Thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao
nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn
là địa bàn cư trú của những cư dân người Lạch, người Chil và người Srê thuộc
dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ
dưỡng dành cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer đã quyết định chọn
cao nguyên Lâm Viên theo đề nghị của bác sỹ Alexandre Yersin, người từng thám
hiểm tới nơi đây vào năm 1893. Trong nửa đầu thế kỷ 20, từ một địa điểm hoang
vu, những người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên một thành phố xinh đẹp với những
biệt thự, công sở, khách sạn và trường học, một trung tâm du lịch và giáo dục của
Đông Dương khi đó. Trải qua những khoảng thời gian thăng trầm của hai cuộc chiến
tranh cùng giai đoạn khó khăn những thập niên 1970–1980, Đà Lạt ngày nay là một
thành phố 211 ngàn dân, đô thị loại I trực thuộc tỉnh, giữ vai trò trung tâm
chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Lâm Đồng.
Với độ
cao 1.500 mét so với mực nước biển và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng
bao quanh, Đà Lạt thừa hưởng một khí hậu miền núi ôn hòa và dịu mát quanh năm.
Lịch sử hơn một thế kỷ cũng để lại cho thành phố một di sản kiến trúc giá trị,
được ví như một bảo tàng kiến trúc châu Âu thế kỷ 20. Những tài nguyên thiên
nhiên và nhân văn phong phú giúp Đà Lạt trở thành một trong những điểm du lịch
nổi tiếng của Việt Nam, mỗi năm thu hút hàng triệu du khách tới thăm viếng và
nghỉ dưỡng. Đà Lạt còn là một trung tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học, một
thành phố đa dạng về tôn giáo với sự hiện diện của hàng trăm ngôi chùa, nhà thờ,
tu viện... một vùng nông nghiệp trù phú đặc biệt với những sản phẩm rau và hoa.
Nhờ khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và di sản kiến trúc phong
phú, Đà Lạt còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như “Thành phố mù sương”,
“Thành phố ngàn thông”, “Thành phố ngàn hoa”, “Xứ hoa Anh Đào” hay “Tiểu Paris”.
Mặc dù
là một đô thị du lịch nổi tiếng, nhưng Đà Lạt lại là một thành phố thiếu vắng
các địa điểm văn hóa, giải trí đa dạng. Quá trình đô thị hóaồ ạt khiến thành phố
ngày nay phải chịu nhiều hệ lụy. Nhiều cánh rừng thông dần biến mất, thay thế bởi
các công trình xây dựng hoặc những vùng canh tác nông nghiệp. Do không được bảo
vệ tốt, không ít danh thắng và di tích của thành phố rơi vào tình trạng hoang
tàn, đổ nát. Sự phát triển thiếu quy hoạch trong những thập niên gần đây khiến
kiến trúc đô thị Đà Lạt chịu nhiều biến dạng và trở nên nhem nhuốc. Trong khắp
thành phố, nhiều ngôi biệt thự cùng không ít những công trình kiến trúc chịu sự
tàn phá của thời gian mà không được bảo tồn, gìn giữ.
Tên gọi
Địa
danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ Đạ Lạch, tên gọi của con suối Cam Ly. Khởi
nguồn từ huyện Lạc Dương, dòng suối Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng bắc
– nam, trong đó đoạn từ khoảng hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là
Đạ Lạch. Theo ngôn ngữ của người Thượng, Da hay Dak có nghĩa là nước, tên gọi
Đà Lạt có nghĩa nước của người Lát, hay suối của người Lát. Trong một bài phỏng
vấn đăng trên tạp chí Revue Indochine tháng 4 năm 1944, công sứ Cunhac, một
trong những người tham gia xây dựng thành phố từ ngày đầu, đã nói: “Cho mãi tới
những năm sau này, khung cảnh ban sơ vẫn không có gì thay đổi. Ở tại chỗ của
cái hồ nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc người Lát đã chảy qua và người ta
đã gọi suối này là Đà Lạt”. Vào thời kỳ đầu, các bản đồ cũng như sách báo thường
chỉ nhắc đến địa danh Dankia hay Lang Biang. Nhưng sau khi Đà Lạt được chọn làm
nơi nghỉ dưỡng thay vì Dankia, và đặc biệt từ khi nơi đây trở thành một thành
phố, địa danh Đà Lạt mới xuất hiện thường xuyên.
Những
người có công kiến thiết thành phố còn sáng tạo một câu cách ngôn khéo léo bằng
tiếng La Tinh: Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem, có nghĩa Cho người này nguồn
vui, cho kẻ khác sức khỏe. Tác giả André Morval đã viết câu cách ngôn chiết tự
này ở đầu một bài báo nhan đề Dalat: Cité de la Jeunesse với nội dung: “Những
người khai sinh ra nơi nghỉ mát trên miền núi danh tiếng của chúng ta đã xác định
một cách rất hợp lý những nét hấp dẫn và những đặc tính tốt bằng một câu cách
ngôn ghép chữ đầu rất khéo léo để liền theo huy hiệu thành phố”. Năm 1937, khi
xây dựng chợ Đà Lạt mới thay cho ngôi chợ cũ bằng gỗ bị cháy, người ta đã đề
dòng chữ Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem trên tường đầu hồi của công trình,
phía trên là huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ
người dân tộc. Với khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và những di sản
kiến trúc Pháp phong phú, Đà Lạt còn được gọi bằng nhiều cái tên khác như
“Thành phố mù sương”, “Thành phố ngàn thông”, “Thành phố ngàn hoa”, “Xứ hoa Anh
Đào” hay “Tiểu Paris”.
Lịch sử
Bài
chi tiết: Lịch sử Đà Lạt và Biên niên sử Đà Lạt
Đà Lạt
cuối thập niên 1920, khu vực gầnkhách sạn Dalat Palace ngày nay.
Vùng
cao nguyên Lâm Viên từ xa xưa là địa bàn cư trú của người Lạch, người Chil và
người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, nhiều nhà thám hiểm người Pháp
đã thực hiện những chuyến đi xuyên sâu vào vùng đất này. Tiên phong trong số họ
là bác sỹ Paul Néis và trung úy Albert Septans với chuyến thám hiểm thực hiện đầu
năm 1881. Năm 1893, nhận nhiệm vụ từ Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan, bác sỹ
Alexandre Yersin đã tiến hành khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên qua
vùng đất của người Thượng và kết thúc ở một địa điểm trên bờ biển Trung Kỳ.
Ngày 21 tháng 6 năm 1893, trên hành trình thám hiểm, Alexandre Yersin đã tới
cao nguyên Lâm Viên. Năm 1897, trong khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm
nghỉ dưỡng (station balnéaire d'altitude) cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền
Paul Doumer gửi thư hỏi ý kiến Alexandre Yersin. Khi nhận được thư của Paul
Doumer, Alexandre Yersin gợi ý chọn cao nguyên Lâm Viên, một vùng đất lý tưởng
thỏa mãn đầy đủ các điều kiện: độ cao thích hợp, diện tích đủ rộng, nguồn nước
bảo đảm, khí hậu ôn hòa và có thể thiết lập đường giao thông. Cuối tháng 3 năm
1899, Paul Doumer cùng với Alexandre Yersin đích thân đến khảo sát thực tế tại
cao nguyên Lâm Viên.
Dự án
xây dựng Đà Lạt bị gián đoạn khi Toàn quyền Paul Doumer trở về Pháp vào năm
1902 và Toàn quyền Paul Beau, người kế vị, thì không sốt sắng gì về việc xây dựng
thị trấn miền núi. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian tiếp theo, nhiều đoàn khảo
sát vẫn được gửi đến cao nguyên Lâm Viên để nghiên cứu và các tuyến đường giao
thông tới Đà Lạt cũng dần hình thành. Giữa thập niên 1910, Thế chiến thứ nhất
bùng nổ khiến nhiều người Pháp không thể về quê hương trong những kỳ nghỉ, Đà Lạt
dần trở thành nơi họ tìm đến để tìm chút gì của nước Pháp miền ôn đới.[16] Ngày
20 tháng 4 năm 1916, Hội đồng Phụ chính của vua Duy Tân thông báo Dụ thành lập
thị tứ Đà Lạt.[17] Toàn quyền Maurice Long đi thêm bước nữa khi bổ nhiệm Ernest
Hébrard làm chủ sự quy hoạch thị trấn Đà Lạt. Hébrard là người chủ trương dùng
mẫu kiến trúc cổ điển Âu châu nhưng thêm vào đó một số trang trí thuộc mỹ thuật
Việt Nam để tạo ra phong cách riêng mà ông gọi là une architecture
indochinoise. Hébrard đã thực hiện lối kiến trúc này trong những công trình
khác như tòa nhà của Viện Viễn Đông Bác cổ, Hà Nội. Nay lối kiến trúc này được
áp dụng quy mô hơn ở Đà Lạt. Đặc biệt là Hébrard vẽ đồ án có vườn hoa, trường sở,
sân vận động, biệt thự nhưng hoàn toàn không có công xưởng sản xuất để giữ y
nguyên không gian trong lành và yên tĩnh của thị trấn này. Trong vòng ba mươi
năm, từ một địa điểm hoang vu, một thành phố đã hình thành với đầy đủ hệ thống
cơ sở hạ tầng, các trường học, bệnh viện, khách sạn, công sở và dinh thự. Trên
diện tích tổng cộng là 1760 ha, thì 500 ha được chính quyền quy hoạch cho các
cơ sở công chánh, 185 ha thuộc nhà binh, 173 ha cho công chức và 206 cho dân bản
xứ. Phần còn lại còn lại (non 700 ha) thì bán cho người Pháp.
