiệm sắc sảo, tinh tế xét đoán con người thì tôi chỉ là học trò của anh. Mới lên trại tù lạ, chung quanh toàn những người e dè, lấm lét, câm lặng trong một bầu không khí ngột ngạt mà lại được gặp ngay Lê Sơn. Tôi còn được hưởng cái thích thú nữa là có người đã hiểu mình và dám tin mình. Chính vì vậy mà ngay chiều hôm ấy tôi đã hỏi Lê Sơn và anh Quý có cánh tay cụt là tổ trưởng lán vernie này. Vì anh chỉ có một tay nên toàn trại đều gọi anh là Quý Cụt. Tôi không thể ngờ Quý Cụt lại cùng vụ với Phạm Huy Tân. Cả câu chuyện về cái đảng “Tân cách mạng Việt Nam phong trào” gọi tắt là TÂN PHONG từ trong hố sâu của thời gian 4 năm xưa ở Hỏa Lò lại ùa về tràn ắp lòng tôi. Chợt nhớ đến ông Chương chủ tịch đảng mà tôi ngưỡng mộ từ lâu; săn đón tôi hỏi Lê Sơn:
- À, vụ của Quý Cụt, nghe đâu còn người nữa là Chương thế nào?
Lê Sơn ngước đầu lên nhìn tôi, hơi một chút ngạc nhiên, rồi chẳng hiểu anh nghĩ sao, cúi đầu chậm rãi:
- Ông Chương đang ở toán 3 ấy!
Hỏi Sơn sang một chuyện khác, vì tôi chủ trương sẽ có một buổi gặp ông ta khi điều kiện cho phép. Nói chuyện với Sơn tôi được biết thêm: chẳng hiểu khi bị bắt, nội bộ đảng này có mâu thuẫn khai báo ra sao đó. Hiện giờ, giữa thằng Tân và Quý Cụt chẳng bao giờ nói chuyện với nhau, như muốn tránh nhau.
Mới khoảng 4 giờ chiều mà mặt trời đã đi đâu mất. Trong nhà vernie, ánh sáng nhạt đi rồi thẫm dần. Ngoài hiên đã có những hạt mưa li ti, trăng trắng như rây bột. Nhìn những hạt mưa bay đang quấn quít, dẫy dụa trên cây nứa cụt phía chái hồi như vẫy gọi, như nhắc nhở tôi về cái thú xưa. Cái thú ngay từ những ngày hoa mộng còn cắp sách đến trường mà bạn bè thân của tôi ai cũng đã biết. Dù đang làm gì, hễ cứ thấy mưa phùn bay là tôi mặc quần áo ra khỏi nhà, đi dưới mưa bay. Tại sao lúc này tôi lại không hưởng cái có thể của tôi, dù chỉ từ đây ra đến nhà cầu phía cuối lán thủ công? Nghĩ thế, tôi đứng dậy ra ngoài. Không được cái thú đi đường dài dưới mưa, thì ngồi nhìn mưa bay vậy. Thà chịu mùi hôi, tôi lên nhà cầu ngồi. Trong mưa bay dầy hạt, tôi đưa mắt nhìn toàn bộ khu thủ công. Nó là một hình thang méo, cạnh dài là phía cổng, nhìn xa xa là lá cờ và khu giám thị. Giữa khu giám thị và khu thủ công là một con đường đất rộng, dẫn ra phía trại xây đã hoang tàn mà tôi đã nhìn thấy trên đường vào đây, mấy ngày trước.
Chung quanh khu thủ công rào bằng những cây nứa chẻ đôi. Nứa dựng đứng, ghép sát vào nhau; buộc, kên chặt vào những chiếc cọc gỗ to chôn sâu xuống đất. Tuy rào nứa, nhưng chỉ có một lượt, lại thưa mắt cáo nên đứng ở trong lán nhìn ra ngoài đường, nếu có người đi lại cũng thấy thấp thoáng. Khác hẳn với hàng rào của trại giam, được kên chặt 2 lần của cả cây nứa, nên kín mít giữa trong với ngoài; vững chải, kiên cố như tường xây.
Trong khu thủ công gồm có hai lán dài chính và mấy chiếc nhà phụ. Lán dài nhất là lán làm mộc. Một gian đầu có vách kín dùng để kho chứa đồ, còn lại là 7 – 8 gian trống trơn không có vách. Mỗi gian có 4 cầu bào làm mộc đặt phía hai bên, để ở giữa có một lối đi rộng dọc theo nhà. Một lán chính giữa ngắn hơn là của toán xẻ gồm chừng năm sáu gian. Mỗi gian có 3 cặp xẻ với những khúc gỗ lớn dựng hơi nghiêng. Hai người một cặp với chiếc cưa to, dài ngoẳng. Một người đứng cao bên trên, một người đứng dưới, suốt ngày cứ kéo cưa lừa xẻ. Anh nào làm khỏe thì ăn 18 kg chất bột; anh nào làm vừa thì ăn 15 kg, còn anh nào làm yếu thì về….. không được bú mẹ mà được đi kỷ luật cùm.
Một chiếc lán nhỏ hơn, ngay cạnh lán của toán xẻ; có một số bác già yếu, tật nguyền, đan lát ở một bên. Còn một bên là một chiếc bễ lò rèn, cứ thở phì phò suốt ngày. Có lúc như cãi nhau với tiếng khò khè xẻ gỗ của toán 3 bên cạnh. Nhưng có lúc lại như thủ thỉ, nồng đượm, đắm say của chàng với nàng. Thực vậy, bất cứ ai đã vào đến khu thủ công này đều không thể quên được bản hợp xướng vĩ đại của trại E nơi núi ngàn Hoàng Liên Sơn.
Dài theo cả ngày, tiếng pắc pắc liên tục như tràng pháo tép của dùi đục, của búa con thuộc lán mộc. Tiếng pang pang của búa tạ lò rèn; tiếng khò khè than thở của toán xẻ; tiếng phì phò, phì phò hổn hển của đôi bễ cứ quyện vào nhau, quấn quít lấy nhau, xoáy lên một cộng hưởng tuyệt vời của bản đại hòa tấu: “lao động là vinh quang muôn đời”.
Nhìn ra phía hai đầu, có hai gian nhà được dựng tách rời, riêng rẽ ở hai khu đất trống. Đó là hai nhà làm việc của hai tên cán bộ quản giáo toán hai và ba. Ngoài một căn chòi nhỏ ngay phía cổng có một tên vũ trang gác. Phía sau lán, có hai chiếc chòi cao làm sát vào hàng rào, cũng có hai tên vũ trang. Mỗi đứa một chòi, ngồi trên đó.
Mưa càng lúc càng dầy, càng nặng hạt. Tôi ngồi đã ê cả chân mà lòng vẫn còn muốn ngồi nữa, nếu không thấy 2 bác già đang run rẩy, đứng chờ dưới mưa lạnh thì tôi vẫn chưa về lán. Tôi ngồi viết, vẽ được một lúc lâu, đã mỏi cả người, vậy mà hồn tôi vẫn chưa hết chơi vơi với gió mưa ở ngoài trời. Nhìn những chiếc lá hình quả trám của cây Chò phía hông lán mộc, giẫy lên đành đạch từng hồi như muốn báo cho trại E biết, nàng Đông Bắc đã lại mò về.
Một nỗi nhớ nhung từng cơn như bẹo, chí lòng tôi. Cũng mưa bay, cũng gió thổi, mới buổi sáng hôm qua ở cái miền nhiều thương đau và cũng nhiều ngây ngất ấy; bây giờ xa vời vợi. Chẳng biết rằng, có lúc nào đó, người ấy còn nhớ đến tôi, đến một kẻ phải ôm một kiếp tù. Tay tôi làm việc, thỉnh thoảng tôi cứ nhìn ra mưa bay. Trong làn mưa lung linh ấy, rõ ràng một bóng hình thuôn thuôn, mềm mại với chiếc áo bông loang lổ hoa cà và làn tóc buông lơi vẫn đượm ngát mùi hoa nhài. Một vần thơ chẳng còn nhớ của thi nhân nào cứ lảng vãng trong hồn tôi:
Để thương, để nhớ cho đời.
Để vương vấn lại cho người xa xôi.
Nỗi nhớ từng cơn, từng cơn cứ cuồn cuộn lồng lên xé nát lòng tôi. Lúc giã từ, tôi cứ tưởng rằng, rồi đây ở nơi núi rừng hoang vắng, trong chỗ đen tối, lầm than của ngục tù; một trái tim đã bị cuộc đời vò xé, băm vằm tả tơi thì còn sá gì chuyện thương yêu. Nhưng người hỡi, tôi đã lầm!
Tôi đang để hồn đắm chìm vào niềm thương, nỗi nhớ thì chợt nghe có tiếng động ở chiếc cửa của hàng rào gỗ phía bên ngoài. Thoáng thấy tên cán bộ toán đang bước lên hè, tôi nhẹ ho 2 tiếng để báo động cho Lê Sơn. Từ lúc sáng do anh Lân, tôi đã biết tên của lão cán bộ toán là Kích, trung sĩ cán bộ tập kết. Khi y bước vào nhà thì Lê Sơn đã cầm bút vẽ đang choài người trên tấm khẩu hiệu như đang mải mê làm việc. Quý Cụt, tay còn cầm chiếc cọ từ phía trong đi ra lên tiếng trước:
- Chào cán bộ ạ!
Chúng tôi đều quay lại chào y, vừa gật đầu, y vừa tiến lại chỗ tôi, nhìn những chữ tôi đang tô vẽ. Mặt y hơi sáng lên, chiếc đầu hơi nhúc nhích gật. Một tia nhỏ hài lòng nhoáng lên trong mắt y. Lê Sơn đứng hẳn lên quay người lại, với giọng Nghệ An khìn khịt:
- Còn 3 băng khẩu hiệu lớn nữa trên ban giám thị mà sơn đỏ và trắng đã gần hết. Đề nghị cán bộ phản ảnh với ban giám thị cho cán bộ đưa sơn vào để chúng tôi còn làm kịp thời gian trên đã ấn định.
Tên cán bộ đã bước gần lại chỗ đống lửa đang âm ỉ cháy giữa nhà. Hai tay y rút ra khỏi túi, quơ quơ trên ngọn lửa vừa lướt nhìn một lượt chung quanh nhà rồi lay lứt giọng miền Nam:
- Các anh phải nhớ, sơn phải về mãi Hà Nội mới mua được, vì thế phải triệt để nâng cao ý thức tiết kiệm và bảo quản tốt. Dù là ở trong lán mặc lòng, mỗi ngày khi làm xong phải đem sơn bỏ vào tủ khóa lại.
Thấy toàn những chuyện không nhằm nhè gì đến mình, tôi lách mở cửa sau, lại ra nhà xí để đi giải nữa. Bên ngoài gió Đông Bắc càng lúc càng mạnh, những hạt mưa phùn càng to và dầy đặc hơn. Con đường mòn đã lầm bùn lên nhớp nháp, nhiều vết chân đi. Vừa đi giải tôi vừa run cầm cập, càng về chiều, trời càng lạnh. Đã cuối Đông, nàng Xuân sắp về với núi ngàn sao mà còn lạnh thế! Tôi nhìn những ống vầu to tướng cưa vát miệng. Hơn một chục ống dựng hàng loạt, nghiêng dựa vào một cây nứa nằm ngang, được buộc chặt vào hai chiếc cọc gỗ. Ống thì lưng lưng, ống thì đầy nước tiểu. Sáng hôm nay, qua Quý Cụt tôi đã hiểu: đây là một nguồn phân hữu cơ có giá trị kinh tế của trại.
Nghe Quý nói, làm tôi nhớ đến buổi sinh hoạt của tổ Phan Thanh Vân tối hôm qua. Một anh đã phê bình một anh là đã đi giải không đúng chỗ quy định, làm lãng phí nhiên liệu. Nghe thấy lạ lùng khó hiểu, tôi cứ tưởng là họ đang phê bình một anh nào đó đi tiểu bậy bạ không đúng chỗ làm mất vệ sinh, chứ đâu có nghĩ là lãng phí nhiên liệu. Một ý nghĩ làm bụng tôi cũng nhúc nhích buồn cười: phải gọi là nhân liệu mới đúng.
Khi tôi trở về lán vernie thì tên cán bộ đã ra rồi. Tiến gần lại đống lửa, hơ tay cho đỡ cóng. Quý Cụt quay lại nhìn tôi, nói rổn rang như rắc sỏi:
- Bình mới nhập trại mà hên thật! Trời này, trong khu thủ công chỉ có lò rèn và lán vernie là duy nhất có lửa sưởi.
Tôi còn ngơ ngác chưa hiểu trọn ý của Quý Cụt, Lê Sơn đã giải thích:
- Mùa Đông rét căm căm, lạnh thun chim lại; được lao động trong lán là hạnh phúc rồi! Những toán làm rau, làm ruộng, vào rừng chặt cây, vác nứa v.v… Bình cứ tưởng tượng là thấy rồi. Trong lán thủ công, cái lửa của lò rèn là cái lửa của nghề nghiệp rồi, không nói. Còn lán vernie, dầu và vernie cần khô mới bóng nên phải đốt lửa.
- Như vậy là chúng ta bị sưởi, chứ không phải được!
Tôi nói tiếp, làm cả 3 đều cười thành tiếng. Trời càng về chiều gió càng lộng. Gió rào rào ở phía rừng cây thổi thốc vào trong nhà từng đợt. Nếu đóng cửa, có đống lửa thì cũng tương đối ấm. Nhưng lại bị tối lờ mờ thì làm sao mà viết với vẽ? Do đấy, dù lạnh đến cứng cả ngón tay không cầm được bút vẽ thì cũng đành phải mở cửa ra. Nhưng mỗi khi nghĩ đến, chẳng phải ở đâu xa, ngay anh em ở dưới lán mộc thôi, chung quanh, trống trơn không có vách, liếp, họ còn lạnh thế nào mà vẫn phải chịu, thì mình đây đã may mắn hơn họ nhiều rồi. Cứ nghĩ như thế là thấy bớt hẳn lạnh đi nhiều.
