DẤU
BINH LỬA NƯỚC NON CÒN ĐÓ
Huế
là một thành phố thảm thương nhất trên thế giới, không phải chỉ vì một thảm
cảnh đã xảy ra ở đó vào tháng Hai năm 1968, cho dù sự giết hại đó có đi vượt
sức tưởng tượng của con người! Mà Huế còn là một chứng tích không thể chối cải
được cho tất cả chúng ta, người dân Việt với bốn ngàn năm văn hiến, qua bao năm
đã không để ý đến những thay đổi trong xã hội làm cho con người bị mê muội và
đắm chìm trong lỗi lầm mới của thế kỹ thứ hai mươi, quên mất đi đạo làm người.
Những thảm họa xảy ra ở Huế làm cho tất cả mọi người chúng ta phải bồi hồi suy
tư! Thảm nạn Huế phải được tạc vào bia đá, khắc vào tâm khảm, để đời sau sẽ
không quên, cùng chung với những dữ kiện lịch sử khác, của những cuộc tàn sát
bạo tàn giữa con người với nhau. Huế là một dẫn chứng điển hình cho sự mù quáng
của loài người khi họ đi theo chủ nghĩa vô sản vô thần của cộng sản.
Chuyện
gì đã đến với Huế có thể được tóm tắt lại qua vài con số thống kê như sau: Phía
cộng sản gồm có 12,000 lính chính quy Bắc Việt (BV) bắt đầu tấn công thành phố
Huế đêm ba mươi Tết, nhằm ngày Ba Mươi Tháng Một dương lịch, 1968. Đoàn cộng
quân đã tấn công và chiếm giử Huế trong suốt 26 ngày, sau đó bị Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và đồng minh đánh bật ra khỏi Huế. Sau một tháng, 5,800
thường dân Huế bị giết hại hoặc mất tích.
Đây
là những thống kê quan trọng để giải đáp những thắc mắc chúng ta có về Huế, vì
những dữ kiện này đã ghi vào lịch sử, cho dù báo chí trên thế giới chỉ ghi nhận
rất sơ sài các thống kê đó. Dù con số có lên cao đến bao nhiêu đi nữa, lương
tâm của nhân loại vẫn không bị ảnh hưởng gì cho lắm! Đã không có những cuộc
biểu tình trước các tòa Đại Sứ Việt Cộng ở các quốc gia khác. Nói một cách mỉa
mai hơn, thế giới bên ngoài đã không biết chuyện gì đã xảy ra ở Huế, hoặc nếu
biết, họ cũng chẳng bận tâm đến làm gì.
TRẬN
CHIẾN
Trận
tấn công thành phố Huế là một phần quan trọng trong chiến dịch tổng tấn công
Đông Xuân năm 1967-1968 của cộng sản Việt Nam. Chiến dịch được chia làm ba giai
đoạn chính như sau:
Giai
đoạn 1 –
Bắt đầu từ tháng 12 năm 1967 vơi những cuộc “tấn công chọn lọc” nhắm vào các
căn cứ và yếu điểm quan trọng của QLVNCH và đồng minh bằng những sư đoàn chính
quy Bắc Việt. Các trận đánh ở Lộc Ninh tỉnh Bình Long, Dak To ở Kontum, và Cồn
Tiên ở tỉnh Quảng Trị, cả ba trận xảy ra trong các vùng đầy núi đồi Việt Nam
gần biên giơi Cam Bốt và Lào, đều là những trận đánh then chốt thuộc Giai đoạn
1 của chiến dịch Đông Xuân.
Giai
đoạn 2 –
Xảy ra trong tháng Giêng, tháng Hai, và tháng Ba năm 1968, nằm trong “chiến
thuật tổng tấn công”, với nhiều trận đánh dùng những đơn vị nhỏ lưu động cùng
tấn công một lúc tại nhiều nơi. Giai đoạn 2 bao gồm một diện tích lớn và dùng
chiến thuật du kích. Trong khi những cuộc tấn công trong giai đoạn trước, VC
dùng những sư đoàn chính quy BV. Trong giai đoạn này, đa số các cuộc tấn công
đều dùng những nhóm du kích địa phương của Mật Trận Giải Phóng Miền Nam. Cao
điểm của giai đoạn 2 xảy ra khi 70,000 Việt Cộng tấn công vào 32 thành phố vào
ngày Mồng Một Tết, năm 1968.
Giai
đoạn 3 –
Diễn ra trong tháng Tư, tháng Năm, và tháng Sáu năm 1968, với toàn bộ lực lượng
gồm các sư đoàn chính quy BV và các lực lượng du kích MTGPMN, tập trung vào một
trận đánh lớn. Những tài liệu tịch thu được từ mặt trận đã có nói về chiến
thuật “đợt sóng thứ Hai” này. Có thể là Khe Sanh, một căn cứ của Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ nằm gần Vĩ Tuyến 17 (để yễm trợ và cũng là căn cứ xuất quân
của các toán Biệt Kích Nha Kỹ Thuật). Hoặc có thể là Cố Đô Huế. “Đợt sóng thứ
Hai” đã không xảy ra vì các chiến dịch trước đó (Giai đoạn 1 và Giai đoạn 2) đã
không đạt được kết quả mong muốn. Tuy nhiên, từ khi thành phố Huế bị chiếm, và
sau cuộc đánh để giải tỏa căn cứ Khe Sanh mùa Hè 1968, cuộc chiến đã đi đến
điểm cao độ kể từ đó.
Về
phía đồng minh Hoa Kỳ, trong ba tháng này, trung bình khoảng 500 binh sĩ tử
thương hàng tuần, QLVNCH (ARVN) hơn gấp đôi con số này - gần 1,000 nhân mạng.
Và bên Việt Cộng, con số tử thương lên đến tám lần của phía Hoa Kỳ - trên 4,000
“sinh Bắc tử Nam”! Trong chiến dịch Đông Xuân, Việt Cộng bắt đầu với khoảng
195,000 quân chính quy và du kích, sau 9 tháng tổng tấn công, cộng sản
Bắc Việt đã mất đi 85,000 quân, tử thương hoặc bị tàn phế.