Tới thập
niên 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc, “thủ đô
mùa hè” của toàn Liên bang Đông Dương. Trong những năm chiến tranh, thành phố vẫn
giữ vai trò một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và khoa học giáo dục của Việt Nam
Cộng hòa. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều trường học, trung tâm văn
hóa và các công trình kiến trúc tiếp tục ra đời. Đà Lạt cũng là nơi định cư của
nhiều người di cư từ miền Bắc. Nhưng kể từ năm 1964, khi cuộc chiến tranh Việt
Nam bước vào giai đoạn khốc liệt, việc phát triển đô thị ít được coi trọng,
thay vào đó là sự xuất hiện của những công trình phục vụ cho mục đích quân sự.
Sau
chiến tranh, Đà Lạt tiếp tục bước vào một thời kỳ khó khăn khi phải đối mặt với
vấn đề lương thực và thực phẩm, việc xây dựng phát triển thành phố vì thế không
còn được chú trọng. Diện tích canh tác nông nghiệp mở rộng đã ảnh hưởng nhiều tới
cảnh quan thiên nhiên và môi sinh của thành phố. Du lịch Đà Lạt giai đoạn này
cũng trầm lắng bởi sự khó khăn chung của nền kinh tế Việt Nam. Từ cuối thập niên
1980, đầu thập niên 1990, thành phố dần phát triển trở lại với làn sóng khách
du lịch tìm tới ngày một đông và hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp tục được xây dựng.
Sau năm 1975, thành phố Đà Lạt có 6 phường (đánh số thứ tự từ 1 đến 6). Ngày 10
tháng 3 năm 1977, chuyển xã Lát thuộc huyện Đức Trọng về thành phố Đà Lạt quản
lý. Ngày 14 tháng 3 năm 1979, chia xã Lát thành 3 xã: Tà Nung, Xuân Thọ, Xuân
Trường. Ngày 6 tháng 6 năm 1986, giải thể 6 phường hiện hữu, thay thế bằng 12
phường mới (đánh số thứ tự từ 1 đến 12). Ngày 6 tháng 3 năm 2009, chia xã Xuân
Trường thành 2 xã: Xuân Trường và Trạm Hành. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Đà Lạt
được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại II và ngày 23
tháng 3 năm 2009, Đà Lạt chính thức trở thành thành phố đô thị loại I trực thuộc
tỉnh Lâm Đồng
Địa lý
Địa
hình
Quang
cảnh Đà Lạt với những dãy núi phía xa bao bọc khu vực trung tâm thành phố.
Thành
phố Đà Lạt rộng 394,64 km², nằm trên cao nguyên Lâm Viên, nơi có độ cao khoảng
1.500 mét so với mực nước biển. Với tọa độ địa lý11°48′36″ đến 12°01′07″ vĩ độ
bắc và 108°19′23″ đến 108°36′27″ kinh độ đông, Đà Lạt nằm trọn trong tỉnh Lâm Đồng,
phía bắc giáp huyện Lạc Dương, phía đông và đông nam giáp huyện Đơn Dương, phía
tây giáp huyện Lâm Hà, phía tây nam giáp huyện Đức Trọng.[35] Sau đợt điều chỉnh
địa giới hành chính gần đây nhất vào năm 2009, Đà Lạt bao gồm 12 phường, được định
danh bằng số thứ tự từ 1 đến 12, và bốn xã Xuân Thọ,Xuân Trường, Tà Nung và Trạm
Hành.
Quang
cảnh Đà Lạt nhìn từ trên cao
Địa
hình Đà Lạt được phân thành hai dạng rõ rệt: địa hình núi và địa hình bình
nguyên trên núi.[37] Địa hình núi phân bố xung quanh vùng cao nguyên trung tâm
thành phố. Các dãy núi cao khoảng 1.700 mét tạo thành một vành đai chắn gió che
cho khu vực lòng chảo trung tâm.[38] Từ thành phố nhìn về hướng bắc, dãy Lang
Biang như một tường thành theo hướng đông bắc – tây nam, kéo dài từ suối Đạ Sar
đến hồ Dankia. Hai đỉnh cao nhất của dãy núi này có độ cao 2.167 mét và 2.064
mét.[37] Án ngữ phía đông và đông nam Đà Lạt là hai dãy Bi Doup và Cho Proline.
Về phía nam, địa hình núi chuyển tiếp sang bậc địa hình thấp hơn, đặc trưng là
khu vực đèo Prenn với các dãy núi cao xen kẽ những thung lũng sâu.[39] Trung
tâm Đà Lạt như một lòng chảo hình bầu dục dọc theo hướng bắc – nam với chiều
dài khoảng 18 km, chiều rộng khoảng 12 km. Những dãy đồi đỉnh tròn ở đây có độ
cao tương đối đồng đều nhau, sườn thoải về hướng hồ Xuân Hương và dần cao về
phía các vùng núi bao quanh. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là dinh
Nguyễn Hữu Hào trong Bảo tàng Lâm Đồng với độ cao 1.532 mét, còn điểm thấp nhất
là thung lũng Nguyễn Tri Phương, độ cao 1.398 mét.
Trên địa
phận thành phố Đà Lạt, xen giữa vùng đồi thấp trung tâm thành phố và các dãy
núi bao quanh, có thể thấy hơn 20 dòng suối có chiều dài trên 4 km, thuộc các hệ
thống suối Cam Ly, Đa Tam và hệ thống sông Đa Nhim. Đây đều là những con suối đầu
nguồn thuộc lưu vực sông Đồng Nai, trong đó hơn một nửa là các con suối cạn, chỉ
chảy vào mùa mưa và cạn kiệt vào mùa khô. Suối Cam Ly dài 64,1 km, bắt nguồn từ
huyện Lạc Dương, chảy theo hướng bắc – nam và đổ vào hồ Xuân Hương. Đây chính
là hệ thống suối lớn nhất Đà Lạt, có vai trò quan trọng trong việc tạo cảnh
quan cho khu vực đô thị trung tâm. Đà Lạt còn nổi tiếng là thành phố của hồ và
thác với khoảng 16 hồ lớn nhỏ phân bố rải rác, phần nhiều là các hồ nhân tạo. Hồ
Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố, rộng khoảng 38 ha, được tạo lập năm 1919
trong quá trình xây dựng Đà Lạt. Trước năm 1986, hồ Xuân Hương cùng hồ Chiến Thắng
và hồ Than Thở là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thành phố. Ngày nay, nguồn nước
sinh hoạt được dẫn về từ hồ Dankia thuộc huyện Lạc Dương, cách Đà Lạt khoảng 17
km.
Khí hậu
Hồ
Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố, một trong những biểu tượng của Đà Lạt.
Do nằm
ở độ cao 1.500 mét và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng, đặc biệt là
rừng thông bao quanh, nên đối lập với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền trung
và khí hậu nhiệt đới xavan ở miền nam, thành phố Đà Lạt có một khí hậu miền núi
ôn hòa dịu mát quanh năm.[45]
Nằm
trong vùng khí hậu nhiệt đới xavan, Đà Lạt có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa
khô. Mùa mưa trùng với mùa gió mùa tây nam, bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào
tháng 10. Còn mùa khô trùng với mùa gió mùa đông bắc, kéo dài từ tháng 11 năm
trước đến tháng 4 năm sau. Vào mùa khô, Đà Lạt chịu ảnh hưởng của khối không
khí biển Đông, mang lại thời tiết nắng ấm, ít mây, không mưa, nhiệt độ hạ thấp
về ban đêm và biên độ nhiệt lớn. Trong những tháng mùa mưa, gió mùa đông bắc hầu
như không còn ảnh hưởng đến Đà Lạt, thay thế bởi khối không khí xích đạo từ
phía nam tràn lên phía bắc. Gió mùa tây nam mang lại nguồn ẩm chủ yếu cho những
trận mưa lớn và những đợt mưa kéo dài nhiều ngày. Mặc dù vậy, do ảnh hưởng của
khối không khí nhiệt đới Thái Bình Dương, trong mùa mưa vẫn có những thời kỳ thời
tiết tạnh ráo.