Khi toán tập họp ra về thì trời càng thẫm lại. Đứng ở sân tập họp, anh nào cũng áo bông, áo tơi chằng đụp, lếch thếch lôi thôi. Lại còn những chiếc mũ nữa chứ! Thôi thì đủ kiểu, đủ mầu, từ những mảnh chăn rách, đến những miếng dạ đã rụng hết lông tơ đều có thể túm, véo thành một chiếc mũ để chống cái lạnh của đất trời. Tôi cứ nhìn về phía Vân mãi. Dáng anh đã cao, lại đội một chiếc mũ, chẳng biết do anh hay người khác thiết kế: nửa dạ, nửa vải, tùm hụp che gần kín mặt; chỉ có một con mắt. Mỗi khi anh nhìn về phía này hay phía kia, tôi cứ cảm thấy lấp ló như mắt con cú mèo. Còn anh chàng Nguyễn Huy Lân nữa, thùm thụp khoác một chiếc áo bông tã cũng chằng đụp, không biết nên gọi nó là mầu gì. Chỗ nâu, chỗ đen, chỗ xám nhưng chỗ nào cũng xỉn lại vì vải đã lâu ngày và lâu ngày không giặt. Anh đang ôm một chồng sổ sách đi từ đầu hàng trở xuống dưới mưa bay dầy hạt. Cứ đến một đôi, đầu anh lại gật một cái, môi nhóp nhép như chào; nhưng thực ra anh đang đếm nhẩm số người anh điểm.
Người đứng trong hàng đã run, mà người đi điểm cũng ngắc ngư. Một phần nữa là bụng anh nào cũng chả có cái quái gì để có calo chống lạnh cả. Ai cũng mong cho nhanh, cho chóng, làm lẹ để còn về tổ ấm trong nhà tù. Mưa, gió rét lạnh như vậy mà khi toán về đến cổng trại vẫn thấy một anh đứng cạnh cổng, tay cầm một gói lá giong dại. Trong gói có chừng 3 lạng lá cải bắp già đã luộc rồi. Bên cạnh, là một bác chừng 45 hay năm chục tuổi, hay tay đang ôm 3 – 4 củ sắn nướng, nhiều chỗ đã đen xì. Cả hai cùng khoác áo tơi lá cũng đã tả tơi nhiều chỗ rách. Hai cái mặt thì tái ngoét, hai cặp môi xám xịt, cứ đứng chơ vơ ngoài gió lạnh, mưa Đông. Hai chiếc áo tơi lá cứ rung tít mãi lên, không hiểu vì gió hay vì người? Khi về đến gần ngang buồng, đang đi cạnh anh Bùi Tâm Đồng, tôi hỏi anh giọng băn khoăn:
- Tại sao họ không ăn ở ngay ngoài đồng, mang về trại làm gì để bị phạt, đứng lạnh khổ như vậy?
Anh Đồng quay hẳn sang nhìn tôi đăm đăm một giây, ánh lên vẻ lạ lùng rồi mặt anh trở lại tự nhiên. Chắc hẳn rằng anh đã hiểu, chỉ vì tôi chưa biết mới hỏi. Vừa đi vào buồng, anh vừa nói:
- Đôi khi toán làm ở ngoài đồng được cải thiện. Hoặc anh nào đó lén lút, xoay sở kiếm chác được cái gì cố liều, giấu mang về trại. Nếu may mắn mang thoát được vào trại sẽ ngấm ngầm móc ngược đổi lấy giấy viết thư, tem, phong bì hoặc thuốc lào, mà nếu không thì báo. Thiếu gì người có tiền, nhưng đói muốn mua.
Dù là mưa bay, nhưng mái tranh cũng nhì nhẹt nhỏ giọt. Mặt sân vẫn bùn đất, nhếch nhác vì thế các toán đều phải chia cơm canh ở những mái hiên hay vào trong hội trường. Trong lúc chia cơm, thỉnh thoảng tôi vẫn rõi mắt về hai người bị phạt còn đang đứng run rẩy ở phía cổng trại. Lòng tôi cứ ngậm ngùi, đầy vơi cho một kiếp người. Không biết bạn bè có ai lấy dùm cơm, canh cho họ hay không?

13. Một Buổi Sinh Hoạt Cuối Tuần

Hôm nay khi cán bộ trực trại vào điểm xong, sau khi cửa đóng, anh Lân cất cao giọng nói với toán hai:
- Mười lăm phút, các anh toán hai hút thuốc, đi giải rồi ta vào sinh hoạt toán.
Không thấy tiếng đài léo nhéo như hôm qua. Tôi hỏi Vân thì được biết, hôm nay thứ Sáu, không có đài, để cho các toán, các buồng sinh hoạt hàng tuần. Vân móc túi mời tôi điếu thuốc cuộn, rồi nhẹ nhàng nói:
- Tôi nghe Bình được vào làm ở tổ vernie, may đấy. Công việc mộc nặng lắm!
Ngưng một lúc, đốt điếu thuốc, Vân lại hỏi:
- Thế nào, cảm tưởng Bình ra sao sau một ngày đi lao động?
Nhiều ý tôi định nói, nhưng tôi trả lời lập lờ, sau khi mồi xong điếu thuốc Vân đưa:
- Mình là tù thì chỉ biết cố gắng.
Nói rồi, tôi hỏi tiếp Vân, giọng hơi thắc mắc:
- Này, sao tôi thấy sau lưng nhiều người có số tù. Nhiều anh lại chỉ có chữ “cải tạo”?
Vân cũng nhìn tôi như cái nhìn của anh Đồng, khi tôi hỏi về hai người bị phạt đứng ở cổng trại lúc chiều, rồi chậm rãi nói nhỏ:
- Điều này chẳng ai hiểu được. Tập trung hay người ta thường gọi là “tắc bọp” thì không có án đã đành. Nhưng nhiều người có án cũng không có số. Như tôi đây chẳng hạn.
Vân nói đến đây thì anh Lân ngồi ở sàn phía trước, ngay cạnh cửa ra vào, vẫy tay ra ý muốn gọi tôi sang. Vừa đến nơi, Lân kéo tay tôi ngồi xuống cạnh, rồi ghé tai tôi nói nhỏ:
- Tao đề nghị, và nói mãi với cán bộ để mày về tổ vernie đấy!
Thấy cử chỉ của anh tỏ ra đầy thiện cảm, qua ánh mắt của anh cũng không thấy gì phải dè dặt, tôi cũng thân mật:
- Trong Nam anh ở đâu? Gia đình ấy!
- Vợ con tao ở Nghĩa Hòa, Ông Tạ, Sài Gòn. Thế còn mày?
Anh vồn vả hỏi lại tôi. Mừng ra mặt, tôi cũng niềm nở:
- Cũng ở gần anh, cuối đường Bắc Hải, Lê Văn Duyệt, và cũng Ông Tạ.
Anh rối rít đập vào tay tôi:
- Thế à, thế sao tao không trông thấy mày bao giờ?
Tôi thấy buồn cười, rồi cũng trả lời anh:
- Thế mà tôi lại…cũng không trông thấy anh bao giờ.
Anh cười như nắc nẻ thành tiếng. Tôi cảm thấy anh cũng không có gì sâu, hiểm. Người anh, tuy da vẫn còn tai tái như mọi người tù khác, nhưng anh vẫn mập so với nhiều người. Tôi đang nghĩ ngợi về anh, thì anh lại đập vào tay tôi như thúc giục:
- Thôi về sinh hoạt đã, mai nói chuyện tiếp.
Nói dứt, anh đứng lên, đi ra giữa nhà cất tiếng dõng dạc:
- Anh em toán hai ở sàn trên xuống hết dưới này. Toán hai ngồi gọn tập trung sinh hoạt ở phía đầu này. Còn toán ba sinh hoạt ở sàn trên, phía đầu kia để không bị ảnh hưởng lẫn nhau. Anh vừa nói, tay anh vừa khoắng ra hai phía của căn nhà.
Trong buồng rầm rập, người trèo lên, người trèo xuống. Một vài tiếng í ới lớn tiếng của toán ba nhắc một người vào nhà xí, lấy chiếc đèn trong đó ra để sinh hoạt. Một anh toán hai trèo lên sàn trên với, tháo chiếc đèn bão đang treo giữa nhà xuống. Chỉ hai phút sau, căn buồng lại trở về im lặng. Trong góc phía sàn dưới, toán hai gồm năm mươi người quây quần, tụm lại một đám thành một vòng tròn. Ngay ở giữa, để một khoảng trống hơn một mét vuông. Lù lù ở một mé khoảng trống, đặt ngay trước mặt Phan Thanh Vân được Lân chỉ định làm thư ký ghi biên bản buổi sinh hoạt là một chiếc rương bằng gỗ, quét mực tím đã phai màu. Trên mặt rương, một góc là chiếc đèn bão, chính giữa là mấy tờ giấy trắng. Cái bút và lọ mực cũng mầu tím. Anh Nguyễn Huy Lân, toán trưởng chủ trì cuộc họp đang ngồi cạnh Phan Thanh Vân. Tôi ngồi trong một góc phía sau, cạnh Bùi Tâm Đồng với cậu Châu.
Ánh sáng của chiếc đèn bão hắt ra, làm cho những khuôn mặt ngồi xa phía sau thành đen thẫm. Lấp loáng những đốm mắt trắng đục lờ đờ, đăm chiêu đều nhìn vào chiếc đèn. Thoang thoảng một vài tiếng thì thào, rì rầm trong yên lặng. Nguyễn Huy Lân hơi dướn người lên, mắt lướt nhẹ một vòng qua các khuôn mặt, khèn khẹc vài tiếng, gãi cục đờm thuốc lào trong cuống họng. Anh cất tiếng, giọng vẫn còn rè:
- Lệnh và chỉ thị của ông cán bộ toán cho chúng ta sinh hoạt hôm nay nhấn mạnh. Toán ta phải đào sâu, cọ kỹ, mổ xẻ cụ thể về vấn đề tư tưởng. Toán chúng ta đã có truyền thống lao động hăng say, ít vi phạm nội quy của trại, triệt để áp dụng nếp sống văn hóa mới, thực hiện nghiêm chỉnh bốn tiêu chuẩn cải tạo, sản xuất thường vượt mức kế hoạch. Vậy mà chưa năm nào khi bình bầu, toán ta được là toán xuất sắc. Như vậy là vì sao? Chính là vì vấn đề tư tưởng. Chúng ta phải thừa nhận rằng thành phần của toán chúng ta thật phức tạp. Nhiều cặn bã, mầu sắc, khuynh hướng được buộc chặt, gói kín. Nhưng thỉnh thoảng vẫn lấp ló ra trong lời nói hay hành động.
Chúng ta đều biết, hiện nay trong nhà kỷ luật có 6 người của toàn trại mà riêng toán ta đã chiếm 3 người. Tóm lại, chúng ta không thể phủ nhận là toán ta rất nặng về khâu tư tưởng. Bởi vậy, tôi đề nghị các anh hãy thành khẩn, tự nguyện trình bầy những khúc mắc trong lòng mình cho mọi người cùng đóng góp qua lại lẫn nhau, xây dựng giúp cho nhau cùng tiến bộ.
Anh Lân đã ngừng lời, cục hầu ở cổ anh cứ động đậy nhô lên, thụt xuống; chẳng hiểu vì muốn lấy hơi hay nuốt nước bọt? Láo liêng con mắt, anh nhìn khắp một lượt, đợi chờ.
Một phút, rồi hai phút, vẫn im lặng, nặng nề; nghe rõ cả một anh đang gãi bụng sồn sột. Một số cái đầu hơi cúi thấp xuống như muốn tráng ánh đèn. Bầu không khí đã bắt đầu hơi ngột ngạt, mặt tôi cũng dần dần nóng lên. Có lẽ anh Lân cũng thấy cái tắc nghẽn của sự im lặng, vì vậy anh lại rổn rang cất tiếng để tháo nút:
- Bây giờ trước hết từng tổ lần lượt phát biểu trình bầy những vướng mắc và những sự việc chính của tổ mình trong tuần qua.
Anh Lân vừa dứt lời thì đã có hai người giơ tay xin phát biểu. Cả hai anh tôi đều chưa biết tên, anh Lân chỉ một anh có cái đầu nhọn hoắt, cái môi dưới thưỡn ra như môi cá ngão, anh nói sôi nổi như cổ vũ:
- Hoan nghênh anh Dũng tổ 4. Xin mời anh phát biểu!
Anh có cái tên Dũng, lấy tay hất mạnh mái tóc đang phủ xuống mặt như đuôi con gà trống lên; mắt đăm đăm nhìn ngọn đèn:
- Tổ tôi gồm có 9 người, hiện nay chúng tôi nhận thi công 10 chiếc giường đôi của toán. Nói chung về khía lao động thì mọi người đều nổ lực làm đều tay. Còn về tư tưởng của mỗi người thì tôi không thể biết được. Tuy vậy, chỉ có anh Lù Chằn Păng, trong giờ lao động, anh hay lén lút làm đồ tư. Cụ thể tôi đã đưa một chiếc hộp con anh đã làm bằng gỗ Mỡ, báo cáo với cán bộ toán. Mặt khác, những buổi trưa hay chiều, anh Páng thường lẩn ra phía sau hội trường để liên lạc, quan hệ thì thầm to nhỏ với nhiều người dân tộc khác. Hiện tượng này, trong tổ chúng tôi đã nhiều lần giúp đỡ, nhưng anh vẫn cứ chứng nào tật ấy. Chưa hết, chiều Chủ Nhật vừa qua, anh Páng đã đem 4 con tem thư để đổi lấy con chuột nướng của anh Thiềng tự giác toán 6.
Thấy y phát biểu cứ giật đùng đùng như người ta đánh trống ngũ liên; tôi hỏi nhỏ cậu Châu ngồi bên cạnh. Tôi đã biết Châu là một trong nhóm 4 người mà Shè Khửu Sáng đã nói với tôi:
- Này em, Dũng, y tội gì?
Châu ghé sát vào tai tôi thì thào:
- Thằng này tiến bộ lắm! Nó thuộc đảng phái trong nhóm của Phạm Huy Tân. Nó là Lê Khắc Dũng, anh em vẫn gọi nó là Dũng Khoằm. Anh có nhìn thấy cái mũi của nó khoằm xuống như mỏ con vẹt không?