Chiến
dịch Đông Xuân được hoạch định và mở ra nhằm mục đích bẻ gãy sức mạnh của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa và để đẩy lùi các bộ phận của chính phủ VNCH, gồm các cơ
quan hành chính, và đồng minh phải rút vào thành phố để phòng thủ. Đúng ra,
cuộc tấn công thành phố Huế thuộc vào Giai đoạn 1 của chiến dịch Đông Xuân hơn
là Giai đoạn 2 vì Việt Cộng xữ dụng các sư đoàn Bắc Việt, sư đoàn 5 324-B cộng
vơi các trung đoàn chính quy và thành phần du kích với khoảng 150 cán bộ cộng
sản nằm vùng.
Tóm
lượt lại, trận đánh ở Huế gồm có ba giai đoạn chính:
HUẾ: GIAI ĐOẠN MỘT
HUẾ: GIAI ĐOẠN MỘT
Phần
tấn công khởi đầu của sư đoàn chính quy BV với Trung Đoàn 800 và Trung Đoàn 802,
đủ hỏa và nhân lực để tràn ngập vào thành phố Huế. Đến sáng ngày hôm sau, Việt
Cộng đã chiếm được đa số các cơ sở trong thành phố Huế, ngoại trừ Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn 1 Bộ Binh QLVNCH và các căn cứ của đồng minh. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
và Hoa Kỳ tiếp viện thêm quân để yễm trợ cho hai tuyến phòng thủ quan trọng
trong thành phố Huế. Việt cộng gia tăng thêm Trung Đoàn 804 để cắt đứt đường
yễm trợ này. Tuy nhiên QLVNCH tấn công quá mạnh nên đã chọc thủng vòng đai bao
vây của VC và sau đó, hai căn cứ quân sự của QLVNCH và Hoa Kỳ đó không còn bị
đe dọa trầm trọng nữa.
Kể
từ đó, chiến trường trở thành cuộc bao vây và phòng thủ giữa hai phía. Việt
Cộng tấn chiếm và cố thủ ở phía Tây Thành Nội Huế. QLVNCH và Đồng Minh tái
chiếm và phòng thủ ba hướng còn lại của Thành Nội và các làng dọc theo sông
Hương, với quyết tâm đánh đuổi VC ra khỏi Thành Nội bằng pháo binh và dùng máy
bay dội bom. Nhưng Thành Nội được xây rất kiên cố, và trong những ngày kế tiếp,
QLVNCH thấy rõ là VC đã nhận chỉ thị phải tử thủ ở Thành Nội, bất cứ với giá
nào cũng không được triệt thoái. QLVNCH chỉ còn một cách duy nhất là lấy lại
thành phố bằng từng con đường, từng khu phố, một cách chiến đấu rất khó khăn,
gian khổ và hao tổn nhân mạng.
Qua
tuần thứ Ba của tháng Hai, vòng đai bao vây Thành Nội đã được củng cố, và Thủy
Quân Lục Chiến QLVNCH cùng Đồng Minh bắt đầu xiết chặc lại và khởi sự tái chiếm
từng thước đất trong Thành Nội. Sáng ngày 24 tháng Hai, Sư Đoàn 1 Bộ Binh
QLVNCH giật lá cờ VC đã treo 24 ngày xuống và cờ VNCH một lần nữa ngạo nghễ
tung bay trên thành phố Huế. Trận tái chiếm Cổ Thành tuy đã thành công, nhưng
rải rác trong thành phố vẫn còn những cuộc đụng độ nhỏ giữa VC trên đường rút
lui với QLVNCH truy đuổi.
KẺ HÀNH HƯƠNG QUA ÐẤY CHẠNH THƯƠNG
TÌM THÂY
KẺ HÀNH HƯƠNG QUA ÐẤY CHẠNH THƯƠNG
TÌM THÂY
Giữa
những hỗn loạn còn nghi ngút khói sau cuộc chiến, việc cấp cứu đầu tiên cho
đồng bào Huế là cứu đói, ngăn ngừa bệnh dịch, và trị liệu cấp thời cho các nạn
nhân. Tiếp đó là xây dựng lại những nhà thương, trường học, nhà cửa bị hư hại
vì súng và bom đạn. Sau đó mới đến việc kiểm điểm những người bị mất tích hoặc
đã thiệt mạng. Sau một tháng, vẫn chưa có một thống kê nào chính thức. Tuy
nhiên, Tòa Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên kiểm kê được gần 1,900 người đang được
điều trị trong các nhà thương và ước lượng khoảng 5,800 người vẫn còn bị mất
tích.
Nhóm
mộ thứ nhất: những nạn nhân của cộng sản được tìm thấy ở trong sân
trường ở Gia Hội, ngày 26 tháng Hai. Tổng số xác chết của nạn nhân bị chôn ở
trường học Gia Hội tìm thấy lên đến 170 người.
Trong
những tháng kế tiếp, lần lượt từng mồ chôn được khám phá thêm, gồm có 18 ngôi
mộ tập thể, nơi chôn nhiều nhất là chùa Quảng Tự (67 nạn nhân), Bải Dâu (77),
Chợ Thông (ước lượng khoảng 100), Thiên Hàm (khoảng 200), và Đông Gia (khoảng
100). Tổng cộng trên 1,200 xác được tìm thấy từ những ngôi mồ tập thể chôn gấp
rút, đã không dấu kỹ.
Hơn
một nữa trong số những nạn nhân vẫn còn để lai những dấu hiệu của cái chết thảm
khốc: hai tay trói chặc sau lưng, khăn nhét đầy vào cuống họng, nằm cong queo
với không thương tích trên người. Đó là dấu hiệu họ đã bị chôn sống. 600 nạn
nhân còn lại có những vết thương, nhưng nhà giảo nghiệm không thể nói được là
họ đã bị xữ bắn hay bị chết vì lạc đạn.