Nhiệt
độ trung bình tháng ở Đà Lạt không bao giờ vượt quá 20°C, ngay cả trong những
tháng nóng nhất. Tuy vậy, Đà Lạt cũng không phải là nơi có nhiệt độ trung bình
tháng thấp nếu so với các tỉnh thành phố miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới.
Trong những tháng mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng vẫn trên 14°C. Theo số liệu
thống kê từ năm 1964 tới năm 1998, nhiệt độ trung bình năm ở Đà Lạt là 17,9°C,
trong đó năm 1973 có nhiệt độ trung bình cao nhất lên đến 18,5°C, còn năm 1967
nhiệt độ trung bình xuống thấp nhất, 17,4°C.[46] Nếu so sánh với Sa Pa, thị trấn
nghỉ dưỡng ở miền Bắc ở độ cao 1.581 mét so với mặt biển và nằm trong vùng cận
nhiệt đới, thì nhiệt độ trung bình ở Đà Lạt cao hơn 2,6°C,[47], và nếu xét
riêng các tháng mùa đông thì nhiệt độ trung bình của Đà Lạt cao hơn Sapa đến
10°C (tuy nhiên về mùa hè Sapa chỉ lạnh hơn Đà Lạt không đáng kể).
Biên độ
nhiệt độ ngày đêm ở Đà Lạt rất lớn, trung bình năm đạt 11°C, cao nhất trong những
tháng mùa khô, lên tới 13 – 14°C, và thấp nhất trong những tháng mùa mưa, chỉ
khoảng 6 – 7°C. Ngược lại, biên độ nhiệt trung bình giữa các tháng trong năm lại
nhỏ, tháng ấm nhất và tháng lạnh nhất cũng chỉ chênh lệnh 3,5°C.[48] Độ dài
ngày trong các mùa ở Đà Lạt không có sự chênh lệch lớn, trung bình khoảng từ 11
đến ít hơn 12 giờ vào mùa đông và trên 12 giờ vào mùa hè.[45] Tổng số giờ nắng
trong năm ở đây tương đối cao, khoảng 2.258 giờ một năm, tập trung chủ yếu vào
các tháng 12, 1, 2 và 3 của mùa khô.[49] Tổng lượng bức xạ thu nhập ở Đà Lạt
khoảng 140 kCalo/cm²/năm, nhiều nhất vào tháng 4 và ít nhất vào tháng 8.[45] Nếu
so với các vùng lân cận, lượng bức xạ Mặt Trời của Đà Lạt không cao, nhưng đây
là nguồn năng lượng chủ yếu cho các quá trình trao đổi nhiệt, mang lại nền nhiệt
độ thấp và tương đối ôn hòa.[50]
Mùa
mưa ở Đà Lạt thường bắt đầu vào cuối tháng 4, đầu tháng 5 và kết thúc vào khoảng
cuối tháng 10, đầu tháng 11. Tuy hàng năm, thời điểm bắt đầu và kết thúc của
mùa mưa có thể thay đổi, nhưng mùa mưa ở đây thường kéo dài khoảng hơn 6 tháng.
Trung bình, một năm Đà Lạt có 161 ngày mưa với lượng mưa 1.739 mm, tập trung
nhiều nhất vào ba tháng 7, 9 và 10, ba tháng có sự hoạt động mạnh của trường
gió mùa tây nam. Nếu lấy trung bình từ tháng 5 tới tháng 10, tổng lượng mưa
trong mùa mưa ở Đà Lạt chiếm đến gần 80% lượng mưa của cả năm. So với vùng đồng
bằng, Đà Lạt có số ngày mưa trong năm nhiều hơn, nhưng lượng mưa lại thấp hơn. Ở
Đà Lạt còn có một hiện tượng thời tiết đáng chú ý khác là sương mù, trung hình
80 đến 85 ngày trong một năm, nhưng xuất hiện nhiều nhất vào khoảng thời gian từ
tháng 2 tới tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 10. Phổ biến hơn cả là loại sương
mù bức xạ được hình thành khi mặt đất bị lạnh đi nhiều do bức xạ vào lúc trời
quang, lặng gió. Sương mù dày ít xảy ra hơn, thường gặp vào tháng 9 và tháng
10, trung bình mỗi tháng có tới 4 đến 5 ngày sương mù dày.[41]
Khí
hậu Đà Lạt
Tháng123456789101112Năm
Trung
bình tối cao °C22.324.025.025.224.523.422.822.522.822.521.721.420,6
Trung
bình tối thấp °C11.311.712.614.416.016.316.016.115.815.114.312.814,3
Lượng
mưa mm11246217019121322921428223997361.739
Nguồn:
Địa chí Đà Lạt [53]
Dân cư[sửa
| sửa mã nguồn]
Lịch sử
dân số Đà Lạt
NămDân
số
19231.500
19355.500
19389.000
194013.000
194220.000
194425.500
19465.200
194818.513
195225.041
195658.958
196573.000
1970: 89.656
197:1 86.636
1974: 05.702
1975: 85.833
1981: 98.437
1990: 120.261
1999: 160.663
2009; 206.105
2011: 211.696
Nguồn:
Địa chí Đà Lạt
Trải
qua hơn một trăm năm lịch sử, từ một trung tâm nghỉ dưỡng trở thành một đô thị
lớn, cộng đồng dân cư Đà Lạt thay đổi theo quá trình hình thành và phát triển của
thành phố. Vào năm 1893, khi bác sĩ Alexandre Yersin đến cao nguyên Lâm Viên,
nơi đây chỉ là một vùng dân cư thưa thớt, một vài ngôi làng củangười Lạch tập
trung ở chân núi. Đến tận năm 1902, khi dự án xây dựng một thành phố của Toàn
quyền Paul Doumer dừng lại, cư dân Đà Lạt vẫn chỉ là những nhóm dân tộc thiểu số
người Lạch, người Chil cùng một nhóm nhỏ người Việt di cư lên đây từ trước đó.
Năm 1906, một lần nữa, nơi đây được chọn làm nơi nghỉ dưỡng dành cho công chức
và binh sỹ Pháp, ngoài các cư dân bản địa, ở Đà Lạt bắt đầu có các công chức
người Pháp, những du khách châu Âu, và người Việt cũng bắt đầu tới đây nhiều
hơn trước.
Giai đoạn sau Thế chiến
thứ nhất là thời kỳ thành phố phát triển mạnh mẽ. Cơ sở hạ tầng cùng đường xá
được xây dựng khiến dân cư từ nhiều nơi tới Đà Lạt định cư, du lịch và nghỉ dưỡng.
Dân số Đà Lạt đã tăng lên đáng kể từ 1.500 người vào năm 1923 lên 11.500 người
năm 1939. Những năm Thế chiến thứ hai, nhiều người Pháp không thể trở về nghỉ ở
quê hương và Đà Lạt trở thành điểm đến của họ. Thành phố tiếp tục được mở rộng
và dân số tăng lên nhanh chóng, từ 13.000 người năm 1940 lên 25.500 người vào
năm 1944.
Những
biến cố của cuộc chiến tranh Đông Dương ảnh hưởng mạnh mẽ tới dân số Đà Lạt. Thời
kỳ này rất nhiều cư dân của thành phố lánh về Cầu Đất, Đơn Dương, Ninh Thuận,
Bình Thuận hoặc trở về quê hương cũ. Vào năm 1946, dân số Đà Lạt chỉ còn khoảng
5.200 người, khiến người Pháp gọi nơi đây là “thành phố quạnh hiu”. Nhưng khoảng
thời gian tiếp theo, khi Đà Lạt một lần nữa thuộc về người Pháp, các hoạt động
kinh tế, xã hội dần ổn định trở lại. Vào cuối năm 1952, dân số thành phố đạt
25.041 người, trong đó có 1.217 người châu Âu, 752 người Hoa, 22.232 người Kinh
và 840 nguời dân tộc bản địa. Cuối năm 1953, đầu năm 1954, cuộc chiến tranh Đông
Dương bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, Đà Lạt trở thành nơi dân cư các tỉnh
lân cận tìm đến để tỵ nạnchiến tranh. Năm 1954, sau hiệp định Genève, thành phố
đón nhận một lượng lớn những di dân từ miền Bắc cùng làn sóng người miền Trung
đến lập nghiệp, khiến dân số Đà Lạt tăng vọt từ 25.000 người năm 1954 lên
58.958 người vào năm 1956. Dân số thành phố gia tăng điều hòa trong thập niên
1960, nhưng giảm sút trong thập niên 1970, khi chiến tranh Việt Nam bước vào
giai đoạn căng thẳng. Khoảng thời gian đầu sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều
người phục vụ trong quân đội, chính quyền Việt Nam Cộng hòa trở về quê quán khiến
dân số Đà Lạt giảm xuống, nhưng sau đó được bổ sung bởi các di dân mới từ miền
Bắc và miền Trung. Cuối thế kỷ 20, địa giới hành chính Đà Lạt được mở rộng, dân
số thành phố tăng lên mạnh mẽ và có sự gia tăng dân số cơ học đáng kể. Năm
2011, Đà Lạt có dân số 211.696 người, chiếm 17,4% dân số của tỉnh Lâm Đồng, mật
độ 536 người/km².