Trong khi Châu đang thì thầm với tôi thì anh Lân đã hướng về anh thứ hai, đã giơ tay lúc nãy:
- Bây giờ xin mời anh Đinh Sơn, tổ kỹ thuật phát biểu.
Nghe anh Lân gọi là Đinh Sơn, tôi cứ chằm chặp nhìn anh ta mãi. Óc tôi đang lục tìm những cái tên trong toán Boone biệt kích đã ra đầu hàng. Phải rồi Đinh Sơn, Lân, Thú, Công Thành v.v… Hôm qua tôi đã nhìn thấy anh này nhiều lần ngoài lán mộc. Dáng anh cao cao, nhưng cái lưng lại hơi cong về phía trước. Tóc anh cắt ngắn ngủn, đôi mắt to và sâu, làn lông mày thật thưa. Nét mặt luôn đăm chiêu, chưa thấy lúc nào anh ta cười.
Trong khi tôi đang thả hồn nghĩ ngợi về anh và toán Boone thì anh đang chậm rãi, nhỏ nhẻ phát biểu:
- Tổ chúng tôi chỉ có 3 người, thường sản xuất mặt hàng làm kỹ, riêng cho cán bộ và ban giám thị nên không có định mức. Tuy vậy, trong phong trào thi đua một người làm việc bằng hai để góp phần chống Mỹ cứu nước, tổ chúng tôi luôn luôn cố gắng thao tác tay nghề thành thực; nâng cao kỹ thuật để đạt hiệu suất cao. Hàng ngày chúng tôi thường động viên, giúp đỡ nhau trong ý thức tập thể vươn lên; triệt để hưởng ứng phong trào thi đua chung của trại.
Tuy lời phát biểu không có gì đặc biệt, nhưng anh nói từ tốn, trầm trầm thể hiện sự điềm đạm, sống nhiều về nội tâm. Tôi đang nhìn chiếc lưng dài, cũng hơi cong cong của Phan Thanh Vân đang ngồi khòm xuống ghi biên bản thì anh Lân lại hướng về một anh nhắc nhở:
- Còn tổ 3 của anh Phạm Tấn Tích nữa. Tổ vernie của anh Quý phát biểu đi chứ!
Một anh chắc là Tích, tuy còn trẻ nhưng dáng lùn tịt. Từ sớm, anh vẫn ngồi im lặng nhìn xuống khoảng chiếu trước mặt. Chiếc cằm của anh lẹm ngắn cũn cỡn; hàm răng trên lại hơi hô, nên nhìn thoáng, cứ tưởng như anh không có cằm. Anh ngẩng lên nhìn về phía chiếc đèn; cũng khọt khẹc gại giọng rồi anh nói ẽo ợt, giọng đặc Bến Tre:
- Tổ chúng tôi gồm 10 người, hiện đang nhận đóng 5 chiếc tủ áo hai ngăn của trại. Trong ý thức thi đua thực hiện tốt 4 tiêu chuẩn cải tạo, chúng tôi luôn nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, nâng cao tay nghề, nỗ lực lao động sản xuất để đạt năng suất cao. Về nội quy, tổ chúng tôi không vi phạm. Tuy vậy, tôi xin đề bạt một ý kiến trong thực tế mà chúng ta lại không ai nói đến.
Nói đến đây, anh Tích ngừng lại, a hèm mấy cái. Chắc bị vướng mấy tảng đờm trong cuống họng, vừa như anh cố ý để cho mọi người sốt ruột rồi mới nói tiếp:
- Trong phong trào thi đua một người làm việc bằng hai góp phần vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước với nhân dân. Hầu hết chúng ta ai ai cũng ra sức cải tạo, lao động không tiếc thân mình. Nhưng thực tế trong những buổi lao động, mọi người hùng hục hăng say thao tác chỉ được một giờ đầu, rồi sau đó rã rời uể oải dần. Tay cưa, tay đục, tay bào; thậm chí anh nào cũng hoa mày chóng mặt. Trong khí thế cả nước, quân cũng như dân đang dốc toàn lực cho sản xuất và chiến đấu, chúng ta không được quyền đòi hỏi ăn nhiều. Chúng ta chỉ xin ăn tạm đủ để có sức mà lao động sản xuất. Hơn nữa trong vụ giáp hạt của trại ta vừa qua: gạo chúng ta không có đã đành, nhưng sắn cũng không đủ, nhất là rau. Phương ngôn của dân tộc ta vẫn có câu: cơm không có rau, như đau không có thuốc. Chúng ta thiếu rau trầm trọng. Ăn muối rang nhiều bữa, nhiều người trong toán đã đi ngoài ra máu, trong đó có tôi. Toán chúng ta lại chỉ quanh quẩn làm trong lán thủ công…..
Anh Tích phát biểu đến đây, chừng như mệt ngừng lại để lấy hơi. Mọi người đều dướn người nhìn về phía anh. Da mặt ai hình như cũng được giãn ra, nên hơi sáng lên. Anh Tích lại tiếp tục:
- Tôi được biết toán rau đang thu hoạch toàn bộ 5 sào cải bắp cho cơ quan. Tuy những lá già được thu hoạch về phân phối một phần cho trại ta, một phần cho chăn nuôi của cơ quan. Nhưng anh em toán rau cho biết, vẫn còn nhiều rơi rớt, lãng phí. Do đấy, tôi đề nghị anh toán trưởng hãy mạnh dạn đề bạt với cán bộ toán quan hệ với ông Toàn cán bộ toán 5 cho anh Chén nhặt nhạnh và xin một ít lá cải bắp già về luộc cải thiện cho toán.
Đến đây thì mọi người nhao nhao lên tán đồng, ủng hộ ý kiến của anh Tích. Ngay cả tôi, mới vào có mấy ngày, cũng sót ruột như bào vì bữa cơm chỉ có sắn mà không có rau. Trong toán vẫn còn râm ran, ồn ào cả lên. Anh Lân phải cao giọng hai lần:
- Các anh trật tự, im lặng để sinh hoạt tiếp.
Rồi anh qua sang Phan Thanh Vân:
- Bây giờ đến tổ anh Vân cho ý kiến.
Từ đầu Vân vẫn cắm cúi ghi chép. Bỏ bút, anh hơi ưỡn người, chắc cho đỡ mỏi. Vì anh ngồi sát chiếc đèn, tôi nhìn rõ cái mắt chột phía trái của anh. Nó hoắm sâu vào như cái lỗ đáo, một vệt nước ướt vàng nhờn nhợt đang rỉ ra. Một cái sẹo dài ngòng ngèo, có một miếng thịt gồ lên ở dưới má. Mấy nốt sần sùi gần ngang miệng càng làm cho bộ mặt hơi to của anh thêm dữ tợn. Bù lại, anh có giọng nói nhỏ nhẻ và ấm cúng với chiếc miệng lúc nào cũng như cười, đã làm giảm hẳn cái nét dữ trên khuôn mặt. Một mắt anh liên láo nhìn mọi người một lúc, rồi cất giọng nói từ từ, thong thả:
- Tổ chúng tôi gồm 10 người. Chúng tôi đang nhận kế hoạch thi công 50 cái giường cá nhân. Sau nhiều lần bàn cãi, trao đổi, tổ chúng tôi đã cùng nhau hạ quyết tâm sẽ vượt mức ấn định 3 ngày, để lấy thành tích chào mừng quân và dân ta đã hạ 2000 máy bay của giặc Mỹ xâm lược. Nhưng hiện nay, chúng tôi hơi gặp khó khăn: anh Khải bị đi kỷ luật sáng hôm nay, do đấy, hẳn rằng chúng tôi sẽ không thể thực hiện được mức đã giao kết. Ngoài ra, sáng hôm nay có sự hiểu lầm để đến chỗ tranh chấp nhau về gỗ lạt với tổ anh Tích. Tôi thấy rằng tổ anh Tích đã sai. Những tấm ván đó, chúng tôi đã mất công lục lọi, bới tìm từ trong đống gỗ của lán chọn ra. Như thế, những tấm ván mà anh Lân toán trưởng phân cho tổ anh Tích là những tấm ván khác. Hoặc, chính anh Lân đã chưa biết những tấm ván ấy là của chúng tôi đã chọn ra nên đã phân bổ cho tổ anh Tích.
Sau khi Vân phát biểu xong, đến Quý Cụt tổ vernie của tôi cũng phát biểu, nhưng không có gì mới. Đến đây, anh Lân lại nhìn khắp lượt cả toán rồi dè dặt thăm dò:
- Sau khi chúng ta đã nghe các tổ đã lần lượt trình bầy, bây giờ xin anh em trong toán phát biểu.
Anh Lân chưa dứt lời đã có 3 – 4 cánh tay giơ xin có ý kiến. Trong 4 người này thì tôi đã biết 2 là Lù Chằn Páng và bác Đặng Minh Chánh. Anh Lân chỉ bác Chánh nói trước. Với giọng miền Nam khàn khàn, nhưng bác nói thật to và mạch lạc:
- Tôi phản đối ý kiến của anh Lân toán trưởng khi nãy, cho là toán hai khâu tư tưởng quá nặng nề. Tư tưởng là trừu tượng! Bản thân của tư tưởng thì không ai nhìn thấy nên không thể ai đánh giá được là xấu hay tốt. Vậy chỉ có thể đánh giá được khi nó thể hiện ra lời nói, cử chỉ hay việc làm. Bởi tư tưởng là thống soái, là bộ tổng tư lệnh chỉ huy mọi việc làm, cử chỉ cũng như lời nói của một người. Toán 2 chúng ta như các tổ đã trình bầy, hầu hết là hăng say, tích cực lao động. Lao động có hiệu suất cao, vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch, làm lợi cho công quỹ của trại. Thực hiện nghiêm chỉnh 12 điều nếp sống văn hóa mới, 10 điều nội quy và 4 tiêu chuẩn cải tạo. Như thế, nếu bảo tư tưởng không tốt, tư tưởng nặng nề thì làm sao đạt được những thành tích tốt đẹp như vậy? Làm sao mà hầu hết những công trình chính, những việc trọng yếu trong trại gần như đều do toán 2 thi công, thực hiện? Do đấy, những anh em bị đi kỷ luật là những cái riêng biệt cá nhân của mỗi người. Không thể nào chỉ nhìn vào vài cá nhân này mà đánh giá cả toán 2. Phần nữa, hiện nay anh Khâm của toán ta bị bệnh lao, đang nằm ở bệnh xá. Hôm qua tôi được biết, do thời tiết quá lạnh và do thiếu… à bệnh tình của anh khá nặng nên hai ngày nay anh đã lịm đi, ngay nước cháo cũng không ăn được nữa. Có thể đêm nay, hoặc ngày mai sẽ từ giã chúng ta. Tôi đề nghị, ngày mai nếu anh còn sống, toán ta cứ lấy hai người đại diện. Tuy chúng ta cũng chẳng có gì để giúp mình, nhưng gọi là nghĩa tình cùng một tầu ngựa, thăm hỏi, an ủi nhau bằng một vài lời cho ấm lòng kẻ ra đi.
Ông già nói hùng hồn, nói phòi cả bọt mép ra. Cứ mỗi lần, ông nhấn mạnh, tay của ông lại vẩy ra một cái, như có con sâu róm đậu vào tay; như phụt ra được một ấm ức đã ủ nên từ lâu. Anh Lân lại chỉ tiếp một anh khi nãy đã giơ tay xin phát biểu. Anh này người thật to lớn khác thường, còn cao hơn cả Phan Thanh Vân. Anh là người cao, to nhất toán, có khi nhất trại. Cũng cái đầu cắt cao như Đinh Sơn, anh có làn da bánh mật. Những ngón tay của anh to như những quả chuối tiêu xanh luộc rồi, vừa dài, vừa xam xám. Nhưng anh lại có một bộ mặt nhìn thật hiền. Tò mò tôi lại ghé sang Châu thì được biết anh là Lê Văn Kinh, người nhái bị bắt trong vụ nổ, phá một chiếc tầu trên sông Gianh năm 1962. Khi phát biểu, tôi mới biết anh là người miền Nam. Anh nói giật giọng không đầu, không gẫy gọn, sáng tỏ ý. Chứng tỏ rằng anh không phải là người quen ăn nói, tranh cãi trước đám đông. Nội dung anh phát biểu cũng chẳng có gì khác lạ; không ngoài mấy vấn đề sinh hoạt, lao động trong tổ, trong toán. Nghe anh phát biểu, tôi có cảm tưởng anh chỉ muốn chúng tỏ là một người cải tạo tiến bộ, có tinh thần đóng góp với tổ, với toán mà thôi.
Lần này thì anh Lân chỉ tiếp đến Lù Chằn Páng. Anh này, da trắng trẻo như con gái. Người tầm thước, hay mặc chiếc áo bóng xanh mầu da trời, nhiều chỗ bạc phếch với nhiều miếng vá loang lỗ. Tuy tiếng Việt nói không rõ lắm về âm sắc; chỉ thô kệch, mộc mạc, nhưng mặt anh đỏ lên trong khi phát biểu. Những lời nói của anh như được xì ra từ một nỗi căm tức, uất ức trong lòng:
- Tôi xin có ý kiến với anh em là anh Dũng tổ trưởng của tôi không có tốt. Anh ta cậy mình là tổ trưởng, áp chế tôi không biết ăn nói, là người dân tộc. Từ lâu, tôi có một miếng xà phòng của gia đình tiếp tế. Anh muốn xin một nửa, tôi không cho. Tôi để dành, để thỉnh thoảng gội đầu. Rồi anh ta ghét tôi. Anh ta giữ nội quy cũng không có tốt. Hôm nọ, buổi trưa, tôi thấy anh ta vào phòng trật tự của anh Tân cùng vụ với anh, giấu đem về buồng củ sắn nướng. Tôi nằm gần, thấy anh bỏ màn, lén lút lấy ra ăn. Anh Dũng không có cải tạo tốt đâu!
Một vài tiếng cười rúc rích khi nghe anh Páng phát biểu. Tôi cũng thấy rung rung trong bụng, không phải vì nội dung lời phát biểu của anh, nhưng là cử chỉ, thái độ tức bực, phẫn nộ của anh. Tuy ai cũng cảm thấy là anh đã nói thật.
