Những đơn vị Hải Quân cuối cùng của QLVNCH vẫn
còn tinh thần kỷ luật cao độ đã giúp đỡ dân chúng tận tình.
Trong cuộc triệt thoái từ Vùng I, Vùng
II chiến thuật và Sàigòn hay Phú Quốc, Không một giới chức hay một người dân
nào là không ca ngợi sự hy sinh và tinh thần kỷ luật của các thủy thủ đoàn trên
các chiến hạm.
Hơn một trăm ngàn di tản một cách an
toàn trên các chiến hạm Hải Quân. Ngày 5 tháng 5 năm 1975, hàng ngàn đồng bào
đã cùng thủy thủ đoàn các chiến hạm làm lễ hạ kỳ lần cuối cùng trên một
"lãnh thổ nối dài" của Việt Nam Cộng Hòa là các chiến hạm Hải Quân
tại vịnh Subic Bay, Phi Luật Tân. Trong buổi lễ hạ kỳ đó, hàng ngàn đồng bào đã
cùng khóc với các chiến sĩ Hải Quân. Ðó là lần đầu tiên người Việt Nam khóc cho
hận mất nước, những tiếng khóc ấy vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay, hơn hai
mươi ba năm sau, trong tâm khảm của tất cả dân Việt.
Các đơn vị còn lại sau cùng của Hải Quân
đã hiên ngang chấp nhận cái thách đố nghiệt ngã của cuộc chiến, đi vào đường
chết để tìm sự sống. Cả đơn vị chiến đấu như một khối thuần nhất. Tình đồng đội
lúc ấy thể hiện đầy đủ. Sự hy sinh nào cũng đau đớn, nhất là chọn lựa sư hy
sinh chính đời sống bản thân mình để bảo toàn danh dự Quân Ðội, danh dự đơn vị
cùng mạng sống của các chiến hữu thuộc quyền mình. Sự hy sinh đó mới thật là
cao cả tột cùng, xứng đáng cho toàn thể chúng ta ghi nhớ.
Một tấm gương hy sinh dũng liệt của Hải
Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn
Hải Quân Thiếu Tá Lê
Anh Tuấn, sanh năm 1943, con của ông bà Lê Chân. Thiếu Tá Tuấn xuất thân Khóa 14 Sĩ
Quan Hải Quân, đã từng phục vụ hầu hết các chiến hạm của Hạm Ðội, Duyên
Ðoàn 27, Duyên Ðoàn 23, Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân, và chức vụ cuối
cùng là Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 43 Ngăn Chặn.
LƯỠI GƯƠM SẮT KÊ VÀO HỌNG KẺ THÙ
LƯỠI GƯƠM SẮT KÊ VÀO HỌNG KẺ THÙ
PHAN – QUÂN
Trong cuộc chiến lâu dài và đầy gian khổ của
chúng ta vừa qua (và hiện vẫn còn tiếp tục), đã có biết bao nhiêu chiến hữu có
những hành động hào hùng. Tiếc là chúng ta không có khả năng để ghi chép lại
được. Tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải viết về một người mà tôi hằng quen biết và
yêu mến. Người ấy đã có nhiều đức tánh rất đáng ca ngợi, và kết thúc đời mình
một cách dũng cảm. Ðó là HQ Thiếu Tá Lê Anh Tuấn.
Tuấn học Khóa 14 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang.
Khi tôi làm Trưởng phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân, và có nhiệm vụ phụ
trách giảng dạy về ngành liên hệ của mình cho lớp Tham Mưu Trung Cấp tại
Sàigòn, tôi có biết Tuấn. Tôi còn nhớ khi tôi hết giờ thuyết trình, Tuấn tìm
đến gặp tôi và nói: "Qua phần trình bày của commandant, thì ngành CTCT
thật là cần thiết, nhưng… theo tôi thấy, hình như Quân Ðội chúng ta đã không
coi vấn đề này như chúng ta quan niệm đâu…" Lời nhận xét của Tuấn làm tôi
chú ý đặc biệt. Ðặc biệt vì Tuấn có những nhận xét tinh tế và thẳng thắn, ngoài
ra còn có lối trình bày khúc chiết và hấp dẫn. Từ đó tôi chú ý đến Tuấn rất
nhiều. Và sau này Tuấn đã đồng ý về làm Phó Trưởng Phòng cho tôi. Mặc dù không
ở trong ngành nhiều, Tuấn đã thay tôi điều hành công tác một cách khéo léo và
sắc bén. Từ đó chúng tôi có với nhau một thứ tình sâu đậm. Lo lắng và để ý đến
nhau rất nhiều.