Trong
lịch sử, Đà Lạt từng là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân cư có nguồn gốc đa dạng,
từ người Kinh, người Cơ Ho đến những người Hoa, người Pháp. Ngày nay, phần lớn
cư dân của thành phố là người Kinh, phần nhỏ còn lại gồm những người Hoa, người
Cơ Ho và các dân tộc thiểu số khác như Tày, Nùng,Chăm...[63] Theo số liệu năm
2011, Đà Lạt có 191.803 cư dân thành thị,[2] tương đương 90%. Cấu trúc theo giới
tính, thành phố có 100.520 cư dân nam và 111.176 cư dân nữ. Cũng như các đô thị
khác, mật độ dân số của Đà Lạt không đồng đều, dân cư tập trung nhiều nhất ở
các phường trung tâm nhưPhường 1, Phường 2, Phường 6. Ở ngoại thành, cư dân sống
chủ yếu bằng nông nghiệp, lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó nông
nghiệp chiếm một phần quan trọng. Khu vực ngoại thành của Đà Lạt rõ nét nhất là
các xã Xuân Trường, Xuân Thọ và Tà Nung.
Hành
chính
Về
hành chính, thành phố Đà Lạt được chia thành 12 phường và 4 xã. Ủy ban nhân dân
thành phố nằm tại số 3 đường Trần Hưng Đạo, đối diện Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng
và không xa trụ sở Hội đồng nhân dân thành phố. Nhiệm kỳ 2011–2016, người giữ
chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt là ông Võ Ngọc Hiệp. Thành ủy
Đà Lạt có trụ sở tại 31 đường Đinh Tiên Hoàng, Phường 2. Bí thư Thành ủy nhiệm
kỳ 2010–2015 là ông Đoàn Văn Việt, cũng là người giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng
nhân dân Đà Lạt nhiệm kỳ 2011–2016.
Danh
sách các đơn vị hành chính thuộc Đà Lạt
Bản đồ
đường phố Đà Lạt năm 2011.
TênDiện
tíchDân sốMật độTênDiện tíchDân sốMật độ
Phường
11,76 km²9.5205.409Phường 94,70 km²16.7923.573
Phường
21,26 km²19.07215.137Phường 1013,79 km²15.3821.115
Phường
327,24 km²17.062626Phường 1116,44 km²9.243562
Phường
429,10 km²21.427736Phường 1212,30 km²7.905643
Phường
534,74 km²13.938401Tà Nung45,82 km²3.98187
Phường
61,68 km²16.95510.092Trạm Hành55,38 km²4.64684
Phường
734,22 km²14.721430Xuân Thọ62,47 km²6.253100
Phường
817,84 km²26.3691.478Xuân Trường35,64 km²6.035169
Ghi
chú: đơn vị diện tích: km²; mật độ: người/km². Nguồn: Niên giám thống kê Lâm Đồng
năm 2010.
Giao
thông
Do đặc
điểm địa hình, giao thông Đà Lạt chỉ gồm đường bộ, đường sắt và đường không,
nhưng hiện nay chỉ giao thông đường bộ và đường không thực sự hoạt động. Tuyến
đường quan trọng nhất nối Đà Lạt với các thành phố khác là quốc lộ 20. Con đường
này giao với quốc lộ 1 tại ngã ba Dầu Giây, tỉnh Đồng Nai, từ đó hướng về Thành
phố Hồ Chí Minh và nối với quốc lộ 27 tạiD'Ran để về Phan Rang và các tỉnh Nam
Trung Bộ. Quốc lộ 20 còn cắt qua Di Linh, từ đây theo quốc lộ 28 về hướng nam sẽ
dẫn đến thành phố Phan Thiết. Xuất phát từ Đà Lạt, tuyến đường 723 đi xuyên qua
các huyện Lạc Dương của Lâm Đồng và Khánh Vĩnh, Diên Khánh của Khánh Hòa, tới
thành phố Nha Trang. Con đường này được hoàn thành vào năm 2007, giúp hành
trình giữa hai thành phố du lịch nổi tiếng chỉ còn khoảng 130 km, so với lộ
trình cũ Đà Lạt – Phan Rang – Nha Trang dài 228 km. Đà Lạt còn một tuyến tỉnh lộ
khác là đường 722 đi Đam Rông, nối thành phố với các vùng tây bắc của tỉnh Lâm
Đồng. Giao thông nội thị, các tuyến xe buýt của thành phố hình thành vào năm
2006, với tuyến đầu tiên nối Đà Lạt với Đức Trọng. Thời điểm 2007, Đà Lạt có ba
công ty kinh doanh vận tải xe buýt, gồm Công ty Cổ phần Vận tải Ô tô Lâm Đồng,
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Thái Hòa và Công ty Cổ phần Phương Trang, tổng cộng
79 đầu xe, khai thác các tuyến nội thị và từ Đà Lạt đến các huyện lân cận.
Thành phố cũng có khoảng mười công ty tham gia kinh doanh vận tải taxi, trong
đó có các hãng lớn như Mai Linh, Phương Trang và Thắng Lợi.
Nhà ga
mới của sân bay Liên Khương được khánh thành và đưa vào hoạt động cuối năm 2009.
Giao
thông hàng không của Đà Lạt được thực hiện qua sân bay quốc tế Liên Khương và
sân bay Cam Ly. Sân bay Liên Khương cách trung tâm thành phố Đà Lạt 28 km về
phía nam, nằm cạnh quốc lộ 20, thuộc thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng.[73]
Phi trường này được người Pháp cho xây dựng và đưa vào hoạt động vào năm 1933,
khi đó chỉ có một đường băng bằng đất nện cứng dài 700 mét. Trong Thế chiến thứ
hai, Quân đội Nhật Bản đã nâng cấp sân bay Liên Khương, đường hạ cất cánh được
rải cán đá và dùng cho mục đích quân sự. Phi trường còn tiếp tục được xây dựng
dưới thời Việt Nam Cộng hòa với nhà ga dân dụng mới và mặt đường băng phủ bê
tông nhựa có thể sử dụng cho máy bay dưới 35 tấn. Sau năm 1975, phi trường được
Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp quản và điều hành, tới năm 1980 chuyển về Tổng
công ty Cảng hàng không Miền Nam quản lý. Năm 2003, Tổng công ty Cảng hàng
không Miền Nam đã nâng cấp sân bay Liên Khương đạt tiêu chuẩn 4C theo phân cấp
của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế. Cuối tháng 12 năm 2009, nhà ga mới của
sân bay với diện tích sàn 12.000 mét vuông được khánh thành, bắt đầu khai thác
các đường bay quốc tế. Thời điểm 2012, Hãng hàng không Vietnam Airlines khai
thác mỗi ngày một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt – Hà Nội, bốn chuyến bay khứ hồi Đà
Lạt – Thành phố Hồ Chí Minh và một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt –Đà Nẵng. Hãng
hàng không Air Mekong cũng khai thác mỗi ngày một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt –
Hà Nội và một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt – Thành phố Hồ Chí Minh. Phi trường thứ
hai của Đà Lạt là sân bay Cam Ly, thuộc Phường 5, cách trung tâm thành phố 3 km
về phía tây. Trước kia, đây là sân bay quân sự của Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực
Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, sân bay Cam Ly thuộc Học viện Lục quân, rồi
chuyển giao cho Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam. Do hoạt động không hiệu
quả, sân bay này bị bỏ hoang nhiều năm và tới cuối 2010, được giao lại cho Bộ
Quốc phòng quản lý.