Những
ngôi mộ tập thể thuộc nhóm thứ nhì được tìm thấy trong bảy tháng đầu tiên
của năm 1969 ở quận Phú Thứ (Gò Cát – Sand Dune), Lệ Xá Tây, quận Hương Thủy –
huyện Xuân Hòa, Vân Đường vào cuối tháng Ba và tháng Tư. Nhiều ngôi mộ khác
cũng đã được tìm thấy tại làng Vĩnh Lộc trong tháng Năm và ở quận Nam Hòa trong
tháng bảy. Những ngôi mộ lớn nhất tìm thấy trong đợt hai nằm ở Gò Cát tại ba
địa điểm Vĩnh Lưu, Lê Xã Đông và Xuân Lộ, nằm giấu trong những gò cát nhấp nhô
với cỏ mọc cao gần bãi biển. Ngăn chia bởi những cồn muối, xa với làng xóm,
những gò cát này là địa điểm lý tưởng để chôn dấu. Trên 800 xác đã được tìm
thấy ở đây.
(ghi chú thêm của Ngô
Xuân Hùng: trong số những nạn nhân này có hai vị Linh Mục – Cha
Bữu Đồng và Cha Micael Bang, cùng với hai Sư Huynh Dòng
Lasan).
Ở
Gò Cát, tất cả các nạn nhân đều bị trói gô lại thành từng nhóm khoảng 10 đến 20
người, xếp hàng đứng trước các rãnh mới được đào bởi chính các nạn nhân, và bị
xữ bắn bằng súng đại liên. Một trong những di vật quý của dân làng gò cát Phú
Thứ là vỏ đạn đại liên của Nga Sô tìm thấy được trong những ngôi mộ này. Thường
thì những nạn nhân ở đây bị chôn chung một mộ, chôn đến ba hay bốn lớp, nên
nhận diện các nạn nhân rất khó khăn.
Nhóm
mộ thứ ba tìm
thấy ở suối Đá Mài (Da Mai Creek find), cũng được gọi là Phủ Cam tử lộ, tìm ra
ngày 19 tháng 9, năm 1969. Ba VC hồi chánh viên đã báo cho toán quân báo của
Tiểu Đoàn 101 Nhảy Dù rằng, họ đã chứng kiến cuộc thảm sát của vài trăm nạn
nhân tại Đá Mài vào tháng Hai năm 1968, cách Huế khoảng mười dặm. Vùng suối Đá
Mài rất hoang dã, không người ở, và gần như không có lối ra vào bằng đường bộ.
Sau
khi gom lại những bằng chứng, các giảm nghiệm viên đã phân tách diễn biến xảy
ra tại Đá Mài như sau:
Ngày
Mồng Năm Tết ở làng Phủ Cam, nơi gần ba phần tư của 40 ngàn người Công Giáo Huế
cư ngụ, một số rất đông ngươi đã tránh nạn trong Thánh Đường Phủ Cam, một cách
tránh nạn rất thông thường ở Việt Nam. Trong số này, cũng có một số người không
phải là Công Giáo. Một cán bộ chính trị cộng sản đến nhà thờ và đã ra lệnh cho
400 người, bằng cách gọi tên hoặc nhận diện qua cách ăn mặc (giàu có hoặc nhìn
như thương gia). Tên cán bộ nói họ sẽ được đi đến “vùng giải phóng” trong ba
ngày mà thôi để được cải tạo, sau đó họ sẽ được thả về.
Những
người này đi bộ chín cây số về hướng Nam đến một ngôi chùa nơi cộng sản đã dựng
sẵn một bộ chỉ huy hành quân. Hai mươi người bị kêu ra khỏi nhóm, đứng
sắp hàng một, lần lượt bị truy tố vì những tội đã hợp tác với chính phủ VNCH,
sau đó bị bắn rồi bị chôn trong sân chùa. Những người còn lại bị buộc phải lội
băng qua phía bên kia sông, và được giao lại cho một đại đội du kích, với biên
bản và danh sách của những người bị bắt. Có thể là tên cán bộ chính trị có ý là
những người bị bắt này sẽ “được” cải tạo rồi sẽ thả cho họ về, nhưng sau khi
bàn giao, số phần của những nạn nhân này đã ra khỏi tầm tay của tên cán bộ
chính trị.
Những
ngày kế tiếp, bao nhiêu ngày không ai biết, những người bị bắt và người quản
thúc họ đi lang thang lẩn trốn cuộc truy lùng của QLVNCH qua những làng nhỏ.
Cuối cùng, cán bộ du kích cao cấp quyết định thủ tiêu nhân chứng: Họ bị dắt đi
sáu cây số qua những đường núi khó đi và hẻo lánh nhất, đến suối Đá Mài. Tất cả
đều bị bắn hoặc bị đập vỡ sọ, xác họ để nằm phơi trên suối nước. Tiểu Đoàn 101
Nhảy Dù QLVNCH ghi nhận rằng nơi hành quyết không thể vào được bằng xe vì đường
đi không có hoặc không thể đi lọt được, chỉ vào được bằng đường bộ. Cây cối nơi
này mọc rất cao, lá dầy và mọc theo lối “hai tầng”, tầng một gồm những bụi tre
và cây thấp gần đất, tầng hai gồm những cây cổ thụ mọc rất cao, những nhánh lớn
xoè ra như lọng dù che khuất đi những gì ở dưới. Bên dưới hai tầng lá này, ánh
sánh mặt trời không chiếu sáng được. Công binh QLVNCH đã bỏ hai ngày để dùng
mìn phá ngã các cây cổ thụ và tạo ra một khoảng trống lớn đủ cho máy bay trực
thăng đáp xuống để đem các di hài nạn nhân về Huế. Suối Đá Mài thật đúng là nơi
để hạ sát mà không cần phải chôn giấu xác nạn nhân.