Suốt hai năm Tuấn phục vụ Bộ Tư Lệnh tại
Sàigòn, hầu như đêm nào Tuấn cũng vào ngủ tại phòng làm việc. Phần vì tiện,
phần vì để có thì giờ giải quyết các vấn đề cần thiết khi tôi vắng mặt, phần vì
Tuấn muốn lợi dụng thời gian ở Sàigòn để tiếp tục học bên cử nhân Luật Khoa.Và
Tuấn đã thành công, trong hai năm vừa làm vừa học, Tuấn đã lấy xong hai chứng
chỉ Luật. Ðầu năm 1973, vì nhiều chuyện không được như ý, đặc biệt là có nhiều
áp lực từ nhiều phía, tôi làm đơn rời chức vụ để đi học, rồi đi tàu. Tuấn, sau
thời gian xử lý Trưởng Phòng TLC, cũng đã xin đi đơn vị chiến đấu. Trước khi
làm đơn xin đi, Tuấn có tìm gặp tôi và cho biết ý định ấy, tôi có hỏi Tuấn:
- Sao lại đi? Toa ở đây gần hai năm. Ðợi một
thời gian nữa móc cái Trung Tá nhiệm chức cái đã, đi làm gì cho uổng.
Tuấn cười, nói:
- Commandant ở chức vụ cao hơn tôi, và đã trên
hai năm, rồi cũng phải làm đơn xin đi, ở lại làm gì?
- Cậu khác, tôi khác.
- Ý Commandant muốn nói về ảnh hưởng của ông
anh tôi?
- Một phần như vậy.
Tuấn cười, nói:
- Tất nhiên là nếu tôi nuốn, chắc ông ấy cũng
sẽ can thiệp, nhưng thật tình tôi không muốn vì nhiều lẽ:
Thứ nhất là chưa cần phải phiền đến anh tôi.
Thứ hai, mặc dù ở Sàigòn, lại đảm nhiệm chức vụ có cấp số cao, so với anh em khác tôi thấy hơi kỳ….
Thứ hai, mặc dù ở Sàigòn, lại đảm nhiệm chức vụ có cấp số cao, so với anh em khác tôi thấy hơi kỳ….
Sau lần gặp gỡ ấy, Tuấn xin đi đơn vị tác chiến. Lâu lâu trở lại Sàigòn công tác, và cũng để lấy bài trên trường Luật, Tuấn thường ghé thăm tôi. Tuấn thường nhắc đến những liên lạc đặc biệt giữa anh và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Có lần Tuấn nói: "Ông tướng Nam lâu lâu lại bay xuống làm mình ngán bỏ mẹ. Nhưng được cái ông ấy giản dị, lại rất hợp với tôi, còn độc thân, nên nhiều lúc vui lắm…" Tuấn kể lòng vòng nhiều chi tiết giữa cá nhân và công vụ, nhưng tất cả đều toát ra rằng nơi Tuấn đóng là một vị trí quan trọng. Tuấn đảm nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 43 Ngăn Chặn, đóng chung căn cứ với Giang Ðoàn 64 Tuần Thám do Thiếu Tá Vũ - khóa 12 là Chỉ Huy Trưởng. Vì là một "địa điểm yết hầu rất quan trọng" ngăn chặn đường tiếp vận của địch từ vùng Mỏ Vẹt xuống, tiếp tế cho Vùng IV Chiến Thuật, nên địch hầu như lúc nào cũng gây áp lực nặng nề tại đây. Tuấn đã phải đương đầu với hiều cuộc pháo kích, tấn công thật nặng nề. Và sau đây là một cuộc tấn công được coi là ác liệt nhất, theo lời thuật lại của một số bằng hữu của Tuấn và cả các vị Chỉ Huy trực tiếp của Thiếu Tá Tuấn nữa.
Khoảng đầu năm 1975, tin tình báo cho hay địch
có ý định dứt điểm căn cứ Tuyên Nhơn do Thiếu Tá Vũ và Thiếu Tá Tuấn chỉ huy
hai Giang Ðoàn 64 Tuần Thám và 43 Ngăn Chặn tại đây. Do đó việc tuần tiểu các
nhánh sông quanh vùng như kinh Tuyên Nhơn, sông Vàm Cỏ đoạn giữa Mộc Hóa và
Tuyên Nhơn càng trở nên cấp thiết. Hàng ngày Tuấn đích thân xuống từng chiến
đỉnh xem lại máy tàu, xem lại từng ổ súng và thường cười nói với các anh em
đoàn viên: "Không phải tôi nói dọa đâu. Mình cỡi hổ rồi đấy. Phải thận
trọng tối đa thì mới mong có ngày về phép kỳ tới". Và hằng đêm Tuấn vẫn
thường thức trắng, vừa học bài vừa sẵn sàng theo dõi mọi hoạt động và sự canh
phòng căn cứ. Một đêm, đâu như vào đầu tháng năm 1973, Vũ, vị sĩ quan thâm
niên, vắng mặt vì công vụ, Tuấn đương nhiên phải trông coi cả hai Giang Ðoàn.