Tuyến
đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được xây dựng từ năm 1903 đến năm 1928, tới năm
1932 bắt đầu khai thác vận tải toàn tuyến. So với các tuyến đường sắt khác ở Việt
Nam, tuyến Tháp Chàm – Đà Lạt độc đáo nhờ sử dụng hệ thống đường sắt răng cưa,
gồm ba đoạn từ Sông Pha lên tới Đà Lạt, tổng cộng gần 16 km. Điểm cuối của tuyến
đường sắt này là nhà ga Đà Lạt, xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, một công
trình kiến trúc độc đáo do hai kiến trúc sư người Pháp Révéron và Moncet thiết
kế. Đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được sử dụng tới năm 1972, khi chiến tranh Việt
Nam trở nên khốc liệt, tuyến đường buộc phải ngừng hoạt động. Từ năm 1991,
thành phố Đà Lạt cho khôi phục 7 km đường sắt từ Đà Lạt tới Trại Mát, kết hợp
cùng nhà ga Đà Lạt để phục vụ du lịch. Nơi đây ngày nay trở thành một trong những
điểm hấp dẫn du khách của thành phố. Mặc dù không còn kết nối trực tiếp với hệ
thống đường sắt Việt Nam, nhà ga vẫn bán vé tàu cho hành khách và có xe trung
chuyển từ ga Đà Lạt đến ga Nha Trang và ga Tháp Tràm.
Kinh tế.
Một bức
tranh thêu hai mặt ở Đà Lạt
Đà Lạt
có một nền kinh tế thiên về các lĩnh vực du lịch, dịch vụ và nông nghiệp. Vào
năm 2007, các ngành du lịch và dịch vụ chiếm đến 70% tổng sản phẩm nội địa của
thành phố. Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế của Đà Lạt năm 2011 đạt
2.047,400 tỷ đồng, tương đương với Bảo Lộc, thành phố thứ hai của Lâm Đồng.
Trong lĩnh vực công nghiệp, thu hút nhiều lao động nhất là các ngành công nghiệp
chế biến. Một số sản phẩm của Đà Lạt như rượu vang, trà Atisô hay mứt trái cây
từ lâu đã được biết đến rộng rãi. Nhờ điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp,
Đà Lạt còn là vùng đất trồng nhiều chè và cà phê, cũng là hai sản phẩm quan trọng
trong lĩnh vực công nghiệp chế biến của thành phố. Một nghề mới phát triển
trong những năm cuối thế kỷ 20 tại Đà Lạt là nghề thêu, nổi bật hơn cả là những
sản phẩm tranh thêu của Công ty XQ Đà Lạt. Trong thành phố, còn có thể thấy sự
hiện diện của các công ty in ấn, may mặc, dệt, chế biến tinh dầu, sản xuất lâm
sản... Năm 2011, thành phố Đà Lạt có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 17%, tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 42,7 triệu đô la Mỹ và thu nhập bình quân đầu
người khoảng 26,6 triệu đồng.
Du lịch.
Khách
sạn Dalat Palace, trước đây mang tên Sofitel Dalat Palace, một trong những
khách sạn lâu đời và sang trọng nhất của Đà Lạt.
Ở Việt
Nam, Đà Lạt từ lâu đã là một thành phố du lịch nổi tiếng. Khí hậu mát mẻ, tài
nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú giúp thành phố mỗi năm thu hút hàng
triệu du khách tới thăm viếng và nghỉ dưỡng. Sau một thời gian trầm lắng của thập
niên 1980, du lịch Đà Lạt thay đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây. Vào thời điểm
năm 2001, thành phố có 369 khách sạn gồm 4.334 phòng với sức chứa 15.821 khách,
đến năm 2009 số cơ sở lưu trú tại Đà Lạt đã lên đến 673 cơ sở với hơn 11 ngàn
phòng và sức chứa trên 38 ngàn khách. Tuy vậy, phần lớn các cơ sở lưu trú của
thành phố có quy mô trung bình hoặc nhỏ, mang tính cá nhân, gia đình và thiếu
chuyên nghiệp. Trong 673 cơ sở, chỉ 85 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 đến 5 sao và
11 khách sạn từ 3 đến 5 sao. Các khách sạn lớn tập trung chủ yếu ở khu vực Phường
1 và Phường 2, một số ít nằm rải rác ở các phường lân cận. Hiệu suất thuê phòng
của các khách sạn tại Đà Lạt khoảng 30 đến 35% và phân bố không đều trong năm,
tập trung vào các ngày lễ và kỳ nghỉ hè.
So với
các đô thị khác của Việt Nam, Đà Lạt là thành phố được thiên nhiên dành cho nhiều
ưu ái. Những thắng cảnh của thành phố, nằm rải rác ở cả khu vực trung tâm lẫn
vùng ngoại ô, như hồ Xuân Hương, đồi Cù, thung lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, thác
Prenn... từ lâu đã trở nên nổi tiếng. Tuy vậy, không ít danh thắng và di tích của
Đà Lạt hiện nay rơi vào tình trạng hoang tàn và đổ nát. Thác Cam Ly, dòng thác
từng đi vào thi ca lãng mạn, không còn vẻ đẹp vốn có mà tràn ngập rác thải và bốc
mùi hôi thối nồng nặc do nguồn nước bị ô nhiễm. Các địa điểm như thung lũng
Tình Yêu, hồ Than Thở hay thác Prenn đã mất đi nét hoang sơ bởi sự xuất hiện của
quá nhiều hàng quán, khu trò chơi và cây cảnh. Thác Voi, một thắng cảnh khác
không xa Đà Lạt, cũng bị ô nhiễm nặng do những người dân sinh sống ở vùng thượng
nguồn thường xả rác và chất bẩn xuống dòng suối. Vào năm 2008, Sở Văn hóa Thông
tin tỉnh Lâm Đồng đã có văn bản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch rút tên
hai thác Liên Khương và Gougah khỏi danh sách di tích quốc gia bởi cảnh quan
hai danh thắng này đã bị thay đổi.
Lịch sử
đã để lại cho Đà Lạt không ít những công trình kiến trúc giá trị, như những
công sở, trường học, nhà thờ, tu viện, chùa chiền, công trình công cộng... cùng
hàng ngàn biệt thự xinh đẹp hiện diện khắp thành phố. Qua thời gian, những dinh
thự, biệt điện xưa kia từng thuộc về các nhân vật quyền lực, ngày nay được mở cửa
đón khách viếng thăm. Ba dinh thự nổi tiếng của Đà Lạt trước đây đều là địa điểm
du lịch, nhưng hiện nay chỉ Dinh III còn giữ chức năng này và tiếp tục thu hút
du khách. Dinh II, hay còn gọi Dinh Toàn quyền, được dùng làm khách sạn, nơi hội
thảo của chính quyền địa phương, còn Dinh I đã đóng cửa vài năm gần đây để sửa
chữa. Một dinh thự khác của Đà Lạt, biệt điện Trần Lệ Xuân cũng trở thành điểm
du lịch ngay từ năm 1964, ngày nay là Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, nơi lưu giữ
Mộc bản triều Nguyễn. Bên cạnh những di sản kiến trúc Pháp, một vài công trình
xây dựng những thập niên gần đây như thiền viện Trúc Lâm, biệt thự Hằng Nga hay
XQ Sử quán cũng đã trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn. Nhưng giống như các thắng
cảnh, một vài công trình kiến trúc của Đà Lạt cũng đang bị bỏ quên hoặc xâm hại.
Khuôn viên nhà ga Đà Lạt, một trong những biểu tượng nổi tiếng của thành phố,
trở thành bãi tập kết gốm sứ, cây cảnh và vườn rau bắp cải của người dân. Quần
thể di tích kiến trúc Trường Cao đẳng Sư phạm không chỉ xuống cấp mà còn bị
“chung cư hóa” bởi sự sinh hoạt của hơn 30 gia đình dân cư. Khu lăng mộ Nguyễn
Hữu Hào từng bị bỏ hoang nhiều năm và trở thành địa điểm của những người nghiện
ma túy và hoạt động mại dâm.
Với tuổi
đời chỉ hơn một thế kỷ, Đà Lạt không có những lễ hội truyền thống lâu đời. Tuy
vậy, từ năm 2005, thành phố bắt đầu tổ chức Festival Hoa Đà Lạt, một lễ hội với
nhiều sự kiện cùng các hoạt động nghệ thuật nhằm giới thiệu các loài hoa địa
phương cũng như từ những vùng miền khác. Năm 2007, dù chưa thực sự được tổ chức
tốt, Festival Hoa Đà Lạt lần thứ hai đã thu hút khoảng 120 ngàn du khách tới
thăm.[100] Festival Hoa Đà Lạt 2010 là sự kiện đầu tiên trong chuỗi bảy sự kiện
quốc gia mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.[101] Trong dịp này, đã có gần
300 ngàn du khách đến với Đà Lạt trong suốt 4 ngày của lễ hội.[102] Năm 2012,
Festival Hoa được tổ chức vào dịp nghỉ lễ Tết Dương lịch và đã thu hút hơn 300
ngàn du khách tới tham dự. Trong những năm gần đây, số lượng khách du lịch tới
Đà Lạt vẫn tiếp tục tăng. Vào năm 2000, thành phố đón 710 ngàn lượt khách tới
thăm, đến năm 2009, con số đã tăng gấp ba với trên 2,1 triệu lượt khách, trong
đó khoảng 10% là du khách quốc tế. Mặc dù vậy, thời gian trung bình khách lưu lại
Đà Lạt chỉ 2 ngày, trong khi tỷ lệ của Bình Thuận là 3,8 đến 4 ngày. Du lịch Đà
Lạt phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của Nha Trang và Phan Thiết, hai
thành phố du lịch duyên hải không xa Đà Lạt.