Ở
suối Đá Mài, cách bờ khoảng một trăm thước, người ta tìm thấy hàng trăm chiếc
sọ người, hàng trăm mẫu xương vụn nằm chung lại một chổ. Những xác này đã không
được chôn, nằm lộ liễu (theo truyền thuyết VN, người chết nếu không được chôn,
hồn họ phải lang thang mãi và sẽ không được đầu thai qua kiếp khác). Và sau hai
mươi tháng, dòng suối đã rửa sạch trắng những bộ xương này.
Nhà
chức trách VNCH sau đó đã phổ biến danh sách nạn nhân bị cộng sản giết tại suối
Đá Mài, 428 người đã được xác nhận. Việt cộng đã dùng lý do tiêu diệt các phần
tử phản cách mạng. 428 nạn nhân được phân ra như sau: 25 phần trăm là quân đội
VCNH – hai sĩ quan, một số hạ sĩ quan và binh sĩ, 25 phần trăm là học sinh và
sinh viên, 50 phần trăm là công chức và viên chức quận hạt và thường dân.
Nhóm
mồ tập thể thứ tư – Phú Thứ gần biễn muối, tìm ra vào tháng mười một năm
1969, gần làng đánh cá Lương Viện, mười lăm cây số về phía Đông của thành phố
Huế, một nơi cũng hoang dã như suối Đá Mài. Quân đội VNCH trong tháng đó đã có
chiến dịch truy lùng những cán bộ cộng sản nằm vùng. Làng Lương Viện, dân số 700,
sống gần với quân đội VNCH gần hai mươi tháng trời, đã có đủ can đảm để nói lên
sự thật mà họ đã giữ kín trước đó, rồi sau đó, đã dẫn QLVNCH đến những ngôi mộ
chôn tập thể. Dựa trên những lơi tường thuật của dân làng Lương Viện, nhà chức
trách đã ước lượng số nạn nhân tại Phú Thứ từ 300 cho đến khoảng 1,000 người.
Tuy
nhiên, việc kiểm kê tổng số nạn nhân vẫn chưa được đầy đủ. Nếu tổng kê của chức
trách địa phương Huế gần đúng, trên 2,000 người vẫn còn mất tích.
Sau cuộc chiến, chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa ước lượng
tổng số nạn nhân ở Huế
vào khoảng 7,600, như sau:
Bị thương và tàn tật
vì bom đạn:
Thường dân bị chết
vì bom đạn:
Nhóm mồ tập thể thứ
nhất ngay sau cuộc chiến:
Nhóm mồ tập thể thứ
nhì, luôn cả Gò Cát, tháng 3-7, năm 1969:
Nhóm mồ tập thể thứ
ba, suối Đá Mài (quận Nam Hòa, tháng 9, 1969:
Nhóm mồ tập thể thứ
tư, biễn muối ở Phú Thứ, tháng 11, 1969:
Ước lượng những mồ
tìm rải rác chung quanh thành phố Huế:
Số người vẫn còn mất
tích:
Tổng số nạn nhân của
cộng sản ở Huế:
|
1,900
844
1,173
809
428
300
200
1,946
7,600
|
Chú thích của tác giả
- tài liệu trên đây lấy từ:
[1] SEATO: South East
Asia Organization.
[2] PAVN: People's
Army of Vietnam, soldiers of North Vietnam Army serving in the South, number
currently 105,000.
[3] PLAF: People's
Liberation Armed Force, Formerly called the National Liberation Front Army.
CỘNG SẢN CHẠY TỘI
CỘNG SẢN CHẠY TỘI
Những
cuộc thảm sát ở Huế đã vượt quá những việc tàn ác CSVN đã ra tay trước đó ở
miền Nam Việt Nam. Điều khác biệt là ở số nạn nhân lần này, chứ không phải ở
mức độ tàn ác của việc họ làm. Đặc điểm của những vụ tàn sát ở Huế, sau khi
chúng ta nghiên cứu những tài liệu tìm thấy, cho ta nhìn rõ được mức độ tàn ác
của CSVN tại Huế, đã vượt xa những việc tàn ác ở những nơi khác trên miền Nam
Việt Nam, cho dù có thường xuyên hoặc tàn bạo đến mức nào đi nữa.
Vụ
thảm sát ở Huế không phải là một việc làm để nâng cao tinh thần tranh đấu –
cách đánh cấp tốc vào thẳng yếu điểm của phía bên kia để chứng minh sức mạnh
của phe mình, mà lại khác hơn ở chổ xuống tay sát hại dân lành trong vùng do du
kích của CSVN kiểm soát. Không phải một chiến dịch đe dọa để quảng bá lý thuyết
cộng sản. Không nhắm vào mục đích lay chuyển lý tưởng của phe đối nghịch, vì đa
số những nạn nhân đều bị giết một cách âm thầm. Và cũng không phải để thủ tiêu
những phần tử đối nghịch theo danh sách đã được soạn trước. Huế đã là ngoại lệ
so với những chiến dịch của cộng sản nhằm lay chuyển hoặc đánh dò đường phản
ứng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Nếu nghiên cứu cẩn thận hơn, đây đó cũng
có vài lý do, dữ kiện để giải thích một góc cạnh nào đó, nhưng tất cả vẫn không
đủ để giải thích được những hình thức giết hại và sự lan rộng của những cuộc
thảm sát ở Huế.