Còn một người có ý kiến nữa là anh Lương Yên. Người quét dọn vỏ bào, làm vệ sinh ngoài lán thủ công của toán. Tuy anh chỉ khoảng 45 – 46 tuổi nhưng mồm anh chỉ còn cái răng, nên má hóp vào thành móm sều. Anh đề nghị mọi người trong toán khi lao động ở ngoài lán thủ công hãy tiết kiệm nước uống. Các cán bộ vũ trang, từ nay chỉ dẫn anh vào giếng trại lấy nước có một lần vào tiết lao động sáng. Bởi vậy, chỉ có một gánh nước nên buổi sáng một thùng và chiều một thùng, thay vì hai gánh sáng, chiều như trước đây.
Vì không có đài, nên cũng chả biết lúc này là mấy giờ. Nhìn qua khe cửa sổ ra bên ngoài, trời đen kịt một mầu. Tuy ngồi trong buồng, cạnh bao nhiêu người mà tôi vẫn lạnh run. Nhiều người đã ra chiều mỏi mệt, ít nhất cũng gần 3 tiếng đồng hồ rồi. Tư tưởng tôi đang bồng bềnh băn khoăn, vấn vít vào những tình huống của cảnh đời mới thì tiếng anh Lân dội lên:
- Cuối cùng xin anh Bình phát biểu cảm tưởng sau một ngày đi lao động.
Không hề nghĩ là anh Lân muốn tôi phát biểu hôm nay, vì tôi đã biết gì đâu? Bất ngờ nên hơi khớp, tuy vậy sau một giây lấy lại tinh thần tôi chậm chạp nói:
- Thưa các anh, sau một ngày theo các anh đi lao động ở lán. Nó cũng là ngày đầu tiên đi lao động trong cuộc đời cải tạo của tôi. Rồi tối nay lại được dự một buổi sinh hoạt chung với toán. Cảm tưởng của tôi thì nhiều, nhưng cảm tưởng nào cũng còn nhiều ngỡ ngàng chưa rõ, chưa chính xác. Có một điều đã rõ nhất là tôi được an lòng hơn so với khi chưa nhập trại.
Anh Lân thấy tôi ngừng lời, anh quay sang phía Vân:
- Đề nghị anh thư ký đọc lại biên bản cho toàn toán nghe như thường lệ.
Phan Thanh Vân đọc lại biên bản chưa xong, tuy đã gần hết thì kẻng cấm đã gióng giả từng tiếng một, lanh lảnh vang lên như khua đập vào óc. Trong buồng lại ồn ào như tan hát. Chỗ thì chen chúc nhau vào nhà cầu, chỗ thì túm hụm chung quanh những chiếc điếu cầy, trong khi Vân và Lân đang vội vàng ký vào những tờ biên bản.

14. Cái “Mánh”Của Tên Trực Trại

Hôm nay hơi đặc biệt. Kẻng cấm rồi mà đây đó, từ những chiếc điếu cầy đủ kiểu cứ thi nhau ré lên liên hồi như những chú dế cồ và những nàng dế đang thi gọi nhau, hẹn hò trao đổi ân tình trong đêm khuya.
Buổi sáng, cho tới khi tôi theo toán ra ngoài lán làm việc rồi mà lòng vẫn băn khoăn không dứt về một sự việc sáng sớm hôm nay khi tên trực trại Cẩn vào buồng điểm tù. Điểm buồng xong, y dừng lại trước chỗ anh Phạm Tấn Tích đang ngồi, cất giọng Cao Bằng lây lứt:
- Hôm qua, anh Tích phát biểu hay và khá lắm!
Thoáng qua, nghe như một câu khen ngợi bình thường, nhưng đã làm cho cả buồng ngơ ngác, đờ đẫn, nhất là tôi. Óc tôi lướt nhanh, tổng hợp mọi hiện tượng và sự việc. Đêm qua, toán 2 sinh hoạt từ 6 giờ đển 9 giờ, kẻng cấm. Bên ngoài trời mưa bay dầy hạt, gió lộng lạnh thấu xương. Bao nhiêu câu hỏi cứ vấn vít, quẩn quanh trong đầu tôi:
- Chẳng lẽ y chịu lạnh, đứng rình nghe bên ngoài vách để theo dõi buổi sinh hoạt của toán?
- Hay có đường dây báo cáo nào của toán 2?
- Tại sao sáng sớm hôm nay vào điểm buồng, y cố ý nói cho toàn buồng nghe để làm gì?
- Tại sao y lại chỉ rình nghe của toán 2 mà không ở các toán khác nữa? Hay có sự trùng hợp lúc Tích phát biểu thì y mới đến?
- Thực ra, bất cứ buổi sinh hoạt của toán nào đều có ghi biên bản. Như vậy, ai phát biểu ra sao thì trong biên bản đã ghi rồi. Tại sao y còn vào rình nghe?
- Chỉ là một tên trực trại, tại sao y lại theo dõi về tư tưởng? Theo như anh Đồng, lúc cùng ngồi ăn sắn sáng nay với tôi thì tư tưởng thuộc về cán bộ giáo dục. Trực trại chỉ bao quát về nội quy. Trách nhiệm chính yếu của trực trại vẫn là nắm vững nhân số phạm toàn trại, từng buồng và từng toán.
Quá nhiều câu hỏi mà chưa có lời giải đáp thỏa. Trong lúc làm việc với Lê Sơn, tôi đã lựa lời, lựa lúc hỏi Sơn thì được biết thêm: hồi trước, ban đêm tên Cẩn thường hay vào trại đi bên ngoài các buồng để rình nghe như vậy.
Lấy điểm này, cọ sát với điểm kia, loại bỏ những vô lý hoặc những vô lý hoặc mâu thuẫn thì chỉ có thể như sau:
- Dù ở khía nào thì tên Cấn cũng là một tên cán bộ mẫn cán. Phục vụ và tin theo hết lòng cái chế độ mà y đang làm việc.
- Y chỉ muốn tỏ cái tài, cái uy riêng của y với tù.
Để thực hiện cái ý trên, thỉnh thoảng y bỏ công, bất ngờ vào rình, dò xét một vài sự việc. Rồi từ những sự việc y đã biết rõ, lấy đó làm ông “ba bị” để hù lát mọi người tù. Tưởng như làm cho mọi người tù đều nghĩ và tin rằng; y có nhiều tai mắt ở khắp nơi, khắp chỗ. Ai làm cái gì, nói gì y đều biết.
Nếu y tưởng như vậy là y lầm, mà y lầm thì cũng không có gì lạ. Bởi vì với mớ kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm đóng hẹp trong cái nhãn quan truyền thống giòng tộc của y; đối với bên ngoài, tưởng mình đang đứng ở vị thế cao nhất. Hơn nữa, trong lòng y lại đang dạt dào, say mê tin tưởng tự hào, đang phục vụ cho, hoặc y cũng là một nhân tố trong cái đảng “vĩ đại, uyên bác cao siêu nhất” của loài người.
Thực ra với chủ trương ấy, y cũng là một con “ngáo ộp” được với một số người kém hiểu biết hoặc lười suy nghĩ. Chứ không thể có tác dụng với những người như anh Phạm Tấn Tích chẳng hạn. Khi anh phát biểu có người ghi biên bản thì cá cái ban nghiên cứu của giám thị sẽ đều biết. Bởi thế, bất kể ai đứng rình nghe hay theo dõi thì có nhằm nhè gì với anh?
Buổi trưa, lúc ngồi ăn cơm ở hội trường, tôi dõi mắt nhìn theo một bác người cũng thật to lớn như Lê Văn Kinh. Tay bác xách một cái bị bằng vải sô cũ, một tay cầm chiếc gậy đang rờ rẫm, chậm chạp đi trên hè buồng số III gần bếp, hướng ra sân chính của trại. Đầu óc tôi còn đang dập dờn về một kiếp người đã mất cả đôi mắt rồi mà vẫn chưa yên, thì thấp thoáng thấy màu áo vàng ở sân A, một tên cán bộ tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Người y nhỏ con, da trắng trẻo, nếu không nói là có dáng dấp thư sinh, chừng tuổi 35. Y không đeo lon nên tôi không biết y ở cấp bực gì. Hai tay vắt chéo sau lưng, y chậm chạp thả bước nhàn du, lang thang trong trại. Thỉnh thoảng đầu y nghiêng ngó, nhìn phía này, phía kia hoặc gật gật mỗi khi gặp một anh tù lễ phép cúi đầu chào y. Thái độ y vừa lạnh lúng, vừa lơ đãng.
Tôi cứ cảm thấy y là một tên tạch tạch sè (tiểu tư sản) chứ không quê đặc một cục, như tên Chu Huy Cẩn. Tôi thấy cậu Toàn đang ngồi lúi húi vá chiếc áo choàng bằng dạ, máu cứt ngựa ở mãi trong góc nhà ăn. Hẳn chiếc áo đã được sinh ra từ thời Tây, vì đã đụp nhiều tầng. Lách qua mấy chiếc bàn tôi đến bên, ra ý cho Toàn nhìn về tên cán bộ hãy còn đang lững thững gần cụm nứa phía dưới nhà ăn:
- Này ông cán bộ kia là ai đấy?
Toàn nhìn ra rồi quay lại ra vẻ hơi quan trọng, thì thầm:
- Đấy là ông Đức, Thiếu úy, trưởng ban giáo dục trại này đó!
Tôi chỉ trả lời hai tiếng “thảo nào” rồi tôi mang chiếc rổ và cái đĩa nhôm đi vào buồng. Vừa đi tôi vừa nghĩ, làm sao mấy ngày tới, kiếm đâu được miếng vải khâu cái túi đựng bát, đĩa mới được. Ngay buổi chiều nay, một chiều thứ Bẩy không mưa rơi. Sau khi đi lao động ở lán về, anh Lân đã phổ biến cho toán, sáng mai Chủ Nhật toàn trại đi lao động xã hội chủ nghĩa. Mục đích là dọn dẹp, sắp xếp làm vệ sinh toàn trại để chuẩn bị ăn Tết.
Toán 2 là toán có tay nghề, nên được phân công sang sửa, làm hai luống hoa dài trước nhà số một và số hai. Buổi tối, mới điểm xong, anh Lân đã lại vẫy tay gọi tôi sang chỗ anh. Chẳng hiểu vì nguyên cớ nào, tôi cảm thấy anh Lân dành cho tôi một sự gần gũi, thân thiện như đã quen biết nhau từ lâu. Anh mở choàng chiếc chăn anh đang ngồi khoác ra để tôi cùng vào ngồi. Choàng chung một chiếc chăn ngồi nói chuyện cho ấm.
Phần do lòng thiện cảm mến người của anh; phần khác do những cái ngỡ ngàng của buổi ban đầu giữa một nơi còn nhiều cái tôi chưa biết; lại nhìn thấy bao nhiêu hiện tượng làm cho tôi chưa được yên lòng nên khi anh gọi, tôi vẫn đến với anh. Tôi nghĩ rằng, mình thân mật, thường chuyện trò với anh toán trưởng sẽ ít lo lắng cho những ngày sau. Vả lại, khi mới chuyển đến một môi trường mới, một vị trí mới trong cái mặt trận không dao, không súng này, không gì bằng hãy tìm một chỗ nấp tốt; một chỗ đứng tương đối an toàn, để quan sát, nghe ngóng đã chứ! Cho nên, dù có thân mật, chuyện trò với ai thì tôi vẫn chả hay chưa thổ lộ hoặc nói một điều gì ngược lại với xu hướng tiến bộ chung hiện nay.
Khi anh biết tôi chỉ là một học sinh trong Nam, chưa vợ con gì, anh càng trêu đùa và cứ gọi tôi bằng “mày” xưng “tao”. Lúc này tôi cũng đã biết nhiều anh em gọi lén anh là “Lân Lợn”, có lẽ vì con người sồ sề của anh. Ngay buổi tối đó, qua anh Lân, tôi được rõ thêm về lao động xã hội chủ nghĩa. Cứ một Chủ Nhật đi làm, thì một Chủ Nhật được nghỉ. Như vậy mỗi tháng có 4 tuần thì 2 tuần phải mất đi buổi sáng Chủ Nhật.
Một tuần lễ có 7 ngày, thì đi lạo động 6 ngày rưỡi. Lao động thì cực nhọc như trâu, bò. Dù bất cứ ở ngoài đồng, trong rừng hay trong lán đều phải dốc hết sức mình ra làm việc. Quấn áo dơ dáy, mủn rách phải đụp vá, giặt giũ, còn tắm rửa. Với bao nhiêu việc khác nữa cho một cá nhân mà chỉ có nửa ngày. Con người bị coi như một cái máy. Bắt máy chạy liên tục mà chỉ đổ rất ít dầu, lại chỉ là dầu cặn, dầu thô như lời anh Khải đã phát biểu.
Đêm hôm ấy, lòng tôi cứ ngổn ngang với bao nhiêu khắc khoải cho cảnh đời trước mặt, nhất là lại nghe tin anh Khâm nào đó mà tôi chưa hề biết mặt, mắc bệnh lao của toán 2 đã chết ngay, trong đêm. Thế là toán 2 cũng chưa kịp cử người thăm hỏi, như đề nghị của bác Chánh trong buổi sinh hoạt tối hôm qua.
Mấy đêm nay, đêm nào giấc ngủ cũng không yên, tôi cứ trằn trọc thấp thỏm mệt mỏi rã rời cả thể xác, lẫn tinh thần; tôi chìm đắm vào cơn ngủ muộn xen lẫn những tiếng thở dài.
Sáng hôm nay, tôi đã mở mắt rồi mà chưa thấy kẻng báo thức. Liếc nhìn đây đó trong buồng, vẫn màn mắc vây kín mít. Không chịu được mãi nỗi băn khoăn trong lòng, tôi cố liếc nhìn qua khe hở của tấm vách liếp. Bên ngoài, trời đã hơi mờ mờ sáng, rõ ràng đã muộn hơn mọi khi. Tôi nghiêng người nhìn qua màn Vân. Thấy dáng Vân vẫn nằm dài, không biết thức hay ngủ. Tôi còn đang nhấp nhổm chưa yên thì hình như Vân cũng đã đoán được nỗi bần thần của tôi. Khi thấy tôi cứ xoay trở lục đục, Vân nhỏ nhẻ như tiếng gió:
- Cứ ngủ nữa đi. Chủ Nhật, sáu giờ ba mươi mới kẻng báo thức.