Toàn cảnh
hồ Xuân Hương vào lúc sáng sớm.
Nông
nghiệp
Những
người nông dân thu hoạch rau bắp cải, cây rau được trồng phổ biến nhất tại Đà Lạt.
Nhờ thổ
nhưỡng và khí hậu thuận lợi, Đà Lạt có điều kiện để phát triển nhiều loại cây
ôn đới. Trừ một vài giống rau từ miền Bắc, hầu hết các giống rau của thành phố
đều được nhập về từ Pháp, Đức, Hà Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ... Cây rau chiếm diện
tích canh tác chủ yếu tại Đà Lạt cả trước đây và hiện nay là cải bắp, nhiều nhất
là giống cải bắp của Nhật Bản, được trồng quanh năm. Các cây cải thảo và cải
bông cũng có mặt ở khắp các địa phương, tập trung vào vụ đông xuân hàng năm. Một loại cây rau ngắn ngày nổi tiếng của Đà Lạt
là xà lách, có thời gian sinh trưởng ngắn nên được trồng xen với những chủng loại
cây rau khác. Trên các vùng trồng rau của Đà Lạt còn có thể thấy các giống cây
nông nghiệp như khoai tây, cà rốt, hành tây, đậu Hà Lan, rau chân vịt... Đà Lạt
được biết đến như vùng đất của những loài hoa, với các giốnghoa lan, hoa hồng,
hoa lys, hoa lay ơn, hoa cẩm tú cầu, hoa bất tử, hoa cẩm chướng... Các giống
lan nhập nội vào Đà Lạt thuộc các chi Lan kiếm, Lan hoàng thảo, Lan hài, Lan
hoàng hậu... với trên 300 giống. Từ năm 2000, một số giống lan vùng nhiệt đới
và á nhiệt đới cũng được trồng thành công như giống lai trong chi Hồ điệp,
Hoàng y Mỵ Nương, Lan nhện. Các loài lay ơn, hoa hồng, hoa lys đều được trồng ở
Đà Lạt từ khoảng giữa thế kỷ 20. Trên các vùng đất ngoại ô thành phố, còn có thể
thấy những vườn cây ăn trái như đào, mận, hồng, dâu tây... các vùng trồng cây
công nghiệp như chè, cà phê, hay atisô, loài cây dược liệu nổi tiếng của Đà Lạt.
Vào năm 2011, thành phố có 7.123 hectagieo trồng rau, 441 hecta trồng cây ăn quả,
25 hecta trồng lúa, và gần 3.500 hecta diện tích trồng hoa, trong đó khoảng
1.500 hecta nhà kính.
Trước
đây, tham gia sản xuất nông nghiệp ở Đà Lạt là các gia đình nông dân và một số
điền trang tư nhân quy mô nhỏ. Thời kỳ sau năm 1975, với chính sách kinh tế kế
hoạch tập trung, ở Đà Lạt xuất hiện các hợp tác xã nông nghiệp và các tập đoàn
sản xuất. Sản xuất nông nghiệp khi đó được thực hiện theo kế hoạch đến từng
khóm dân cư, việc thu mua rau do Công ty Nông sản Thực phẩm và Công ty Ngoại
thương đảm nhận. Nhưng đến cuối thập kỷ 1980, hầu hết các tập đoàn sản xuất và
hợp tác xã đều ngừng hoạt động và tự tan rã, phần lớn đất sản xuất được giao
khoán đến từng gia đình nông dân. Những năm gần đây, Đà Lạt xuất hiện nhiều
công ty nông nghiệp tư nhân và nước ngoài, như Dalat Hasfarm Agrivina, Bonnie
Farm, Rừng Hoa Đà Lạt, Langbiang Farm... trong lĩnh vực trồng hoa hay Golden
Garden, Rau Nhà Xanh, Kim Bằng, Bio-Organics... tham gia sản xuất rau quả. Với
mục đích ổn định, phát triển ngành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vào năm 2002
và 2006, Hiệp hội rau quả Đà Lạt và Hiệp hội hoa Đà Lạt lần lượt được thành lập.
Nhờ mở rộng diện tích canh tác và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật, sản lượng
nông nghiệp của thành phố tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Vào năm 1996,
Đà Lạt thu hoạch 82.448 tấn rau, đến năm 2002 con số này lên tới 183.300 tấn,
và năm 2011, sản lượng rau của thành phố đạt 212.870 tấn. Tương tự, ngành sản
xuất hoa Đà Lạt cũng tăng trưởng trung bình 20% một năm, sản lượng hoa cắt cành
ở mức 150 triệu cành năm 2001 đã tăng lên trên 900 triệu cành vào năm 2009 và
1,5 tỷ cành vào năm 2011. Sản phẩm hoa của thành phố được tiêu thụ chủ yếu ở thị
trường Việt Nam, trong hơn 10 năm gần đây, chỉ khoảng 5% hoa Đà Lạt xuất khẩu
ra nước ngoài.
Xã hội
Y tế
Bệnh
viện đa khoa Hoàn Mỹ, bệnh viện tư đầu tiên của thành phố Đà Lạt, bắt đầu hoạt
động từ năm 2008.
Vào thời
kỳ mới thành lập, ở Đà Lạt chỉ có một trạm cứu thương lưu động, đến năm 1921
thành phố mới có được trạm xá đầu tiên. Năm 1922, Bệnh viện Đà Lạt được người
Pháp khởi công xây dựng và hoàn thành vào năm 1938. Cũng trong thời kỳ này, Viện
Pasteur Đà Lạt được khánh thành vào ngày 1 tháng 1 năm 1936, là đơn vị cuối
cùng trong hệ thống các viện Pasteur ở Đông Dương. Thời Việt Nam Cộng hòa, Bệnh
viện Đà Lạt được phát triển thành Trung tâm Y tế toàn khoa thuộc Bộ Y tế. Sau
năm 1975, trung tâm này được đổi lại thành Bệnh viện Đà Lạt, tiếp đó trở thành
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng khi tỉnh Lâm Đồng được thành lập. Bệnh viện Y học
cổ truyền được thành lập trên đường Cô Bắc năm 1986, tới năm 1993 đổi tên thành
Bệnh viện Y học cổ truyền Phạm Ngọc Thạch. Năm 1990, với sự giúp đỡ của Làng
Hòa Bình Quốc tế Cộng hòa Liên bang Đức, thành phố có được một Trung tâm phục hồi
chức năng trẻ em dị tật. Cơ sở y tế này sau đó được sát nhập với Viện Điều dưỡng,
vốn được thành lập năm 1988, trở thành Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức
năng.
Ngày
nay, Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng, Bệnh viện Y học cổ truyền Phạm Ngọc Thạch và Bệnh
viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng là babệnh viện tuyến tỉnh tại Đà Lạt, với
tổng cộng 630 giường bệnh. Cuối năm 2008, Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Đà Lạt tọa
lạc trên đồi Long Thọ, thuộc Phường 10, bắt đầu hoạt động. Đây là bệnh viện tư
đầu tiên của Đà Lạt và vùng nam Tây Nguyên với diện tích sàn sử dụng 30.000 mét
vuông và 200 giường bệnh. Năm 2010, Bệnh viện Nhi Đà Lạt bắt đầu được xây dựng
trên đồi thông thuộc khu Thánh Mẫu - Tô Hiệu thuộc Phường 8. Dự kiến hoàn thành
vào cuối năm 2013, Bệnh viện Nhi Đà Lạt có quy mô 150 giường bệnh, sẽ là bệnh
viện nhi đầu tiên ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Bên cạnh các cơ sở y tế
tuyến tỉnh, thành phố cũng có một mạng lưới y tế riêng bao gồm các cơ sở như
Nhà hộ sinh Thành phố, Văn phòng Trung tâm Y tế, các phòng khám đa khoa khu vực...
cùng các trạm y tế thuộc phường, xã. Những tổ chức hội y tế, gồm Hội Y Dược học,
Hội Y học cổ truyền và Hội Chữ thập đỏ, cũng tham gia vào các hoạt động y tế ở
thành phố. Theo số liệu thống kê năm 2011, thành phố Đà Lạt có 195 bác sỹ, 146
y sỹ và kỹ thuật viên, 285 y tá và 1.085 giường bệnh.
Giáo dục
Trường
Dân tộc nội trú, trước đây là Trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ thục nổi
tiếng.