Điều
mà tác giả muốn nói ở đây là một giả thuyết, để giải thích những vấn đề liên
quan đến những vụ thảm sát ở Huế, dưới hình thức sát nhân rất đơn giản và không
có sự chọn lựa. Trước khi vào vấn đề, chúng ta nên để ý đến “ba sự thật” quan
trọng. Có hai điều chính yếu mà khách du lịch nào đến Huế để tìm sự thật về
thảm sát Tết Mậu Thân cũng đều tự hỏi: cái gì đã xảy ra? Và quan trọng hơn nữa
là tại sao nó đã xảy ra? Cả hai câu hỏi này rất khó nhận thấy qua sự suy đoán
đơn giản và thường đi ngược lại những lý luận của con người. Sau khi đã nói
chuyện, thẩm vấn một số đông những cựu tỉnh trưởng, quận trưởng, cảnh sát địa
phương lúc bấy giờ, cũng như những người đồng minh Hoa Kỳ có tham dự trận đánh
tái chiếm Cổ Thành Nội, những nhân chứng, tù nhân đã được thả, những người cộng
sản đã hồi chánh, và một số ít người quá may mắn, tuy đã bị bắt nhưng đã thoát
chết, “ba sự thật” quan trọng này vẫn trổi lên trên hết:
SỰ THẬT THỨ NHẤT: Và có thể sự thật quan trọng nhất, là tuy không
thấy rõ bên ngoài, nhưng hầu như tất cả những vụ hành quyết đều xảy ra không
phải vì lý do nóng nảy, bực tức, hay khủng hoảng khi cộng sản phải cuối cùng
rút lui ra khỏi Huế. Nhiều lần, những lý do vừa đề cập đến đã được nêu lên,
nhưng những lý do nầy quá yếu đi, không đủ để biện minh cho sự việc. Trái
lại, nếu chúng ta xét lại từ đầu những vụ hành quyết đầu tiên khi Việt Cộng
vừa chiếm được thành phố Huế, mình sẽ thấy rằng: gần như tất cả những vụ hành
quyết này đều là kết quả của một quyết định và sự toan tính của đảng cộng sản
Việt Nam. Nói đúng hơn nữa là những vụ hành quyết này rất cần thiết cho đảng
cộng sản Việt Nam.
SỰ THẬT THỨ NHÌ: Sau khi kiểm chứng với những dữ kiện đầy đủ, hầu như tất cả các vụ hành quyết đều do bàn tay của những đảng viên cộng sản nằm vùng, không phải ở quân chích quy Bắc Việt hoặc QLVNCH. Trên 12,000 binh sĩ QLVNCH đã chiến đấu để tái chiếm thành phố Huế, và có thể đã gây thiệt mạng một số thường dân vì lạc đạn. Đa số 150 tên cán bộ chính trị nằm vùng hoạt động ở tỉnh Thừa Thiên, những người này chính là thủ phạm đã ra lệnh thủ tiêu các nạn nhân ở Huế. Cho dù họ đã làm theo chỉ thị của bộ chỉ huy (và ban lãnh đạo trung ương CSVN), và nếu như thế thì những chỉ thị đó đã có lệnh như thế nào? Cho đến nay vẫn không ai biết rõ chi tiết.
SỰ THẬT THỨ BA: Ngoài việc hành quyết những “cường hào
ác bá”, cộng sản đã giết hại những nạn nhân còn lại một cách bí mật và đã
không thèm dấu diếm tội ác của họ. Người ta bây giờ thường nghĩ đến Huế như
một pháp trường để hành quyết tội nhân, với những mồ chôn tập thể lớn. Nhưng
trong những ngày đầu tiên Huế bị chiếm đóng, chỉ có một số ít hành quyết được
bộ đội và cộng sản nằm vùng loan báo để đồng bào đến xem. Những mồ chôn trong
thành phố Huế tương đối dễ tìm thấy, vì để chôn người nơi đông đảo rất khó
dấu được những soi bói tò mò của người xung quanh. Tất cả những mộ tập thể
còn lại đều được dấu kỹ, đa số ở vùng rừng núi hoang dã, không người qua lại,
chắc đây là lý do chính khiến cho những nơi này đã được chọn lựa.
|
Một
thân xác chôn vùi trong đồi cát rất khó tìm, cũng như đi tìm một vỏ sò chôn sâu
trong cát trên bờ biễn với sóng biễn xoá đi những dấu tích trên chổ chôn. Suối
Đá Mài là một trong những nơi hẻo lánh nhất của Huế, và chắc hẳn đã làm cho
cộng sản rất tốn công khi đưa các nạn nhân đến đó để giết. Khi đến những nơi
này, người quan sát sẽ nhận thấy rất rõ chủ ý của Việt cộng đã có nỗ lực che
đậy tội ác của họ. Giả thuyết mà tôi (tác giả DOUGLAS PIKE) nêu lên ở đây là dự
định của cộng sản VN khi đang chiếm giữ thành phố Huế, và những vụ hành quyết
họ đã thi hành. Từ những chứng tích để lại, chúng ta có thể thấy được rằng, họ
đã không nghĩ đến tương lai của họ ở thành phố Huế, mà chỉ thi hành những mệnh
lệnh của cấp trên theo nhu cầu cần thiết, và với tình hình thay đổi lúc bấy
giờ.
Một
điều quan trọng khác nữa là đã không có một dấu hiệu nào để lại, đủ để chứng
minh rằng, một lệnh hành quyết chính thức được phát ra từ Việt cộng; Thay vào
đó, những quyết định giết để bịt miệng nhân chứng thường xảy ra theo diễn tiến
của cuộc chiến. Sự liên hệ giữa hai điều vừa nêu ra rất rõ và được chia ra vào
ba phần. Giả thuyết ở đây là Việt cộng đã phải thay đổi chiến thuật trong suốt
26 ngày tấn chiếm Huế, và cũng từ đó mà “lệnh hành quyết” cũng thay đổi để
thích ứng với nhu cầu và chiến lược. Kết luận này tôi đã có sau khi sưu tầm
những tài liệu của đảng cộng sản Việt Nam, phỏng vấn người tù số 1 và hồi
chánh, tường thuật của những nhân chứng còn sống sót, những tài liệu tịch thu
được bởi QLVNCH trên chiến trường, và những đường lối nội bộ của đảng cộng sản
Việt Nam lúc bấy giờ.