Từ sáng, Ðại Tá Thông (đầu bạc), vị chỉ huy trực tiếp của Tuấn, đã duyệt lại
tình hình với Tuấn và nhắc: "Các cậu phải thận trọng tối đa đó nghe".
Rồi Phó Ðề Ðốc Ðặng Cao Thăng, với tư cách là Tư Lệnh Hạm Ðội Ðặc Nhiệm 21,
cũng nhắc qua hệ thống âm thoại: "Cẩn thận nghe Tuấn…" Tuấn nghe lệnh
chỉ "Dạ" rồi nhìn lên tấm bản đồ trong phòng Hành Quân. Các vị trí phản
pháo đã có sẵn. Các điểm hỏa lực cũng đã được bố trí thật chu đáo. Có điều Tuấn
lo là tình trạng căng thẳng này kéo dài quá lâu, sợ tinh thần anh em nản và lơ
là. Vì thế giữa cái lo lắng cực độ, Tuấn làm ra vẻ cười đùa với các đoàn viên.
Buổi chiều Tuấn hay uống bia. Ðôi khi xách chai Quân Tiếp Vụ đi ra ụ súng uống
với Lính.
Vào lúc hai giờ sáng, khi cuốn Công Pháp Quốc
Tế đang đến chỗ khó, mệt, Tuấn gấp sách lại, đi tiểu, rồi đi một vòng quanh căn
cứ. Cùng lúc ấy Tuấn kêu cho các chiến đỉnh đang đi tuần phải sẵn sàng theo kế
hoạch đã ấn định. Tuấn dứng trên nóc lô cốt chính nhìn ra bốn phía. Những hàng
đèn vàng, èo uột lấp lánh qua những hàng kẻm gai. Gió thổi mát. Tuấn nhìn qua
sông. Mặt sông phẳng lặng. Bên kia bờ sông những lùm cây đen xẫm. Những con đôm
đốm loé lên từng đợt. Không hiểu sao Tuấn thấy rờn rợn; Tuấn định thần lại thấy
sao đêm nay tĩnh mịch quá. Thiếu hẳn tiếng vạc bay qua bầu trời. Thiếu tiếng
chim đêm…. Tất cả như một chờ đợi kinh khiếp sắp xảy ra. Tuấn cho chiếu đèn pha
ra ngoài rào. Ánh sáng lóe lên, Tuấn thấy bờ rào phía Bắc căn cứ bọn Cộng phỉ
lô nhô, và từng tràng đạn bừng lên từ bốn phía.
Ngay lúc ấy, hỏa lực của ta chống trả lại ngay,
hỏa châu được bắn lên sáng rực bầu trời. Các ổ súng đều vững tay súng. Các
chiến đỉnh đi tuần, được lệnh theo kế hoạch nằm im, và bây giờ xả máy về giải
vây. Trên hệ thống âm thoại các chiến đỉnh báo cáo đều. Hệ thống báo cáo với
thượng cấp cũng được tức thời sử dụng. Tuấn trong phút bùng lên của lửa đạn vẫn
thật bình tĩnh báo cáo: "Thưa Thẩm Quyền, tôi bị tấn công mãnh liệt từ bốn
phía, đang phản công, sẽ thông báo sau…".
Sau đó, đích thân Tuấn đi từ ổ súng để đốc thúc
và nhắc nhở: "Không bắn phí đạn. Ðợi chúng qua hàng rào thứ nhất, ta dùng
mìn Claymore đã…" Bên ngoài nghe tiếng "xung phong!" Dưới ánh
hỏa châu, từng hàng người đen thẫm lấp loáng trong bóng đêm đang lũ lượt tiến
vào hàng rào thứ nhất. Tuấn nhìn thấy rõ, và nói: "Bấm nút mìn". Ầm…
Lửa bùng lên quanh đồn, hất đi tất cả những thây người tung tóe. Có những xác
vắt vẻo trên hàng kẻm gai. Ðợt thứ nhất qua, đợt thứ hai lại như thế. Nhưng
địch cậy đông, chúng dùng kèn thúc quân, và từng đợt khác lại tiến lên. Lúc ấy
các chiến đỉnh đã về đến nơi. Ðại liên 20 ly, 30 ly, 40ly… đủ loại từ mặt sông
cày lên, đạn chéo quanh căn cứ. Trong đài chỉ huy, Tuấn châm một điếu thuốc Quân
Tiếp Vụ và ra lệnh cho các cho các chiến đỉnh: "Cứ từ từ, bắn từng đợt
thôi, đợi tụi nó nhào tới mới khai hỏa."