À ra thế! Bụng tôi nghĩ vậy, rồi tôi mơ màng để hồn lãng đãng cho thân xác bập bềnh chìm nổi trong giấc ngủ tiếp mập mờ. Hồn tôi đang lơ lửng với gió mây thì tiếng kẻng đã khua vang núi đồi. Những chiếc máy người lại bắt đầu khơi động cho công việc một ngày.
Qua những lúc chuyện trò ngắn ngủi với Vân, mãi đến hôm nay, tôi mới biết Vân không hút thuốc lào. Mặc dù những năm trước đây, anh đã hút khi mới bị bắt vào. Bây giờ anh đang cố xoay sở, móc nối với những anh tự giác của toán rua, để mua được những lá thuốc khô (một loại thuốc lá, khác với cây thuốc lào) do chính họ tranh thủ ngoài giờ, trồng được trong khu vực của toán họ. Vì không có công sức và thời gian chăm bón, nên mỗi anh chỉ trồng được vài chục cây. Do đó, khi các anh lén lút đưa thuốc được vào trong trại, thì bán hơi đắt. Chỉ những ai có nhiều tiền mới hút được.
Như vậy, tôi đã hiểu về giờ giấc ngày Chủ Nhật lao động xã hội chủ nghĩa. Bảy giờ ba mươi mới kẻng tập họp để tám giờ thì bắt tay vào lao động, đến mười hai giờ trưa mới nghỉ. Những điều ấy tôi chưa hỏi anh Lân tối hôm qua.
Khoảng bảy giờ, anh Lân, Vân và tôi ngồi nhai sắn sáng, trên chiếc chiếu con trải trên hè nhà, ngay cạnh cửa ra vào. Trời sáng nay không một vẩn mây, tuy thỉnh thoảng những đợt gió mùa Đông Bắc vẫn ào ào, luồn cái rét ngọt vào cơ thể mọi người. Nhưng ai cũng cảm thấy dể chịu hơn là có thêm mưa. Bởi vậy, trên hè, tuy bằng đất nện, nhưng khô ráo sạch sẽ nên cũng lố nhố nhiều người. Cả toán ba lẫn toán hai đang ngồi ngồm ngoàm những củ sắn để chờ giờ đi lao động.
Từ dưới sân chính phía nhà bếp, thoáng thấy bóng tên trực trại đi lên. Khi tới ngang buồng hai, y ngoặt vào, bước lên hè, làm nhiều người râm ran lên tiếng:
- Chào cán bộ ạ!
Y bước vào trong buồng một mình, nên anh Lân buồng trưởng phải đứng lên vào theo. Bên ngoài này, tôi và hẳn còn nhiều người đều nghĩ, y lại sắp đem ai đi cùm, nên những chiếc mồm đang nhai sắn đều ngập ngừng, lắng nghe chờ đợi.
Một lúc sau, từ trong buồng y trở ra tới cửa, tôi và Vân vẫn cúi đầu chậm chạp, ngoạm nốt suất sắn sáng đang ăn dở. Thoáng bóng một bàn chân dép râu với chiếc ống quần mầu vàng, vừa để lên bậu cửa buồng, chếch ngay phía sau lưng tôi. Như vậy, y đang đứng nhìn Vân và tôi. Một giây sau, y cất tiếng hỏi đột ngột:
- Anh Bình, đêm qua anh nói mơ hay nói thật? Anh nói gì anh còn nhớ không?
Tôi quay lại, vì hơi bất ngờ nên làm tôi cũng hơi ngỡ ngàng. Tuy thế, chợt nhớ tới sự việc của y với anh Phạm Tấn Tích sáng hôm qua, nên tôi đã bình thản hỏi lại y:
- Thưa ông tôi đã nói mơ gì ạ?
Một vài giây, y ngập ngừng, trong khi có nhiều bộ mặt chung quanh, kể cả anh Lân đang lo lắng nhìn tôi. Hơi sừng sộ, y lớn tiếng:
- Anh thường nghĩ về cái gì, thì anh nói cái đó!
Hơi nhếch mép nhưng không cười, tôi trả lời:
- Nếu vậy, hẳn rằng tôi lại nói về cái ăn rồi. Vì suốt ngày, lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ đến cái ăn mà thôi.
Hơi nặng chân, y bước hẳn ra ngoài, xuống sân. Ngoay ngoảy đi về hướng nhà bếp, hẳn rằng trong lòng y đang mang một nỗi hậm hực. Tôi nghĩ thầm: thật là may, câu trả lời của y đã mở cho tôi một lối thoát để trả lời. Bởi vì, tuy từ nhỏ tới giờ tôi chưa hề bao giờ nghe thấy ai bảo tôi ngủ nói mơ, dù rằng tôi thường nằm chung đụng với nhiều người khi còn ở trại sinh Phú Thọ cũng như trong tù hiện nay. Song le ai dám chắc chắn, khẳng định hiện nay và sau này mình không bao giờ nói mơ, nói sảng? Chứ còn ngủ mơ thì ai mà chả. Nếu không thì làm sao lại vẫn có câu ca dao lơ lẳng: “đố ai nằm ngủ không mơ…”
Y đã đi rồi, cũng chẳng một ai hỏi han tôi về sự việc này, kể cả anh Lân và Vân ngồi ngay cạnh tôi. Đưa mắt nhìn lên mấy tảng mây trắng đang lững lờ bay, tôi nói một câu trống không:
- Hôm nay trời rét ngọt!


15. Một Buổi Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa Ngày Chủ Nhật

Hai con chim cánh thật trắng từ hướng Nam đang soải cánh chống với gió ngược, lao về phía Bắc xa vời. Mấy ngọn nứa già phía cuối hội trường đang nghiêng ngả, rũ rượi, gật gù như cảm thông với nỗi đắng niềm cay của kiếp người. Mươi chiếc lá khô từ mãi phía góc nhà kỷ luật, quyện đuổi theo nhau chạy đến gần buồng số II rồi cuộn xoay lại, quay tít.
Lần lượt nhiều người đứng dậy, cuộn chiếu vào trong buồng. Không bảo nhau, nhưng hình như cùng cảm thấy cái rã rời nằng nặng của cõi lòng ứa ra, rải khắp đâu đây, cả Lân, Vân và tôi đều đứng dậy, chậm chạp bước vào trong buồng.
Vào buồng, chưa ngồi nóng chỗ thì phía ngoài cửa đã có tiếng xôn xao. Thấy anh Lân chạy ra, tôi cũng bước theo. Ngay mé hè, anh Lý A Chén đã mang về một đống cuốc, xẻng và một cái hòm dụng cụ đồ mộc với mấy cái cưa tay. Và kia rồi, từ phía dưới sân lớn của trại, có 3 anh của toán làm sân đang è vai vác 3 bó nứa tươi to tướng, đốt thật dài. Mầu nứa tươi xanh mát cả mắt, lần đầu tiên tôi thấy, nên cứ nhìn mãi. Ở miền xuôi trước đây, tôi chỉ nhìn thấy nứa khô mà thôi. Tôi cứ luẩn quẩn, loanh quoanh bên 3 bó nứa mãi, nếu không có một anh tự giác khác lễ mễ gánh đến một gánh gần hai chục túm những cây hoa con. Một niềm háo hức yêu hoa đã đẩy tôi rảo bước chạy lại. Những cây hoa nhỏ nhiều loại, với những cánh hoa nhiều mầu sặc sỡ làm nhiều người túm hụm vây đến.
Cây to, cây nhỏ, cây đã có hoa, cây chưa ra nụ. Trong hàng chục loại hoa này tôi chỉ biết được mấy cây: thược dược, mười giờ, cúc đại đóa và hoa…..hồng. Do nhiều các anh, các bác đang đứng chỉ chỏ bình phẩm, nên các cô nàng e ấp cứ cúi mặt che giấu thân thế, đành ngập ngừng khai rõ họ tên: vọng ư thảo, vạn thiên kim, bách hợp, đinh tử hương, bóng nước, tư lự với tóc tiên. Cô nào cũng mơn mởn đào tơ, lả lướt chuẩn bị để đón chúa Xuân sắp trở về.
Ngay từ khi còn dưới Hỏa Lò, “khách sạn Hilton Hà Nội”, đã nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi: tại sao trong chỗ thâm u, mờ mịt thê lương của ngục tù, chỉ có cùm, xích với những tiếng rên xiết, quằn quại, đắng cay thì người ta lại trồng nhiều hoa? Vì hoa là biểu tượng của hạnh phúc ấm êm, của ngọt bùi tươi sáng trong cuộc đời? Khi đó tôi đã tưởng, phải chăng đây chỉ là ý thích của tên Võ già, chánh giám thị của Hỏa Lò, người miền Nam. Nhưng lúc này, một trại giam, hẻo lánh xa xôi nơi đây, cũng đang được lệnh trồng hoa. Như vậy, phải chăng đây là một chủ trương của cục Lào Cai?
Lòng tôi còn đang bồng bềnh lẫn lộn giữa những hương sắc ngọt, bùi hạnh phúc của cuộc đời với những nỗi đắng cay tủi nhục, lầm than của kiếp tú, thì kẻng tập họp đã gióng lên đập tan nguồn suy nghĩ lãng đãng, vẩn vơ của tôi.
Chỉ nửa giờ sau, khi các tên cán bộ đã dặn dò, phân công với những anh toán trưởng từng toán. Tổ nào, toán nấy năng nổ, hùng hục làm việc khắp nơi, khắp chỗ trong trại. Chỗ cưa, chỗ đục, chỗ quét dọn râm ran tiếng chuyện trò, tiếng í ới gọi nhau. Tôi vừa kéo dây, cầm thước cho Đinh Sơn và anh Lân cắm cọc, phân luống trước nhà số II và III, vừa nhìn cái cảnh huyên náo, tấp nập làm việc của mọi người, mọi toán. Một khí thế lao động như giục giã, lôi, thúc người khác. Lòng tôi dâng lên một mối thẫn thờ hoang mang, xen nhiều nỗi ấm ức không hiểu được. Đói khát, khốn cùng, thương đau tràn lối mà mọi người vẫn hăng say, thi đua làm việc quên mình là vì sao?
Tôi mới mờ mờ cảm nhận thấy cái khả năng của cộng sản: phỉnh phờ, dụ dỗ khích lệ, nhử mồi như cách mạng, yêu nước, yêu nhân dân, công bằng, ấm no, hạnh phúc ngày mai v.v… Kết hợp nhuần nhuyễn với súng, dao và cái dạ dầy đã gây ra ao áp lực ngầm, để mọi người tù dù không còn cả muốn sống nữa mà vẫn phải bóc xương, bó tủy ra làm hết sức của mình. Thật là đáng kính nể những tên cáo già trong bộ chính trị của lũ cộng đỏ.
Hôm nay làm việc trong trại nên tôi có điều kiện chạy chỗ này, chỗ kia đây đó để nhìn các toán làm việc. Riêng toán 5, toán rau xanh do anh Xuân Tảo làm toán trưởng. Do anh Đồng, tôi đã biết anh là một nhà tư sản ở Hải Phòng. Người anh cũng mập như anh Lân, cũng nước da mai mái khô cằn, chừng 45 tuổi. Anh ăn nói nhã nhặn, điềm đạm, nên tôi cũng muốn có dịp làm quen với anh. Toán của anh có trách nhiệm nhặt cỏ và dọn lá cây khô phía trong hàng rào cấm, dọc theo chung quanh của hàng rào trại.
Đến đây tôi đã có khái niệm về hình thể phân trại E. Trại hình chữ nhật dài, nằm quay mặt về phía Đông Nam. Chiều dài chừng 150 mét, rộng chừng 80 mét. Hàng rào làm bằng những cây nứa, cao 8 – 9 mét. Nứa được chôn sâu xuống đất 40 phân gồm 2 lượt, kên sát vào nhau. Lượt ngoài chôn nghiêng 10 độ phía này, lượt trong nghiêng 10 độ phía kia. Ghép liền, kên chặt bằng 3 lượt đà tre nằm ngang với lạt và dây rừng. Trong cũng như ngoài cứ 4 mét, lại chôn một cái cọc gỗ to, vót nhọn đầu, đường kính từ 15 đến 20 phân, cao 2 mét. Nó to và chắc chắn như một chiếc cột, buộc ghì chặt vào hàng rào. Như vậy, hàng rào dầy đến 15 – 16 phân, kín mít không còn một khe hở. Tuy chỉ bằng gỗ và tre nứa nhưng thật là kiên cố, vững chãi; vừa ngăn tù trốn lại vừa chống với gió bão hàng năm của đất trời.
Phía bên trong, dọc theo hàng rào chính; cách hàng rào chính một mét là hàng rào cấm. Hàng rào này chỉ cao chừng 1 mét 20. Bốn góc trại có 4 chòi gác bằng gỗ, lợp nứa cao 9 – 10 mét, cao hơn cả hàng rào chính để công an vũ trang ngồi gác, có thể quan sát hết phía trong đến bên ngoài trại.
Riêng cổng trại ra vào là một chiếc cổng to 2 tầng, cũng lợp bằng những tấm phên nứa. Tầng trên, công an vũ trang ngồi gác cổng, trên đó treo một chiếc vỏ quả bom 50kg dùng làm kẻng. Tên bộ đội gác ở cổng này, ngoài nhiệm vụ gác cổng, phải chú ý giờ giấc để đánh kẻng trong những giờ đã quy định.
Nhân số toàn phân trại E lúc này khoảng 310 người. Hầu hết là chính trị phạm với những thành phần: khoảng hơn hai chục người là biệt kích, gián điệp, người nhái (Biệt Hải) từ trong Nam ra Bắc hoạt động. Chừng trên dưới 100 người là dân tộc thiểu số: Mường, Mán, Mèo, Thổ, Nùng, Thái, v.v… bị cộng sản ghép cho cái tội là làm “phi”. Số còn lại linh tinh gồm: đảng phái, tu sĩ, tư sản, quân cán tập kết, vượt tuyến v.v… bị ghép chung một tội là phản cách mạng, phản tuyên truyền.