Chiến
lược của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Communist Party of South Vietnam - PRP)
cho Phần 1 chiến dịch Đông Xuân đã được nói ra rất rõ trong quân lệnh phát hành
trong đêm ba mươi trước ngày tổng tấn công: “…phải nhất quyết phối hợp các
thành phần VC trong thành phố sau khi chiếm được thành phố. Cấp tố trang bị vũ
khí cho các cán bộ chính trị cũng như dân sự, thành lập ủy ban quản trị từ tỉnh
xuống đến quận hạt, phường khóm, thành lập các toán dân sự chiến đấu và các cơ
cấu để yễm trợ quân đội khi chiến đấu, dùng dân để thành lập tuyến phòng không,
và nâng cao tinh thần đấu tranh của mọi giới cấp để phòng thủ khi ngụy quân
phản công...”
Đây
là những dự tính và đã xảy ra như vậy lúc ban đầu. Tuy nhiên, những ngày sau
đó, những biến chuyển tình thế đã được thuật lại với chi tiết khác nhau. Đài Hà
Nội, ngày mồng bốn tháng Hai đã nói: “Sau một giờ tấn công, Quân Đội Nhân Dân
đã chiếm được biệt thự của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, nhà tù và tất cả các văn
phòng cơ cấu của chánh phủ ngụy … Quân Đội Nhân Dân đã trừng trị đích đáng
những tên tay sai ác độc của quân ngụy và kiểm soát chặt chẽ các đường phố, bắt
giữ những tên phản động, phản cách mạng, và đánh xập đổ chánh phủ ngụy hà hiếp
nhân dân …”
Trong
thời gian ngắn ngủi chiếm đóng thành phố Huế, những cán bộ chính trị cộng sản,
tháp tùng bởi các toán hành quyết, đi bắt và giết sạch các yếu nhân của tỉnh
Thừa Thiên để chánh phủ VNCH sẽ bị yếu đi sau khi Việt Cộng rút lui ra khỏi
thành phố. Đây là giai đoạn “hành quyết theo sổ đen”. Tòa án nhân dân được dựng
lên, buộc tội, và hành quyết một cách chớp nhoáng. Những tên cán bộ xuất hiện,
tay cầm danh sách và địa chỉ của các nạn nhân, ra tay thủ tiêu các thành phần
mà chúng gọi là “phản cách mạng”.
Những
phiên tòa này thường được diễn ra ở những nơi công cộng, hoặc trong vườn rộng
dùng làm bộ chỉ huy dã chiến của việt cộng. Phiên xử thường chỉ cần 10
phút để VC tuyên truyền, đọc cáo trạng, và buộc tội. Không có một bị can nào
được trắng án. Hình phạt luôn luôn là “tử hình”, và thường các bị can đã bị xử
bắn ngay tại chổ. Xác của họ được chôn gấp rút, hay trả lại cho gia đình nếu
xin. Những người bị bắt xữ theo lối này, nhiếu nhất là các công an, cảnh sát
của thành phố, nhất là các ban an ninh, mật vụ, quân nhân và binh sĩ, và những
người không phải là cảnh sát hay quân đội, nhưng là những vị lãnh đạo của các
đảng phái, cộng đồng, giáo sư và các tôn giáo.
Ngoài
sự tấn công ác độc nhắm vào thành phần “trí thức” ở Huế, Phần 1 của chiến dịch
Đông Xuân đi theo đúng phương thức hoạt động của đảng cộng sản Việt Nam. Hủy
diệt thành phần trí thức đã liên tục xảy ra trong các làng xã trong suốt 10 năm
trước đó. Sổ đen và địa điểm hoạt động đã được chọn lựa kỹ càng trước, Việt
cộng chỉ chờ cơ hội để thi hành những dự tính này mà thôi.
Tuy
nhiên, không phải mọi người trong “sổ đen” ở Huế đã bị sát hại. Rất nhiếu người
trong sổ đen đã chạy trốn vào vùng thôn dã và đã thoát chết. Suốt cuộc chiến 24
ngày liền, trong những ngày đầu, cán bộ cộng sản rất bận rộn truy lùng tìm bắt
tất cả mọi người trong sổ đen, nhưng sau đó, họ đã chuyển mọi nỗ lực vào các
công tác mới khi đã không bắt được hết tất cả.
HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI
HUẾ: GIAI ĐOẠN HAI
Trong
những ngày đầu, cuộc tấn công Tết Mậu Thân ở Huế đã thành công khá dễ dàng
(nhưng ở miền Nam thì lại khác, Ủy Ban Đảng Cộng Sản Trung Ương đã nhận những
bản báo cáo về kết quả không được mỹ mãn cho lắm từ vùng đồng bằng sông Cửu
Long) nên trong say mê chiến thắng, Việt Cộng tưởng họ có thể giử được thành
phố Huế lâu dài. Có thể, các đảng viên cao cấp đã không dám nghĩ đến quyết định
tử thủ dài hạn ở Huế, nhưng đối với cấp cán bộ tại làng xã thì họ đã vững tin
như thế. Một thông tin mật của cộng sản bị VNCH bắt nghe được trong ngày Mồng
Hai tháng Hai, kêu gọi các cán bộ ở mọi hạ tầng cơ sở phải quyết tâm tử thủ
Huế, đã tuyên bố như sau: “Một giai đoạn mới trong lịch sử, một cuộc cách mạng
đã bắt đầu (vì chiến thắng ở Huế) và chúng ta chỉ cần đánh nhanh đánh mạnh (ở
Huế) để kết thúc cuộc giải phóng trong thắng lợi vinh quang.”
Tờ
báo chính thức của đảng cộng sản, Nhân Dân, cũng đã tuyên bố như thế: “Như một
tia sét, đảng và nhân dân đã tổng tấn công đế quốc Mỹ và các tay sai đế quốc Mỹ
… Guồng máy Ngụy đã bị tiêu hủy. Những bộ phận cơ cấu của Mỹ-Ngụy đã bị cách
mạng đánh tan rã. Chính phủ Thiệu-Kỳ sẽ hoàn toàn sụp đổ. Quân tay sai đế quốc
Mỹ đã trở thành yếu hèn và sẽ không thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi các chiến
sĩ cách mạng.”