Sau
khi triều đình Huế thông báo dụ thành lập thị tứ Đà Lạt vào năm 1916, dân cư Đà
Lạt và vùng lân cận dần tăng lên, hệ thống giáo dục ở đây bắt đầu hình thành và
phát triển cùng với sự phát triển của thành phố. Trường học đầu tiên ở Đà Lạt
là trường École française, khai giảng vào ngày 20 tháng 12 năm 1919, chỉ dành
riêng cho các học sinh người Pháp. Cuối thập niên 1920, những công chức người
Pháp tới Đà Lạt ngày một đông, thành phố có thêm hai ngôi trường Pháp mới, Petit
Lycée và Grand Lycée. Trường Grand Lycée được khởi công xây dựng vào năm 1929
và khai giảng năm 1933, dành cho con em người Pháp và các quan lại người Việt.
Đến năm 1935, trường khánh thành và mang tên Trung học Yersin, tiền thân của
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt ngày nay. Ngôi trường dành cho học sinh Việt Nam
đầu tiên là một trường tư được thành lập năm 1927. Năm 1928, ngôi trường công
dành cho học sinh Việt mang tên École communale de Dalat, ngày nay là trường tiểu
học Đoàn Thị Điểm, khai giảng khóa đầu tiên. Năm 1934,Trường Couvent des
Oiseaux và năm 1939, Trường Thiếu sinh quân Đà Lạt lần lượt được ra đời. Ở bậc
giáo dục đại học, niên học 1944-1945, Chính phủ Pháp cho mở một lớp chuyên khoa
toán đặt tại Trung học Yersin. Lớp học này có khoảng 40 sinh viên, chỉ tồn tại
đến tháng 3 năm 1945, thời điểmNhật đảo chính Pháp.[132] Thời kỳ 1945 đến 1954,
ở Đà Lạt còn xuất hiện thêm hai ngôi trường mới, Trường Hành chính Quốc gia và
Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Sau năm 1954, dân số Đà Lạt tăng đột biến nhờ một
lượng lớn di dân từ miền Bắc và miền Trung, nhiều ngôi trường mới tiếp tục ra đời.
Năm 1957, Viện Đại học Đà Lạt được thành lập, xuất phát từ một tổ chức tư thục
do giáo hội Thiên Chúa giáo quản lý. Từ 49 sinh viên trong niên học đầu tiên
1958-1959, đến niên học 1974-1975, Viện Đại học Đà Lạt có khoảng 5.000 sinh
viên theo học, bao gồm các trường Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa, Đại học
Khoa học và Đại học Chính trị - Kinh doanh. Thời điểm trước tháng 4 năm 1975, tại
Đà Lạt có đến 61 ngôi trường, cả công lập và tư thục. Bên cạnh các trường phổ
thông, đại học, ở đây còn có nhiều trường đào tạo quân sự và tôn giáo như Trường
Võ bị Quốc gia, Trường Chiến tranh chính trị, Trường Chỉ huy và Tham mưu, Giáo
Hoàng học viện.
Ngày
nay, Đà Lạt vẫn là một trung tâm giáo dục của miền Nam Việt Nam. Năm 2011, ở bậc
giáo dục tiểu học và phổ thông, toàn thành phố Đà Lạt có 44 trường, 1.763 giáo
viên và 37.711 học sinh, trong đó 16.712 học sinh tiểu học, 12.311 học sinh
trung học cơ sở và 8.688 học sinh trung học phổ thông. Thành phố cũng có 25 trường,
417 giáo viên và 8.972 học sinh bậc mẫu giáo. Tại Đà Lạt còn có thể thấy sự hiện
diện của ba trường đại học, bốn trường cao đẳng cùng các trung tâm giáo dục thường
xuyên, các trường giáo dục chuyên nghiệp, các cơ sở giáo dục đặc biệt dành cho
trẻ em khuyết tật... Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được thành lập năm 1976, đến
năm 1992, trường hợp nhất với Trung học Sư phạm và Sư phạm Mầm non trở thành một
trường sư phạm đa hệ. Do nhu cầu giáo viên các bậc học mầm non, tiểu học và
trung học cơ sở giảm bớt nên quy mô đào tạo trường cũng thu hẹp lại, chỉ còn
hơn 1.000 sinh viên chính quy. Năm 1976, Trường Đại học Đà Lạt được thành lập
trên cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt trước đó. Thời gian đầu, trường chỉ đào tạo
cử nhân cho các ngành khoa học cơ bản với quy mô nhỏ, 250 sinh viên trong niên
học 1977-1979. Ngày nay, Đại học Đà Lạt trở thành một trường đại học đa ngành với
52 ngành nghề của các bậc đào tạo từ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học,
sau đại học đến nghiên cứu sinh.[144] Năm 2011, Trường Đại học Đà Lạt có 22.665
sinh viên đang theo học ở tất cả các bậc đào tạo. Từ năm 2004, thành phố Đà Lạt
có thêm một trường đại học mới mang tên Alexandre Yersin. Hiện nay, Trường Đại
học Dân lập Yersin Đà Lạt gồm 8 khoa, đào tạo 2.329 sinh viên trong năm 2011.
Đà Lạt vẫn tiếp tục là địa điểm của một đại học quân sự quan trọng. Sau tháng 4
năm 1975, các trường quân sự của Việt Nam Cộng hòa bị giải thể. Bộ Quốc phòng
quyết định chuyển địa điểm của Học viện Quân sự từ Hà Nội vào Đà Lạt, tiếp nhận
cơ sở từ các trường quân sự cũ. Học viện Lục quân ngày nay nằm ở phía đông bắc
thành phố, là nơi đào tạo sỹ quan trung cao cấp cho Quân đội Việt Nam, cũng là
một cơ quan nghiên cứu khoa học quân sự. Bên cạnh các cơ sở giáo dục, ở Đà Lạt
còn có sự hiện diện của nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng, như Viện
Sinh học Tây Nguyên, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt hay Viện Pasteur Đà Lạt.
Các
trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp tại Đà Lạt
Tên
trườngThành lập Cơ sở tiền thân Địa chỉ
Trường
Đại học Đà Lạt1976Viện Đại học Đà Lạt01 Phù Đổng Thiên Vương, Phường 8
Trường
Đại học Dân lập Yersin Đà Lạt200401 Tôn Thất Tùng, Phường 8
Học viện
Lục quân Đà Lạt194602 Lữ Gia, Phường 9
Trường
Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt1976Trường Trung học Yersin29 Yersin, Phường 10
Trường
Cao đẳng nghề Đà Lạt2007Trường Kỹ thuật Đà Lạt01 Hoàng Văn Thụ, Phường 4
Trường
Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Lâm Đồng2000Trường Kỹ thuật Lasan25 Trần Phú, Phường 4
Trường
Cao đẳng Y tế Lâm Đồng2009Trung học Y tế Lâm Đồng 6B Ngô Quyền, Phường 6
Trường
Trung cấp Du lịch Đà Lạt20061A Tôn Thất Tùng, Phường 8; 10 Lý Tự Trọng, Phường 2
Tôn
giáo và tín ngưỡng
Bài
chi tiết: Tôn giáo tại Đà Lạt
Nhà thờ
chính tòa Đà Lạt, còn được gọi Nhà thờ Con Gà, khánh thành năm 1942.
Do những
đặc điểm trong quá trình hình thành cộng đồng dân cư, đời sống tín ngưỡng và
tôn giáo ở Đà Lạt rất đa dạng.[147] Trên thành phố ngày nay có thể thấy sự hiện
diện của 43 nhà thờ, tu viện Công giáo hay Tin Lành, 55 ngôi chùa và tịnh xá Phật
giáo, 3 thánh thất Cao Đài cùng rất nhiều những ngôi đình làng nằm rải rác. Phần
lớn cư dân Đà Lạt hiện nay là những người Việt đến từ nhiều vùng miền, vì thế
có thể bắt gặp ở đây tất cả những hình thái tín ngưỡng phổ biến của người Việt
như tục thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng Thành hoàng, tục thờ Mẫu, tục thờ gia thần...
Nhưng điểm làm nên sự khác biệt giữa đời sống tín ngưỡng ở Đà Lạt với các vùng
khác như miền Bắc và miền Trung chính là tuổi đời mới chỉ một thế kỷ của thành
phố. Đà Lạt không có những ngôi từ đường cổ kính, các thôn làng ở đây không có
những gốc tích xa xưa, những ngôi đình làng tuy xuất hiện dày đặc nhưng phần lớn
đều mới được dựng lên cách đây chỉ 3, 4 thập kỷ và mang quy mô nhỏ. Ở nhiều
ngôi đình, trên bàn thờ chính chỉ có một chữ “Thần” bằng Hán tự và những người
tham gia tế lễ cũng không biết danh tính, công đức của vị thánh mà mình thờ phụng.