Khoảng 11 giờ 30, tên Cẩn trực trại vào đi kiểm tra khắp nơi những kết quả của từng phần việc được giao từng toán trong buổi lao động xã hội chủ nghĩa, để lấy điểm thi đua.


16. Điệp Vụ C47

Buổi trưa nay, sau khi cơm nước xong, tuy không mưa nhưng vẫn không có mặt trời. Vẫn thỉnh thoảng có những đợt gió mạnh rào rào chui vào trong trại nên đã có nhiều người đi nằm đắp chăn. Hàng tuần lễ nay có gió mùa Đông Bắc nên tôi không tắm được, thấy ngứa ngáy, khó chịu. Tôi rủ Toàn xách gầu xuống dưới giếng, dù không tắm được thì cũng phải lau người.
Hai anh em dùng chiếc khăn vải nhúng nước, rồi cứ mặc quần áo, cho khăn ướt vào lau trong người. Thế mà hàm răng anh nào cũng đập vào nhau cành cạch. Còn quần áo, tuy cũng thấy dơ bẩn nhưng xin cho miễn, đợi có dịp nào cũng vào ngày Chủ Nhật mà trời lại nắng hãy hay. Hơn nữa, tôi với Vân đã có hẹn nhau trong lúc lao động xã hội chủ nghĩa, chiều nay sẽ ra hội trường nói chuyện. Khi tôi trở về đến buồng, tuy mới khoảng 2 giờ chiều nhưng nhiều người hãy còn nằm im trong chăn. Thấy Vân vẫn ngồi khoác chăn cuộn thuốc lá, tôi nói như đùa:
- Sao, Vân không tắm à?
Ngửng lên, ánh mắt của Vân như cười, nhỏ nhẻ:
- Tháng trước mình vừa tắm rồi!
Nói xong, Vân vừa đưa tôi điếu thuốc vừa hỏi lại:
- Bây giờ Bình có ngủ không? Mình ra hội trường nói chuyện cho thoải mái he?
Tuy tôi chỉ gật đầu, nhưng Vân cũng hiểu là tôi gật đầu cho ý sau, chứ không phải ý trước trong câu hỏi của Vân. Vì thế, Vân vội thu dọn lỉnh kỉnh những đồ nghề ra tiếp tục cuộn thuốc, vừa ngập ngừng, dè dặt hỏi tôi:
- Bình là công giáo à?
Nhìn Vân đăm đăm, tôi khẽ gật đầu nhưng mắt tôi như muốn hỏi lại “có sao không”? Nhưng Vân vẫn không có thái độ gì khác, vẫn cắm cúi cuộn thuốc. Sau vài câu chuyện không đâu, Vân nhìn tôi, ra dáng băn khoăn:
- Bình biết về tôi ra sao, và vì sao Bình lại biết?
Dù rằng đã trao đổi, chuyện trò với Vân trong mấy ngày qua chưa nhiều, chưa đủ. Rồi lại qua lời Toàn dặn dò phải coi chừng Phan Thanh Vân. Nhưng qua từng điệu bộ, dáng đi, cách nhìn, cách nói của Vân thể hiện trong khi chuyện trò, tôi vẫn cảm thấy Vân là người chân thành, dù anh vẫn còn ít nhiều dè dặt. Vả lại quan điểm của tôi: mình muốn người ta đối xử với mình ra sao thì mình hãy đối xử với người ta thế vậy, trước đã.. Vì vậy tôi đã chân thành nói thật hết, nội dung:
Từ một ngày Chủ Nhật 24/6/1962, tôi bị bắt vào Hỏa Lò, nhìn thấy Vân ngồi ở gốc cây bàng. Rồi khi còn ở trong Nam, một buổi nghe đài miền Bắc ở Cấp (Vũng Tầu) cho tới khi ra Hà Nội mua và đọc cuốn C47. Cũng như thời gian ở xà lim II, một buổi tối nghe Vân đọc lời kêu gọi anh em trong binh chủng không quân hãy lái máy bay vào vùng giải phóng v.v… Tóm lại, tôi đã nói hết những sự việc tôi đã biết về Vân.
Khi nghe tôi kể chuyện lại, ánh mắt của Vân đã giảm hẳn sự dè dặt, dọ dẫm, nhường cho sự gần gũi, thân mật, tin tưởng hơn. Tôi tin tưởng mãnh liệt rằng, sự thật bao giờ cũng có hồn, sẽ có sức truyền cảm mạnh đến người nghe. Cứ cần sự thật dủ cách nói của mình có kém, có lúng túng không diễn đạt hết được ý, nhưng rồi người nghe cũng tin mình.
Vân rất ngạc nhiên và băn khoăn không biết được rằng điệp vụ C47 của anh, cộng sản đã xuất bản thành sách. Băn khoăn vì Vân không biết cộng sản đã nói những gì về anh. Thấy Vân nóng nảy muốn biết một vài khía cạnh nói về Vân trong nội dung tập sách, nhất là khi Vân nghe tôi nói: hầu như cuốn sách đã tường thuật lại đầy đủ về phiên toà và nội dung vụ án mà còn có nhiều tấm ảnh tài liệu. Thậm chí chúng chụp cả bản khai cung của từng người như Vân, Phạm Văn Đăng (thợ máy), Đinh Như Khoa (gián điệp) v.v…
Một phần, cả tập sách điệp vụ C47 dầy gần 300 trang với bao nhiêu sự việc, lại nằm trong mục đích tuyên truyền, làm sao tôi nhớ và kể hết được. Phần khác, trong lòng tôi cũng nôn nóng. Tôi đã nghe đài cộng sản nói về Vân. Tôi cũng đã đọc sách của cộng sản nói về điệp vụ C47 của Phan Thanh Vân. Bây giờ do điều kiện và hoàn cảnh đặt, đưa tôi lại gặp Phan Thanh Vân. Vậy tôi muốn biết những tình tiết thực tế của sự việc, để so với những điều tôi đã đọc trên sách.
Vì vậy tôi đề nghị Vân: hãy kể lại sơ lược sự việc từ đầu, diễn tiến ra sao. Tùy theo đấy tôi sẽ có những câu hỏi, hoặc cho Vân biết là trong sách đã có sự khác biệt, khi cùng nói về một sự việc. Tay Vân đang quấn thuốc, như ngập ngừng, rời rạc. Mắt Vân lắng đọng đăm chiêu. Hẳn là Vân đang lần giở lại những trang đời nhiều mây gió, chồng chất những dáng hình, sự kiện trong hố sâu ngóc ngách của tâm tưởng. Anh hơi ngửng đầu lên. Mắt anh rõi nhìn về những ngọn nứa già đang lắc lư phía bên ngoài trại. Giọng anh chậm rãi đều đều với nội dung:
- Ngay từ hồi niên thiếu cắp sách tới trường, đôi khi tôi đã say mê đờ đẫn, nhìn theo những chiếc máy bay ì ầm, vi vút trên nền trời quê hương. Tôi đã có những ước mơ như một hoài bão: sau này tôi sẽ tập trung mọi nỗ lực để thực hiện một mục đích, là trở thành một phi công cho thỏa chí ngao du hồ hải.
Cuối cùng sau bao nhiêu những cố gắng miệt mài, tôi đã được tuyển mộ đi học lớp phi công ở Marrakech. Tôi tốt nghiệp, trở về nước với những lời ngợi khen là một phi công ưu tú của các huấn luyện viên người Pháp trong trường. Lúc này, thực sự tôi chẳng hề có một chính kiến, dù chỉ là khái niệm về chính trị, đối với quê hương dân tộc. Ngoài những giờ bay nhiệm vụ, cũng như tập tành, huấn luyện, tôi vẫn buông lỏng tâm hồn, đắm chìm vào những thú rong chơi; lả lướt với những hương sắc của cuộc đời. Thậm chí, với những bối cảnh đẩy đưa cho mãi tới khi tình nguyện nhận lái chuyến bay định mệnh này, tôi vẫn chưa ý thức được đầy đủ về cộng sản, cũng như mức độ hiểm nguy thực sự của chuyến bay. Một chuyến bay, một công tác nguy hiểm, đầy cam go, có thể một đi rồi sẽ…..không trở về.
Tâm tư tôi bảng lảng, lơ là nhìn chuyến đi như nhìn một khẩu hiệu, một tấm bảng ghi một chỗ; “nguy hiểm chết người”. Nhiều lúc tôi cũng cảm thấy đôi phút ớn lạnh, rùng rợn như đang nhìn thấy một người giết một người. Lòng vẫn mơ hồ lăng đăng, người bị giết đó không phải là mình. Rồi cứ tiến bước trên con đường mình đã chọn.
Tuy vậy, khi chuyến bay vượt qua vĩ tuyến 17, bắt đầu xâm nhập vào bầu trời của miền Bắc, dù còn ở ngoài khơi biển Đông, cả 9 người chúng tôi trên chuyến bay đều bắt đầu căng thẳng thần kinh. Thỉnh thoảng người này liếc đôi mắt lắng lo nhìn người kia, chứ không ai nói với ai một lời. Đôi lúc thân chiếc C47 rung giật lên. Dù đó chỉ là hiện tượng bình thường của những chuyến bay đêm, cũng làm cho bầu không khí ngột ngạt, nặng nề thêm. Tôi nhìn nết mặt đăm chiêu của anh Tiêu Huỳnh Yên, điều hành viên, đang ngồi giữa tôi và anh Thích, phi công phụ. Rồi tôi ngoái lại, nhìn Đăng, cơ khí viên cũng đang ngồi trên đống bao lô dụng cụ quân trang. Tay anh đang chống cằm dáng mỏi mệt, dựa lưng vào thành chiếc cửa thông lên buồng máy. Đăng cũng đang chầm chập nhìn tôi thì anh Yên cao giọng nhắc nhở:
“đã sắp đến điểm chuẩn, quẹo trái, chếch 40 độ vào hướng đất liền”.
Tôi nhớ rõ. Khi máy bay vào sâu nội địa, ở độ cao ba ngàn thước, chỉ chừng 20 phút thôi. Bầu trời như bức màn đen, không một mảnh trăng sao, lúc đó khoảng một giờ 20 đêm. Đột nhiên tôi thấy nháng lên như ánh chớp mầu da cam, ngay trước mặt. Máy bay rung mạnh, không hề nghe thấy một tiếng nổ bay bất cứ một âm thanh gì, mắt tôi còn thoáng thấy anh Yên và anh Thích ôm chầm lấy nhau. Rồi tôi không còn biết gì nữa.
Mãi khi thấy lạnh run, tôi mở mắt ra, nhưng vẫn đen kịt. Người tưởng như vỡ nát ra, tôi không cử động được chân tay nữa. Hồn lãng đãng lửng lơ, tôi tưởng tôi đã chết rồi hay đang…chết. Sau đó, một lúc, tôi mới thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau. Tay chân tôi vẫn chưa hề cử động được. Tôi đã mở mắt ra nhiều lần, nhưng vẫn không nhìn thấy gì. Đầu tôi như có ai đang cầm chiếc gậy cứ đập cứ đập vào đều đều.
Nói tới đây thì Vân ngừng lại. Tôi nghĩ là Vân muốn lấy hơi, vì nói đã hơi dài. Nhưng khi tôi nhìn con mắt của Vân trắng bạch ra lơ láo như hãy còn toát ra nỗi kinh hoàng, hãi hùng của giây phút rùng rợn gần 7 năm xưa. Tôi không dám lên tiếng, tôn trọng cái phút xuất hồn của Vân. Tôi vẫn im lặng, đưa mắt nhìn mấy bông bách hợp đang đong đưa, chờ Vân tiếp tục.
Một lúc, rồi anh lại thẫn thờ nói tiếp, giọng nao nao, da diết:
- Tôi mê man, trong đầu như có một khoảng rỗng im lìm. Chẳng còn một ý niệm gì về thời gian, không gian, rồi tôi lại không biết gì nữa.
Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu. Mãi khi tai tôi chợt nghe văng vẳng trong gió lao xao, loáng thoáng có tiếng người. Chợt lờ mờ có ý niệm về chiếc C47 tôi đang lái đã bị bắn và tôi đã rơi xuống đất. Tôi lại mờ choàng mắt ra, lúc này đã nhìn lơ mơ thấy khung cảnh đồng ruộng. Đầu đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc tôi. Tai tôi đã nghe rõ tiếng người hò hét xa xa. Một ý thức bừng dậy thành phản xạ của sự sống còn, ập đến như một đòn bẩy giúp tôi đã nhấc được đôi tay. Mắt tôi đã nhìn thấy mờ mờ mầu đỏ loang lổ của máu nhầy nhụa lẫn vào đất bùn. Cả một nửa người tôi đã ngập sâu dưới bùn. Tai vẫn nghe tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng vào trong gió. Cố vùng vẫy, kéo người lên khỏi đám xình lầy, nhưng tôi bất lực. Tôi tưởng phải nằm chịu trận, phó mặc cho cuộc đời. Nhưng rồi, đột nhiên như có một nguồn sức mạnh ở đâu đến trợ giúp, tôi đã ngoi và rút cả người lên mặt ruộng. Mắt tôi đã nhìn thấy những đám cói lưa thưa và tôi đã hiểu đây là một cánh đồng cói. Những tiếng quát càng lúc càng gần, lẫn lộn của đàn ông, phụ nữ:
- Chỗ này có một cánh tay!
- Chỗ này có một chiếc giầy!
- Có đứa còn sống. Các đồng chí cẩn thận!
Tôi run người lên, nhìn về phía trái có một đám cói rậm, mọc cao cách xa tôi chừng hơn 10 mét. Tôi cố nhoài, cố lê, rồi tôi cũng chui được vào đám cói rậm ấy. Những tiếng người hò hét như đã gần bên tôi. Phần vì khắp người đau như dầnl; phần khác, quá khiếp sợ, óc tôi tê đi. Vả lại, còn bao nhiêu sức cuối cùng vì sự sống còn tôi đã dùng hết để bò vào tới đây. Cho nên khi đã nghe thấy cả những bước chân lội bì bõm, tôi cũng đành nằm im, bất động; không còn một hơi sức nào để tự bảo vệ nữa. Cho đến lúc họ đã quát tháo ầm ầm ngay bên tai mà tôi vẫn nằm như một xác chết. Họ hò nhau, túm lấy chân tôi, kéo ra khỏi lùm cói rậm.