Cho đến gần sáng thì địch dùng hỏa lực từ xa
pháo tới ào ạt. Các chiến đỉnh tạm thời phải chạy xa căn cứ tránh đạn. Hỏa lực
phòng thủ chỉ còn trông vào các họng súng trong căn cứ. Tuấn nói với các sĩ
quan trong phòng Hành Quân:
- Thế nào cũng còn một đợt nữa, hãy tiết kiệm
đạn, cố giữ cho đến sáng.
Quả như vậy, đợt pháo vừa chấm dứt hàng hàng
lớp lớp quỉ đỏ lại nhào vô. Ðợt mìn chót được sử dụng và hàng rào kẻm gai chỉ
còn lớp chót, dưới ánh hỏa châu quanh đồn la liệt những xác địch quân.
Cho đến 7 giờ sáng chúng mới rút. Sương còn
giăng mắc trên mặt sông và đọng ở những lùm cây. Tuấn cầm trên tay ly cà phê
nóng, uống từng ngụm nhỏ rồi báo cáo cho thượng cấp:
- Thưa thẩm quyền, chúng vừa rút. Chi tiết
chúng tôi sẽ kiểm điểm và trình thẩm quyền sau.
Vào khoảng 11 giờ trưa, chiếc trực thăng đưa
phái đoàn của thượng cấp tới. Chiến trường còn la liệt xác địch cháy cong queo.
Một số lớn vũ khí của địch bỏ lai trong đó có một khẩu súng đại bác không giựt
loại mới nhất của Trung Cộng lần đầu tiên được ghi nhận tại chiến trường Vùng
IV Chiến Thuật. Phó Ðề Ðốc Ðặng Cao Thăng, Ðại Tá Thông bước ra khỏi trực
thăng, Tuấn đã đứng đó, ánh mắt sáng nhưng không dấu được nét mệt mỏi qua làn
kính cận, nhưng dáng điệu vẫn bình tĩnh, tự tin. Qua thuyết trình, phái đoàn
cho biết theo tin của của phòng nhì, địch đã tung vào cuộc tấn công với một lực
lượng hùng hậu gồm có một Trung Ðoàn của Công Trường 5 (Sư Ðoàn), hai đơn vị
súng nặng quyết san bằng cho được cứ điểm Tuyên Nhơn. Nhưng tất cả đã xảy ra
ngoài dự liệu của chúng. So sánh những thiệt hại đôi bên với sự chênh lệch một
trên tám, ta đã bẻ gãy hoàn toàn ý đồ của chúng.
Sau chiến tích này, trong một dịp về công tác ở
Bộ Tư Lệnh Tuấn có ghé thăm tôi và kể lại trận chiến, kẻ viết bài này có nói
với Tuấn:
- Theo dõi trận đánh qua Trung tâm Hành quân,
toa phản ứng đẹp quá.
Tuấn cười nói:
- Tôi đi tiểu đêm, nên phản ứng đúng lúc. Cả
hai chúng tôi cùng cười rồi Tuấn nói tiếp. Ông Nam (Thiếu Tướng Nguyễn Khoa
Nam) có gọi tôi và nói ông chạy cho tôi một chân tỉnh trưởng nào đó….
- Thế là đeo lon trước tôi.
- Ðâu có, Commandant đeo thực thụ còn tôi may
ra chỉ nhiệm chức, còn việc qua bên hành chánh tôi muốn thư thả để cho xong cái
bằng Luật đã, kẻo họ lại bảo mình lấy lon đè nhau.
Ðó là lần chót tôi gặp Tuấn. Khi bắt tay từ giã
tôi có nói với Tuấn thế này: "Biểu diễn như thế được rồi, nên nghĩ đi
ông" "Binh đường khác đi". Tuấn cười đáp "Ðể từ từ
đã". Nhìn mái tóc Tuấn khôn, da mặt xanh tái theo như sách tướng là tướng
xấu, nhưng đôi mắt vẫn tinh anh và sánh, tôi cũng yên tâm phần nào.