Đương
nhiên, những tin tức này luôn luôn để tuyên truyền và mê hoặc quần chúng,
thường các tin tức loan tải bởi cơ quan truyền thông của đảng cộng sản là như
thế. Muốn biết được những điều này là sự thật hay chỉ là ước nguyện của đảng
cộng sản thì thật rất khó phân biệt. Nhưng từ những cuộc phỏng vấn các tù binh
và hồi chánh viên, cũng như bắt được làn sóng để nghe lén những mật tin của
cộng sản, các cán bộ cao cấp cũng như lính cộng sản đều đã tin rằng, họ sẽ
chiếm giử thành phố Huế mãi mãi, và họ đã cố gắng làm như vậy.
Giữa
những việc họ làm là tiếp tục thanh trừng những phần tử phản động còn lại và
bắt đầu xây dựng lại hạ tầng cơ sở mới cho đảng và do đảng. Chỉ thị mới được
ban hành, từ ủy ban chính trị trong thành phố, cho các cán bộ Việt cộng đi truy
lùng và bắt những phần tử “chống cách mạng”, có nghĩa là, bất cứ những cá nhân
hoặc tổ chức nào có khả năng và nhân lực để đi ngược lại đường lối của đảng
trong tương lai. Chỉ thị này rất mơ hồ, và đã không dựa lên phương pháp “sổ
đen” nữa, mà ủy thác toàn quyền quyết định đến người thi hành chỉ thị. Lần
này, mục tiêu không còn là vài nhóm người nữa, mà là “tổ chức hoặc giai cấp
trong xã hội.”
Như
đã thấy trước đây ở ngoài Bắc Việt hoặc ở Trung Cộng, đảng cộng sản lúc nào
cũng san bằng những giai cấp trong xã hội, tiêu diệt những người trí thức, lãnh
tụ các đảng phái chính trị, các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo (các cao
tăng Phật Giáo, các Linh Mục Công Giáo), các đảng phái, các tổ chức xã hội (đàn
bà, tuổi trẻ, hướng đạo), ngay cả những sinh viên thân cộng trước đây nhưng vì
gia đình khá giả thuộc loại tư bản.
Cũng
như thế, đôi khi cả gia đình đều bị sát hại dưới bàn tay cộng sản. Trong một
trường hợp khá nổi tiếng do nhiều nhân chứng thuật lại như sau:
Một
toán cán bộ ám sát đã xông vào một căn nhà của một người có địa vị trong thành
phố Huế, bắn ông ta, vợ ông ta, con trai và con dâu, con gái còn nhỏ, hai người
đầy tớ và đứa bé con của họ! Ngay cả con mèo cũng bị bóp cổ cho chết, con chó
thì bị đập vỡ sọ, những con cá vàng trong chậu cũng bị đổ ra sàn nhà dãy dụa
chết. Sau khi những tên cán bộ bỏ đi, trong nhà không còn một ai sống sót. Một
“cơ cấu xấu của xã hội” đã bị tiêu diệt!!!
Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức, giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam. Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến CSVN. Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỹ 1920, 1930. Huế không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi sâu với nhân tánh như đạo Phật.
Giai đoạn 2 cũng gồm có những hoạt động nhắm vào những giai cấp trí thức, giai cấp mà có lẽ có rất nhiều ở Huế hơn những vùng khác ở Việt Nam. Những học giả còn sống sót ở Huế đã giải thích việc này như một mối thù truyền kiếp của cộng sản đối với giới trí thức của Huế, mà đại đa số là những người tuyệt đối chống cộng, đã không màng đến CSVN. Những học giả ở Huế xem thường chủ nghĩa cộng sản như một ý thức “đến sau”, sau những chủ thuyết khác, và đã xem nhẹ vấn đề cộng sản. Cố Đô Huế, một thủ đô cổ kính, với rất nhiều giới trí thức thấm nhuần đạo lý Khổng Tử, cộng thêm những giáo thuyết nhà Phật, đã không chú ý đến chủ nghĩa cộng sản kể từ những năm đầu trong thập kỹ 1920, 1930. Huế không màng biết tới cộng sản là gì? Thí dụ điển hình là trong Viện Đại Học Huế, một lớp học về các chủ thuyết chính trị trên thế giới, thời gian học là một năm, nhưng chỉ dành vỏn vẹn có nửa giờ để nói sơ sài về chủ thuyết Marxism-Leninism, lại nói rõ rằng ý thức cộng sản không có gì mà chỉ là một ý thức nông cạn, mọi rợ và đã không có chiều sâu, cũng như đã không được trắc nghiệm như những chủ thuyết khác như Khổng Tử hoặc Đạo giáo, với những bí kiếp nhiệm mầu, tư tưởng cao siêu, và đã đi sâu với nhân tánh như đạo Phật.
Vì
thế nên những người cộng sản gốc Huế, khi đã thấm nhuần và mù quáng bởi chủ
nghĩa cộng sản, đã trở thành những kẻ vô tri, vô hồn khi bị hất hủi bởi những
giới trí thức khác hay tôn giáo ở Huế. Hoặc tệ hơn nữa, thay vì bị hất hủi, họ
đã bị loại hẳn ra khỏi giới trí thức Huế. Vì thế, với sự trung thành và tin tưởng
tuyệt đối vào chủ thuyết cộng sản, họ đã tìm cách trả thù và san bằng những sự
khác biệt này. Những người trí thức còn sống sót đã phải trả một giá rất đắt
cho bài học này, từ đó họ đã chú ý đến và e sợ cộng sản hơn, nếu không là một
chủ thuyết chính đáng, ít nhất cũng phải là một nhóm cuồng tín vô thần rất nguy
hiểm!