Lúc này, trời đã sáng rõ. Bao nhiêu là người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi. Súng ống, gậy gộc. Họ hầm hè như muốn nhai xương, ăn thịt tôi. Đau đớn, sức tàn, sợ hãi, tôi lại nhắm mắt lại. Những tiếng quát, tiếng chửi vẫn ập, ngoáy vào tai tôi:
- Nó hãy còn sống!
- Đập chết nó đi!
- Nó là biệt kích của Mỹ Diệm!
Có một tiếng quát to, dõng dạc như ra lệnh:
- Không ai được đánh chết nó. Hãy lấy cáng khênh nó về cơ quan!
Nghe Vân kể đến đây, mặt Vân vừa tỏ ra mệt, vừa buồn rười rượi. Hơn nữa, trời cũng đã chiều gần tàn, sắp đến giờ cơm, nên tôi khẽ đặt tay vào vai Vân, nói nhè nhẹ:
- Xin cảm ơn Vân, lòng tôi cũng xúc động, cảm thông với những giây phút kinh hoàng gần 7 năm xưa Vân đã trải qua. Còn một điều tôi muốn nói nữa: có lẽ đó là những hình ảnh hãi hùng, khiếp đảm lớn nhất, đã hằn sâu nét vào tâm hồn, nên Vân vẫn còn nhớ đầy đủ những chi tiết tỉ mĩ đáng ngưỡng mộ.
Vân nhìn tôi đầy thiện cảm, ánh lên mầu tin tưởng, tuy mắt Vân vẩn còn vướng vít một nỗi buồn mênh mông. Vân nhếch môi cười gượng gạo, nói nhát gừng:
- Những phút đầu và những ngày đầu thì vẫn cứ như in trong óc, nhưng những ngày tháng sau này thì tôi chẳng còn nhớ gì cả, ngoài những sự việc chính.
Phía buồng II, đã có một số các anh, các bác đem cân và bát, đĩa ra hè. Quay lại, tôi bảo Vân:
- Chắc cũng sắp kẻng cơm rồi! Ăn cơm xong, tối nay mình sẽ nói chuyện tiếp.
- Không được! Không tiện, để dịp khác, còn nhiều ngày.
Vân vừa lắc đầu, vừa nói, vừa đứng dậy mang túi thuốc lá về buồng. Tối nay, sau khi điểm xong, cửa buồng đã khóa, tiếng loa lại léo nhéo, rì rầm nhỏ to như mọi khi. Tôi đã hiểu, một tuần chỉ có mỗi ngày Chủ Nhật là không sinh hoạt buổi tối mà thôi. Tôi có ý định chờ cán bộ trực trại vào điểm xong sẽ hỏi tiếp Vân một số điều. Câu chuyện lúc chiều với Vân còn đang dang dở, nhưng đã thấy Vân chuẩn bị chăn đi nằm. Có thể câu chuyện lúc chiều đã gợi lại cho Vân nhiều nỗi niềm ngược xuôi, vơi đầy của cuộc đời. Vả lại, tôi chợt nhớ, ngay buổi chiều, khi còn ở hội trường Vân đã nói trước, không muốn nói những chuyện như vậy ở trong buồng.


17. Phỉnh Phờ, Dụ Dỗ

Đã từ mấy ngày nay, tôi vẫn nhớ một cậu có nét mặt trẻ măng, vẫn nhìn tôi bắng ánh mắt tràn đầy thiện cảm. Chính một lần cậu ta đã nhắc nhở tôi phải coi chừng Toàn. Qua Châu, tôi đã biết cậu ta cũng ở trong Nam và cùng ở trong toán biệt kích của Shè Khửu Sáng. Hiện nay, cậu ta ở toán 3 (xẻ), nằm trong góc, sàn trên phía trước. Tôi cũng hơi ngập ngừng khi định trèo lên thăm hỏi, chuyện trò với cậu ta. Chỉ vì, ngay ở toán mộc, còn nhiều người; họ hoặc tôi chưa dám tiếp xúc với nhau, huống chi cậu ta lại ở toán 3.
Nhưng từ bản tính thích tìm hiểu những điều mới lạ, lại cùng một buồng thăm hỏi thì có sao đâu. Nghĩ thế, tôi đã trèo lên sàn chỗ cậu ta. Thấy tôi nhô đầu lên, cậu ta vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, lại vừa mừng, vồn vã ân cần tiếp chuyện tôi.
Khi biết tên cậu là Hùng, Hoàng Mạnh Hùng, tôi chợt liên tưởng tới anh Hoàng Hùng, tiểu đoàn phó “một chiến sĩ của Điện Biên” năm xưa, đã dẫn đại đội của mình, cắm lá cờ đầu tiên lên nóc hầm của tướng De Castrie. Tôi đã nằm với anh ở buồng số 2, xà lim II của khách sạn Hilton Hà Nội. Một thoáng chạnh lòng, ngậm ngùi nghĩ đến anh. Chẳng biết anh còn sống hay đã chết, trong cái đêm oan nghiệt của đời anh?
Tôi còn đang ngỡ ngàng khi biết Hoàng Mạnh Hùng là người Thổ, dân tộc thiểu số, mới có 23 tuổi đời mà đã bị bắt 3 năm rồi, thì đã thấy Shè Khửu Sáng từ sàn dưới trèo lên. Sau khi ngồi yên chỗ, Sáng nói như thì thầm:
- Khi biết anh cũng ở trong Nam ra, chúng em đã nhiều lần muốn đến thăm anh mà chưa dám.
Tôi cứ nhìn con mắt của cậu Sáng. Con mắt trái hoằm sâu vào, một dòng nước nhờn trắng đục như rỉ, đang sùi ra một cục. Mặt cậu thật hiền hòa, toát ra một nét chất phác của tuổi đời 26. Rồi tôi lại nhìn Hùng, nước da trắng trẻo, mặt như còn hơi sữa. Lòng tôi dâng lên niềm dạt dào mến thương các cậu. Một sự gần gũi ân tình anh em, chiến hữu cùng trong một cảnh ngộ đã sưởi ấm hồn nhau.
Do buổi tối này, anh em bên nhau thì thầm, nhỏ to trò chuyện, tôi đã biết sơ lược về toán của các cậu như sau:
Toán gồm tất cả 7 người. Vào lúc 2 giờ, một đêm cuối tháng 4/1965, toán đã nhẩy xuống một vùng rừng già thuộc tỉnh Cao Bằng. Toán trưởng là Nông Quốc Hải, 26 tuổi (1965) người dân tộc Thổ. Toán có nhiệm vụ lúc đầu là bắt mối, liên lạc với địa phương, gây một cơ sở đầu cầu cho những toán kế tiếp. Sau đó, thâu tập một số tin tức tình báo thuộc địa bàn hoạt động. Nhưng khi toán nhẩy xuống điểm đã được quy định, chỉ 2 giờ sau đã bị bao vây. Trong lúc đêm tối, hỗn loạn chiến đấu, người chết, người bị thuơng tán loạn chẳng ai biết rõ về ai. Cho tới khi bị bắt về trại giam thì chỉ có 5 người. Trong số đó có Nông Quốc Hải, toán trưởng bị đạn xuyên qua đùi, nhưng không gẫy xương. Shè Khửu Sáng bị một viên đạn lồi hẳn con ngươi ra ngoài. Còn 2 người nữa, không biết rõ là mất tích hay bị chết, cho đến nay (1968) chưa hề nghe tin tức gì về họ cả.
Năm người bị bắt, sau hơn một năm bị hành hạ khai thác ở Cao Bằng, cũng chẳng được đưa ra tòa xử mà bị nhận lệnh tập trung cải tạo, rồi chuyển về trại E này. Hiện nay cả 5 người đều ở buồng II. Hai người ở toán xẻ gỗ (toán 3) là Nông Quốc Hải, toán trưởng, 29 tuổi (1968); Hoàng Mạnh Hùng.
Ba người ở toán 2 (mộc) là: Shè Khửu Sáng – 26 tuổi, người Nhắng. Nguyễn Văn Châu – 25 tuổi, người Kinh; La Văn Thịnh – 23 tuổi, người Thổ.
Tất cả 7 cậu đều ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng. Khi các cậu được tuyển mộ vào ngành biệt kích, tuổi đời đều trên dưới 20. Trước đây, đôi lúc tôi cũng băn khoăn, nhớ khi bị bắt tuổi đời tôi mới 24, nhưng bây giờ nhìn về toán biệt kích này, tôi càng không khỏi bùi ngùi, khi vào tù các cậu chỉ mới ở tuổi đôi mươi. Câu chuyện của các cậu, dù tôi chưa biết được tỉ mỉ, chi tiết, nhưng cứ chập chờn len lỏi vào hồn tôi lúc rõ, lúc mờ trong giấc ngủ muộn.
Sáng hôm sau, thứ Hai. Điểm xong, khi ra khỏi cửa buồng, tôi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, khi nhìn thấy sương mù. Chưa bao giờ tôi thấy nhiều sương mù như vậy. Cả một bầu trời trắng đục, ngay cái hội trường chỉ cách gần 2 chục mét trước mặt mà cũng mờ mờ trong sương. Nhìn xuống phía dưới sân trại, những bóng người nhấp nhô, ngược xuôi thấp thoáng, di chuyển như trong một đám khói dầy. Tôi vừa chạy trong sương xuống phía giếng nước, vừa ngẫm nghĩ: chẳng biết ở những miền rừng núi thường có sương mù như thế, hay chỉ trong khu vực Hoàng Liên Sơn này?
Lúc tôi chạy trở về gần ngang buồng, cứ nhìn những bóng người thấp thoáng trong sương mờ, hồn tôi lại lắc lư, bồng bềnh liên tưởng về một ngày xưa xa lắm. Khi ấy, tôi còn rất bé, nhìn một bức tranh địa ngục với những bóng ma, quỷ tội đồ, xiềng xích. Họ làm việc khổ hình cũng trong khói sương thuộc quyền của Diêm Vương. Mập mờ, thoáng thấy bóng anh Lân và Lý A Chén cùng một số người đang ồn ào bàn tán. Thì ra hôm nay, toán trang trọng cử tự giác Chén ra đồng, sang toán 5 lĩnh lá cải bắp già về bồi dưỡng cho toán.
Ngay từ hôm thứ Bẩy, anh Lân đã vận động với ông cán bộ toán, liên hệ với cán bộ toán 5; sau khi anh Lân đã đến riêng với anh Xuân Tảo, toán trưởng toán 5. Theo anh Lân, anh đã phải vận dụng hết khả năng ngoại giao, mở cả một chiến dịch chạy chọt hai, ba nơi. Phải nêu những thành tích sản xuất vượt bực của toán 2, nói sùi cả bọt mép v.v… Bởi vì, theo kế hoạch phân phối đã từ lâu của trại thì những lá già của các loại rau xanh, chỉ dành riêng cho bên khu chăn nuôi của cơ quan và trại giam mà thôi. Nếu toán 3 xin riêng được, thì toán khác cũng xin được. Như vậy, còn gì cho trại và cho chăn nuôi? Chưa hết, anh Lân lại còn phải lấy giấy giới thiệu của ông Kích, cán bộ toán để đến ông cán bộ nhà bếp xin 3 lạng muối nữa!
Một nguồn tin còn quan trọng gấp nhiều lần hơn tin bác Hồ trở lại thăm hang Pắc Pó. Nó làm cho khí thế lao động của toán 2 hôm nay, được nâng cao rõ rệt. Mặt anh nào cũng tươi rói, chào hỏi nhau, vồn vã khác thường.
Khi trò chuyện trong lúc kẻ khẩu hiệu với Lê Sơn sáng nay, tôi đã lựa lời hỏi về anh Khải bị đi kỷ luật tuần trước. Không ngờ, anh Khải còn một người bố nữa là Nguyễn Từ Hải, cũng đang ở toán 3 xẻ. Hai bố con cùng một tội phản tuyên truyền trong phong trào “trăm hoa đua nở” và “nhân dân giai phẩm”. Hai bố con cùng ở Hà Nội, anh Khải là con trai cả, 28 tuổi, chưa lập gia đình. Cả hai bố con đã từ gần 10 năm rồi với cái lệnh tập trung cải tạo 3 năm.
Nghe Lê Sơn nói như vậy, tự nhiên tôi muốn biết cái cảnh cùm kỷ luật ở trại ra sao nên hỏi anh. Lê Sơn đang cắm cúi, nắn nót kẻ một đường kỷ hà trên tấm khẩu hiệu:
Chiến dịch Đông Xuân:
Bộ đội đổ máu nơi chiến trường.
Nông dân đổ mồ hôi trên đồng ruộng.
Nghe thấy tôi hỏi. Anh đứng giật dậy, quay hẳn lại phía tôi sôi nổi:
- Bình chưa biết cái cùm ở đây đâu. Một tác phẩm vĩ đại của Hoàng Thanh.
Trong khi tôi mở to mắt, đăm đăm nhìn. Tay Lê Sơn đang cầm chiếc bút vẽ cứ hất vung ra, mỗi khi anh giằn giọng. Mặt anh còn toát ra sự uất hận nén đầy; làm cho Quý Cụt từ mãi trong góc nhà cũng quay ra nghe chuyện:
- Nó bằng 2 súc gỗ lim to tướng, đóng thành một cái hộp, mà mọi người gọi là “cái cùm hộp”. Đã bị cùm thì chân không còn nhúc nhích. Ai mà bị cùm chỉ một tuần hay nửa tháng, lúc được thả ra đều phải bò về buồng. Nhiều người đã bị thối chân ra vì cái loại cùm này rồi.
Thấy tôi cau mày, hơi vẻ bàng hoàng. Quý Cụt hất hàm về phía Lê Sơn, rồi cũng lên tiếng như thể thừa nhận:
- Lần trước, cách đây mấy tháng. Lê Sơn khỏe như thế, chỉ bị cùm gần một tháng, khi ra phải hai người giúp, khênh về buồng, người chỉ còn xương với da. Sơn, nó cũng mới lại người đấy!