Sau đó là những ngày đất nước chìm ngập trong
cơn đổi thay. Gia đình Tuấn di tản được hết qua Hoa Kỳ. Người anh cả của Tuấn
là một vị Tướng có nhiều liên hệ với Hải Quân, hình như đã có lần trách cứ:
"Các Anh khi di tản đã quên thằng Tuấn…". Lời trách cứ ấy đã làm áy
náy nhiều người. Vì có tin tàu Tuấn bị B40 bắn chìm hôm 30-4-1975, Tuấn tử nạn.
Nhưng mới đây qua sự tiết lộ của Phó Ðề Ðốc Ðặng Cao Thăng, căn cứ trên lời
tường thuật lại sủa một sĩ quan dưới quyền Tuấn, có mặt trên đoàn tàu của Tuấn,
thì sự việc diễn ra khác hẳn, cái chết của Tuấn rất anh dũng như sau:
Trong những ngày chót của miền Nam, địch bám
sát quanh căn cứ Tuyên Nhơn như đỉa đói, chúng đào hầm quanh đồn hở ra chúng
bắn xẻ. Chúng chận cứng kinh Tuyên Nhơn để trong ngoài không tiếp cứu được
nhau. Trước tình thế ấy, Tuấn vẫn bình tĩnh đốc thúc anh em binh sĩ phòng thủ,
đặc biệt là bảo vệ khu gia binh. Chiều 29-4-1975, khi Bộ Tư Lệnh Hải Quân ra
lệnh: "Kể từ giờ phút này các anh được quyền tự do quyết định" thì
Tuấn đã cho họp ban Tham Mưu để thảo luận khế hoạch di tản ra biển, rồi sẽ
tính. Nửa đêm 29 đoàn chiến đỉnh rời căn cứ Tuyên Nhơn mang theo tất cả gia
đình binh sĩ, trong căn cứ đã được gài mìn và vẫn để đèn nhằm đánh lạc hướng
địch.
Khi đoàn chiến đỉnh rời căn cứ địch bắn theo dữ
dội, dưới chiến đỉnh vẫn bắn trả lại lấy lệ và tiếp tục tiến ra sông Vàm Cỏ.
Ðến khúc quẹo cách vàm kinh Tuyên Nhơn 10 cây số lòng sông hẹp, cây cối rậm rạp
Tuấn tin chắc bọn quỉ đỏ sẽ phục kích đoàn chiến đỉnh ở đây. Quả đúng vậy, hai
chiến đỉnh đi đầu đã bị bắn và bốc cháy sáng cả một khúc sông rồi chìm lần.
Ðoàn chiến đỉnh đành tạm giảm máy. Trên đài chỉ huy Tuấn để chiếc radio vặn
nhỏ, theo dõi các diễn tiến của Sàigòn. Tuấn liên lạc với Bộ Chỉ Huy nhưng hệ
thống truyền tin đã rối loạn. Tuấn cho lệnh đoàn tiếp tục tiến, lại bị bắn ra
như mưa bằng đủ loại súng, trời sáng dần. Rồi lời kêu gọi của Dương Văn Minh và
Nguyễn Hữu Hạnh: "Anh em ai ở đâu ở đó để bàn giao cho phía bên kia…"
Trước tình thế đó, trên các chiến đỉnh thì chi
chít những đàn bà, trẻ con liều ra thì chết hết…. Do đó, Tuấn ra lệnh cho tất
cả chiến đỉnh thi hành lệnh của Sàigòn, ủi bãi vào bờ chiếc soái đỉnh của Tuấn
cũng vậy, nhưng khi chiếc soái đỉnh vừa ủi bãi thì cũng là lúc Tuấn dùng súng
colt bắn vào đầu tự sát. Tuấn gục ngay trên bàn máu chảy loang cả trên tấm bản
đồ hành quân.
Ðã 23 năm qua, giờ thân xác của Hải Quân Thiếu
Tá Lê Anh Tuấn đã tan biến vào lòng đất quê hương. Tôi ngồi lại để ghi những
giòng này thay cho cái chào vĩnh biệt một quân nhân quả cảm, bất khuất của Hải
Quân Việt Nam, tôi cũng muốn đặc biệt gởi đến tất cả anh em Sĩ quan Hải Quân
Khóa 14, các anh cũng nên làm một cái gì để cho người anh hùng Lê Anh Tuấn đồng
khóa của các anh được nở cụ cười trong lòng đất mẹ.
No comments:
Post a Comment