Trong
giai đoạn 2, có lẽ khoảng 2,000 người đã bị cộng sản giết hại. Nhưng đó vẫn
chưa phải là giai đoạn sát hại khủng khiếp nhất.
HUẾ: GIAI ĐOẠN BA
HUẾ: GIAI ĐOẠN BA
Cuối
cùng rồi, cũng như Trung Ương Cộng Sản ở Hà Nội đã biết trước (vì đã hiểu rõ
thế và sức mạnh của QLVNCH và đồng minh), con cờ đã xoay chuyển trong cuộc
chiến ở Huế. Một bản mật tin truyền đi từ Thành Nội (bị QLVNCH nghe được) bởi
đám tàn quân Việt Cộng ngày 22 tháng Hai, xin ban tham mưu hành quân cho phép
được rút quân. Bản trả lời như sau từ bộ chỉ huy: không cho phép rút
quân, ngày hôm sau, 23 tháng Hai, phải tấn công nữa. Trận tấn công ngày 23 đã
xảy ra, nhưng rất yếu ớt, không gây thiệt hại gì cho bên VNCH và đồng minh. Vào
ngày 24 tháng Hai, Thành Nội được giải tỏa khi VC bị đánh bại.
Từ
tuần trước đó, Cộng Sản Việt Nam đã thấy rõ sự thất bại sẽ phải đến. Khi đó,
giai đoạn 3 mới bắt đầu: giai đoạn thủ tiêu nhân chứng và tang chứng. Có thể
trong suốt giai đoạn 2, hầu hết tất cả những việt cộng nằm vùng ở Huế đã bị lộ
mặt nạ. Ngay cả những cán bộ nằm vùng trước đó, dù đã không bao giờ bị nghi ngờ
là VC, nay cũng đã ra mặt (vì tin tưởng rằng Huế đã và sẽ mãi mãi thuộc vào tay
cộng sản). Chuyện thường tình như một dân Huế kể lại sự ngạc nhiên của ông khi
biết được người hàng xóm bên nhà là một cán bộ nằm vùng cao cấp trong hàng ngũ
MTGPMN (hắn là một cán bộ cao cấp trong thành phố Huế): “Tôi biết ông ta 18 năm
nay, mà không bao giờ nghĩ đến ông ta có thể hoạt động chính trị như vậy.” Những
người cán bộ này nằm vùng rất lâu, và chỉ lộ diện mỗi khi không có ai hay biết
để giữ kín tông tích của mình.
Vì
thế, giai đoạn 3 khởi đầu để “bịt miệng nhân chứng”. Có thể giai đoạn
này, số nạn nhân lên cao nhất ở Huế, cũng vì lý do này. Những người trước đó bị
bắt đi học tập với ý định ban đầu là sẽ thả họ về. Nhưng vì là dân làng, cũng
như những tên cán bộ nằm vùng đã bắt họ; tên tuổi và mặt mũi của những cán bộ
này giờ đã lộ. Vì thế, họ đã phải chết, không phải vì là một con nợ hay gánh
nặng, nhưng vì họ sẽ trở thành những người tố cáo những tên nằm vùng. Ví dụ rõ
ràng nhất là nhóm người bị bắt đi từ nhà thờ Phủ Cam. Hay trường hợp của 15 em
học sinh trung học bị chôn ở Phú Thứ trong các gò muối biễn.
Việc
tìm những tài liệu lịch sử để đi đến một kết luận cho lý do tại sao, dựa trên
một vài giả thuyết, đương nhiên sẽ có chỗ đúng chỗ sai, và chỉ vẽ lại một hình
ảnh khá sơ sài cho độc giả. Sự việc xảy ra ở đời thường không đơn giản như bài
viết. Ví dụ như, cho dù trong suốt thời gian những vụ hành quyết dựa vào “sổ
đen” đang xảy ra, đương nhiên cũng có những chuyện trả thù theo “đường lối công
bằng của cách mạng”. Và chắc chắn cũng có những vụ trả thù riêng tư giữa những
cán bộ với người họ ghét bỏ!
Quan
điểm chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thảm sát ở Huế được nói rõ ra
trong một cuốn sách nhỏ phát hành ở Hà Nội:
“Liên
kết và phối hợp với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và nhân dân, những toán nhân
dân võ trang và cán bộ võ trang thành phố Huế đã bắt giữ và kêu gọi những tay
sai đế quốc, sĩ quan VNCH và binh lính của quân ngụy ra đầu hàng. Những tên
ngoan cố đã được trừng trị đích đáng.”
Ở
Hòa Đàm Paris, Cộng Sản Việt Nam đã công bố việc thảm sát này không phải do bàn
tay của đảng Cộng Sản, mà chính là hành động của những cán bộ ở Huế bất mãn với
chế độ. Tưởng cũng nên nhắc lại: vào ngày 26 tháng Tư năm 1968, Đài Giải Phóng
Hà Nội đã chê trách việc chính phủ VNCH cố tìm xác của các nạn nhân, đài đã
phát thanh rằng những người bị giết hại chỉ là “những tên tay sai đã nhúng tay
vào máu của nhân dân yêu nước ở Huế và họ đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa giết
hại vào tháng Ba tháng Tư.”. Những lời tuyên truyền này sau đó đã được thay thế
bởi một lý do khác là “thảm sát ở Huế chỉ là những vụ thanh toán tranh chấp
giữa các đảng phái ở Huế mà thôi.”
Ngô
Xuân Hùng
Thung Lũng Hoa Vàng,
ngày 15 tháng Tám, năm
2002.
(Thứ
nam của Cố Ðại Tá Ngô Thế Linh,
Phó Giám Ðốc Nha Kỹ
Thuật,
Bộ Tổng Tham Mưu, Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa)
Xin
ghi nhận và chân thành cảm tạ cố Giáo Sư Douglas Eugene Pike, trường Ðại Học
Texas Tech, Texas, U.S.A..
No comments:
Post a Comment