Đến đây, mắt Quý sáng lên, môi dưới hơi dề xuống ngọ nguậy nói tiếp:
- Lê Sơn mới xoay được tiền để mua chuột bồi dưỡng, nếu người khác thì đừng hòng!
Tôi chặc lưỡi, càng tỏ vẻ trầm trồ. Lê Sơn lại gằn giọng phẫn uất:
- Thằng Hitler bây giờ có sống lại, cũng phải quỳ xuống vái tụi này là tổ sư!
Thấy Lê Sơn phát biểu mạnh quá, làm tôi cũng hơi khớp. Khớp về sự kiện Sơn đưa ra thì ít, mà vì ngỡ ngàng thấy không khí riêng tư của buồng vernie này khác hẳn với bên ngoài trại. Tôi liếc mãi nhìn khoảng cách dưới lán mộc với nhà vernie, rồi chuyển hướng câu chuyện:
- Thế Hoàng Thanh là ai?
- Rồi Bình sẽ gặp, ông ta là trung úy giám thị phân trại E này.
Quý vừa nói xong, thoáng thấy bóng Nguyễn Huy Lân từ dưới lán mộc đi lên, cả 3 người lại cúi xuống làm việc. Lên đến hè, nhìn tôi, Lân nghiêm nghị:
- Bình lên gặp ban giám thị!
Quý Cụt và Lê Sơn đều quay lại nhìn tôi đầy nét dò hỏi. Phần tôi, cũng bắt đầu lo lắng. Tôi chậm chạp đi theo anh Lân. Thấy Lân dẫn sang phía toán 3, đi sát lại, tôi hỏi khẽ:
- Ông Hoàng Thanh à?
Anh Lân chỉ lắc đầu, tôi chẳng hiểu là anh không biết, hay không muốn nói? Thái độ của anh Lân lạnh lùng, khác hẳn với sự cười cợt thân mật mọi khi. Anh dẫn tôi đến trước căn nhà con của cán bộ toán 3. Chỉ vào cánh cửa gỗ đang khép hờ, anh nói nhẹ:
- Bình vào trong ấy!
Nói rồi, anh trở về lán mộc ngay. Hơi đắn đo, rồi tôi bước lên những bậc đất, đến trước cánh cửa khép. Một giọng Bắc, ngai ngái miền Bắc Ninh rất nhẹ phía trong:
- Anh cứ đẩy cửa vào đi!
Một người chừng 50 tuổi, hơi nhỏ con, tóc đã muối tiêu, đặc biệt có cặp lông mày thật rậm; đã ngồi sẵn phía sau chiếc bàn con để mộc. Hai bên ve áo, có hai chiếc lon hình chữ nhật lệch đỏ chóe. Trên mỗi chiếc lon có 4 ngôi sao và một chiếc vạch mầu vàng ươm, phía dưới. Tôi bước vào, hơi nghiêng người tỏ vẻ chào ông ta. Hơi hất hàm ra phía cửa, rồi ông ta nhìn xuống chiếc ghế đẩu, đang để chơ vơ phía trước bàn:
- Đóng cửa lại, rồi ngồi đây!
Một giây im lặng, ông ta cất tiếng nhè nhẹ như chuyện trò thăm hỏi:
- Hơn một tuần nay, lên đây rồi, anh thấy khung cảnh trại thế nào? Anh phát biểu tôi nghe!
Qua giọng nói nhỏ nhẹ, nhất là đôi mắt của ông ta dìu dịu như le lói, chút ít tình người. Tuy vậy tôi vẫn dè dặt:
- Dạ, thưa ông, tôi thấy tinh thần lao động của mọi người rất hăng say, tích cực.
Ông ta gật gật đầu nhưng miệng lại hỏi:
- Ngoài vấn đề lao động ra, tôi muốn anh phát biểu về những lảnh vực khác.
- Thưa ông, tôi mới nhập trại nên chưa biết gì.
Tôi đã hơi hiểu ý ông ta muốn những cái gì rồi, nhưng tôi vẫn trả lời như trên. Có lẽ thấy tôi ngập ngừng dè dặt, ông ta bắt đầu, hơi gằn giọng:
- Tôi biết tư tưởng anh chưa ổn định. Anh cón nhiều hoang mang, giao động khi phải chuyển đến một nơi chưa biết.
Ngưng lại một lúc, thấy tôi vẫn cúi đầu ngồi yên, ông ta lại tiếp:
- Chính vì thế, lẽ ra tôi chưa muốn gặp anh. Nhưng một cái cây, mới đem trồng vào đất khác; nếu nó nghiêng, có khi rồi nó sẽ đổ gục; hoặc nó sẽ cứ nghiêng mãi. Tôi muốn cái cây ấy mọc thẳng đứng ngay từ đầu.
Ngồi nghe ông ta nói, tuy chưa biết rõ ý đồ, mục đích của ông ta gặp tôi để làm gì, trong lòng tôi cũng nhiều lần tự hỏi, tên này tuy là đại úy nhưng chưa biết y ở cương vị nào. Xem vẻ y rất mềm mỏng, muốn đi sâu vào tâm hồn của đối tượng. Lạt mềm thì buộc chặt, loại này càng phải cảnh giác, thận trọng khi tiếp xúc, quan hệ. Thực ra trong lòng tôi, vẫn luôn luôn mang sẵn một quả bom nổ chậm. Chưa thể nói là đã lấy được hết ngòi nổ ra. Tuy rằng sau gần 6 năm khai thác, cuối cùng chúng đã đưa tôi ra tòa xử án, Nhưng dưới chế độ cộng sản, thực tế đã cho mọi người đều hiểu: xử án xong không có nghĩa là vụ án đã kết thúc. Bởi vậy, từ chuyện Z5 Hoàng Đình Thọ, đến tài liệu “M” v.v…luôn luôn làm tôi phải ngấp nghé, phập phòng mỗi khi phải gặp một tên cán bộ lạ.
Tôi vẫn cúi đầu nhìn xuống mép bàn, để lòng chảy về những năm tháng cũ ở Hỏa Lò thì ông ta đằng hắng:
- Anh Bình, anh phát biểu ý kiến của anh đi! Anh hoang mang à?
Thấy ông ta nói vậy, để cho xuôi và hợp lý, tôi phát biểu:
- Thưa ông, tôi xin nói thành thật là trước khi đến trại này tôi có hoang mang, vì tôi chưa từng ở một trại giam xa xôi thế này. Nhưng sau năm, sáu ngày ở đây, qua những sinh hoạt ăn ngủ, lao động, tôi đã tin tưởng vào đường lối chính sách cải tạo, giáo dục của đảng và nhà nước. Tôi không còn hoang mang nữa.
Ông ta gật đầu rồi nói đều đều như nhắn nhủ, như nhắc nhở:
- Tôi tin vào cái nhìn sâu, sát của anh. Vì vậy anh phải thực hiện thật tốt 4 tiêu chuẩn cải tạo mà nhà nước đã đề ra. Trong đó không những anh phải phấn đấu lao động, cải tạo tư tưởng cho bản thân mà còn có trách nhiệm phải giúp đỡ mọi người khác cùng tiến bộ. Đó cũng là cách tích cực nhất, anh đã tự mở con đường cải tạo thênh thang cho chính anh. Ngoài ra, tổng quan tình hình của trại, thấy những vấn đề gì làm trở ngại cho bước đi lên, anh cứ mạnh bạo đề xuất sáng kiến. Tôi sẽ gặp anh sau! Ông ta vừa nói, vừa đứng dậy.
Sau khi chào ông ta, tôi đã quay đi ra đến cửa, thì ông ta đến bên, nói như thân tình:
- Bất cứ khi nào anh cần gặp tôi, hãy đề bạt với ông cán bộ toán.
Tôi phải chào y lần nữa và bước ra khỏi cửa. Trên đường về lán mộc, lòng tôi thấy nhè nhẹ vơi hẳn cái lắng lo khi sớm. Nhưng tôi cũng mờ mờ cảm thấy, ông ta muốn tôi làm một con chó săn cho ông ta. Cá to thì phải câu cần to; cá nhỏ thì câu cần nhỏ. Cá nào cũng câu, chỉ còn tùy thuộc vào từng con cá, có cắn câu hay không. Đó là chủ trương của những người cộng sản giam giữ tù.
Đành rằng, ngay trong 4 tiêu chuẩn cải tạo đã có câu:
“phát hiện và tố giác mọi phần tử xấu chung quanh, từ lời nói cũng như hành động”.
Nhưng tới đây, tôi cũng mới chỉ mơ hồ nhận thấy những phương pháp: ngăn cách, ly gián, hư thực, thực hư…; lấy cái đói khổ (cái dạ dầy) sự khích lệ, tâng bốc, phỉnh phờ, kết hợp với áp lực của vũ khí. Nhào lộn nhuần nhuyễn để tùy theo áp dụng với từng người, sao cho đạt mục đích tối hậu là mọi phạm nhân trong trại, sẽ yên định như những chiếc nêm cối xay lúa. Nghĩa là, không thể nhúc nhích, yên lành sống, ngoan ngoãn trong cảnh tù đày; như không có chuyện gì xảy ra cả. Còn nhiều điều, nhiều khâu, tôi chưa nhìn được rõ ràng. Phải đợi những ngày tới, qua những tình huống và sự việc cụ thể, bằng người thực, việc thực mới giúp tôi nhìn sáng tỏ vấn đề này hơn.
Khi về qua chỗ cầu bào của Lân, anh gật đầu gọi tôi lại. Anh nhìn tôi chằm chặp rồi ngập ngừng:
- Có chuyện gì thế?
Để khỏi phải dài dòng, tôi thủng thẳng:
- Ông ta hỏi cảm tưởng mấy ngày ở trại và một vài sự việc trong vụ án của tôi.
Tôi hỏi lại anh Lân, ông ta tên gì và làm việc ở đâu, thì được biết ông ta tên Chuân, Nguyễn Chuân, giám thị ở trại chính. Tôi sắp từ giã, thì anh Lân ghé gần tai nói nhỏ:
- Hãy cẩn thận thằng Quý Cụt. Trước đây nó tiến bộ lắm, tố cáo lung tung mọi người, nhưng kỳ này bớt rồi. Tuy vậy “cẩn tắc, vô ưu”.
Rời chỗ Lân để trở lên nhà vernie, tôi vừa đi vừa suy nghĩ: mấy người, trong năm ngày nay tôi hay chuyện trò, anh này bảo cảnh giác anh kia, như vậy người ta có thể nghi ngờ hết cả mọi người, kể cả tôi. Như thế là đúng như dụng ý của kẻ coi tù rồi! Tuy thế, chỉ có Lê Sơn thì chưa có một ai bảo tôi phải cảnh giác cả.
Lúc về đến nhà vernie, tôi cũng hỏi Lê Sơn và Quý Cụt như đã nói với anh Lân về chuyện gặp ông Chuân. Qua Lê Sơn, tôi còn được biết rõ hơn về Nguyễn Chuân. Giám thị của toàn trại Trung Ương số 1, gồm 5 phân trại là ông Toán, thiếu tá. Nhưng bí thư Đảng ủy lại là ông Chuân. Tuy chỉ là đại úy, nhưng quyết định mọi việc lớn của trại, đều do ông Chuân, đại diện của Đảng. Tôi cũng được biết là ông Chuân ít khi vào trại này và cũng năm thì, mười họa mới gặp phạm nhân mà thôi. Hơn một năm trước, có một lần ông ta vào gặp Vân và một lần gặp ông Hinh Mù, người mà đã một lần tôi trông thấy đang lần bước trên hè nhà số 1. Ông có thân hình to, cao như Lê Văn Kinh, ông chừng 55 tới 60 tuổi rồi.
Buổi trưa ở trong trại, sau bữa cơm ngô vội vàng, tôi đang nằm liu riu, mơ màng bên cạnh Vân để chờ giờ đi lao động buổi chiều, thì thoáng nghe tiếng rủng rẻng của chùm chìa khóa ở phía cửa, làm tôi mở choàng mắt ra. Tên Cẩn, trực trại và tên Phạm Huy Tân, trật tự đang đứng ở giữa nhà. Tên Cẩn đang chỉ chỏ lên sàn trên, phía trước của toán 3. Một bác chừng 50 tuổi ngoài, dáng hom hem, mảnh khảnh đang lúng túng cuộn chăn chiếu, lò rò trèo xuống. Tôi còn đang ngơ ngác, thì Vân cũng đã mở mắt rồi, nói khẽ:
- Ông Chương, Lê Tài Chương đi kỷ luật.
Hơi bàng hoàng, tôi hỏi lại Vân:
- Làm sao mà đi kỷ luật?
Vân vẫn nằm, nói nhỏ:
- Bình chưa hiểu được đâu, những người bị đi kỷ luật, chỉ đôi khi mọi người mới biết lý do. Còn thông thường chỉ có người nào bị đi, thì họ mới được biết mà thôi. Thế mà nhiều khi, ngay bản thân người phải đi kỷ luật, cũng không biết tại sao nữa. Thậm chí, như anh Đồng, hai tháng trước bị đi kỷ luật, cùm một tuần. Cho tới khi được tha, anh ta cũng chưa biết vì sao mà anh ta phải đi kỷ luật.
Nghe Vân nói thế, lòng tôi hoang mang cực độ. Vân nhìn thái độ của tôi một lúc, rồi anh vừa chùm chăn lên mặt, vừa nói:
- Tội tư tưởng, thì ai mà biết được!
Tôi nằm nhắm mắt, mà lòng ngổn ngang xôi động đầy vơi. Nỗi lắng lo về ngày mai, cứ dâng đầy, bủa kín hồn tôi. Óc tôi vất vưởng, chợt nhớ tới ông Chương. Phải rồi, ông Chương, chủ tịch đảng Tân Phong mà có lần Quý Cụt nói đến. Tôi vẫn có ý định đến gặp ông ta, để học hỏi thêm kinh nghiệm, kiến thức. Thế mà bề bộn nhiều sự việc lan man, tôi đã quên khuấy không tìm dịp gặp ông ta.

No comments:

Post a Comment