Đặc biệt, trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng, những người có công mở làng lập ấp
lại không được coi là Thành hoàng làng. Bên cạnh đó, đời sống tâm linh tại Đà Lạt
còn có sự góp mặt của những hình thái tín ngưỡng dân gian thuộc các dân tộc thiểu
số và cộng đồng người Hoa.
Hầu hết
các tôn giáo lớn ở Việt Nam đều có mặt tại Đà Lạt, trong đó đạo Phật là tôn
giáo có lượng tín đồ đông đảo nhất, tiếp đến là Công giáo, đạo Cao Đài và đạo
Tin Lành. Các tôn giáo du nhập vào vùng cao nguyên Lâm Viên từ khá sớm và sự
tăng trưởng về số lượng tín đồ, cơ sở thờ tự đều gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của thành phố. Hầu như mỗi cuộc di dân đến đây đều đem lại
cho Đà Lạt thêm một số lượng tín đồ cùng sự hình thành các cơ sở thờ tự mới. Có
mặt sớm nhất ở Đà Lạt là Công giáo, xuất hiện ngay từ những ngày đầu xây dựng
thành phố. Muộn hơn một chút là sự hoằng dương của Phật giáo rồi đến sự du nhập
của đạo Tin Lành và đạo Cao Đài. Tuy hội đủ các loại hình tôn giáo khác nhau,
nhưng các tôn giáo ở Đà Lạt chung sống hòa bình, trong gần 100 năm qua không hề
có những xung đột tôn giáo. Nhiều thánh đường Công giáo nằm bên các chùa chiền
và không xa có thể là một thánh thất Cao Đài. Bên cạnh xứ mệnh mở mang tôn
giáo, những người tu hành của Thiên Chúa giáo, Tin Lành và Phật giáo ở Đà Lạt
còn tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực từ thiện nhân đạo.
Rất nhiều những ngôi trường, cô nhi viện của thành phố xuất phát từ các cơ sở
do những tổ chức tôn giáo thành lập. Theo số liệu của Ủy ban nhân dân thành phố
Đà Lạt vào năm 2002, có khoảng 63% số hộ và 67% số nhân khẩu ở thành phố là tín
đồ của Phật giáo, Cao Đài, Công giáo, hoặc Tin Lành.
Kiến
trúc
Bài
chi tiết: Kiến trúc Đà Lạt và Danh sách công trình kiến trúc Đà Lạt
Nhà ga
xe lửa Đà Lạt, xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, ngày nay trở thành một địa điểm
du lịch.
Đà Lạt
là đô thị duy nhất ở Việt Nam được quy hoạch bài bản ngay từ khi hình thành.
Vào năm 1906, khi nơi đây vẫn còn là một địa điểm hoang vắng, thị trưởng đầu
tiên của Đà Lạt Paul Champoudry đã thiết lập một đồ án tổng quát kèm theo Dự án
chỉnh trang và phân lô cho thành phố tương lai, áp dụng phương pháp quy hoạch
phân khu chức năng rất hiện đại thời kỳ đó. Năm 1921, thời điểm công cuộc kiến
thiết thành phố bước vào giai đoạn mạnh mẽ nhất, kiến trúc sư nổi tiếng Ernest
Hébrard nhận nhiệm vụ xây dựng đồ án quy hoạch với định hướng Đà Lạt có thể trở
thành thủ đô của Liên bang Đông Dương trong tương lai. Đặc biệt quan tâm tới vấn
đề bảo vệ cảnh quan và bố cục không gian thẩm mỹ của thành phố, Ernest Hébrard
đã sử dụng dòng suối Cam Ly như trục cảnh quan trung tâm, kết hợp cùng hệ thống
các hồ nước nhân tạo. Bố cục chính của thành phố được tổ chức dựa trên trục cảnh
quan này và mỗi hồ nước là một trung tâm cảnh quan của các công trình trong một
phân khu chức năng. Sau hơn 10 năm áp dụng đồ án Hébrard, đến năm 1933, kiến
trúc sư Louis Georges Pineau đưa ra nghiên cứu “Chỉnh trang thành phố Đà Lạt” với
những quan niệm thực tế hơn. Louis Georges Pineau kế thừa ý tưởng của Ernest
Hébrard, đề nghị mở rộng hơn nữa các hồ nước và công viên, bố trí các khu vực xây
dựng phù hợp với cảnh trí, khí hậu địa phương, và thiết lập một vùng bất kiến tạo
rộng lớn để bảo vệ tầm nhìn về hướng núi Lang Biang.[158] Năm 1940, trong “Tiền
dự án chỉnh trang và phát triển Đà Lạt”, kiến trúc sư Mondet đề ra phương án
không kéo dài thành phố, mà tổ chức hợp nhóm lại và mở rộng bằng cách ưu tiên sử
dụng những lô đất gần trung tâm. Đồ án của Mondet tuy không được áp dụng nhưng
đã được kiến trúc sư Jacques Lagisquet kế thừa trong “Chương trình chỉnh trang
và phát triển Đà Lạt” năm 1943. Vẫn giữ ý tưởng của Ernest Hébrard về một
“thành phố phong cảnh”, nhưng Jacques Lagisquet quy hoạch xây dựng những khu
trung tâm hành chính, thương mại, khu vực khách sạn, bệnh viện, trường học... để
tạo nên một Đà Lạt nhiều sức sống và những trung tâm hoạt động hấp dẫn thu hút
dân chúng.[160] Tuy có những quan điểm khác biệt, nhưng các đồ án quy hoạch của
Hébrard, Pineau, Mondet và Lagisquet mang tính kế thừa lẫn nhau và chung một ý
tưởng xuyên suốt: Đà Lạt là một thành phố du dịch với cảnh quan thiên nhiên
tươi đẹp.
Thành
phố Đà Lạt được ví như một bảo tàng kiến trúc phương Tây đầu thế kỷ 20 với nhiều
công trình nổi tiếng và những biệt thự xinh đẹp. Các công trình kiến trúc tiêu
biểu nơi đây đều chọn lựa bố cục tổng thể theo hình khối nằm ngang ổn định, gắn
kết chặt chẽ với địa hình và hòa hợp với thiên nhiên. Những công trình xây dựng
dưới thời thuộc địa đều có cơ sở thiết kế phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa
phương và điều kiện sinh hoạt của cư dân. Trải qua một thời gian dài xây dựng
thành phố, phong cách kiến trúc đã có nhiều thay đổi, từ phong cách kiến trúc
thuộc địa tiền kỳ đơn giản với những cửa cuốn vòm và hành lang bao quanh, tới
phong cách Tân cổ điển với những trang trí phong phú, đến phong cách kiến trúc
địa phương Pháp của những ngôi biệt thự, và phong cách kiến trúc Hiện đại với
nhiều hình khối, bố cục phi đối xứng ở các dinh thự. Tuy Đà Lạt mang đậm dấu ấn
của những kiến trúc sư người Pháp, nhưng các nhà kiến trúc này khi thiết kế những
công trình cho Đà Lạt cũng đã chịu ảnh hưởng của đặc điểm thiên nhiên, đặc biệt
là các điều kiện về khí hậu thời tiết, cảnh quan môi trường nơi đây. Hiện tượng
giao thao này đã đem lại cho Đà Lạt một phong cách kiến trúc riêng độc đáo và
nhiều bản sắc. Tuy vậy, sau nhiều thập niên phát triển thiếu quy hoạch và buông
lỏng quản lý, kiến trúc đặc sắc của Đà Lạt đã chịu nhiều biến dạng. Tình trạng
xây cất trái phép, không phù hợp với quy hoạch, lấn chiếm những khu vực trống,
tàn phá rừng nội ô... khiến bộ mặt kiến trúc đô thị của Ðà Lạt ngày nay trở nên
nhem nhuốc. Không ít công trình kiến trúc giá trị không được bảo tồn tốt phải hứng
chịu sự tàn phá của thời gian. Trong khắp thành phố, nhiều ngôi biệt thự cổ bị
bỏ hoang hoặc biến thành chung cư, nhà trọ. Năm 2010, chính quyền tỉnh Lâm Ðồng
thông báo quyết định mời một nhóm kiến trúc sư thuộc Viện Thiết kế quy hoạch đô
thị Paris và một công ty thiết kế quy hoạch khác của Pháp thực hiện quy hoạch lại
Ðà Lạt.
Công
trình kiến trúc Đà Lạt
Nhà thờ Domaine de Marie
Viện Sinh học Tây Nguyên
Dinh Bảo Đại
Biệt thự Hằng Nga
Thiền viện Trúc Lâm
Văn hóa và truyền thông
Địa điểm văn hóa
Thư viện Lâm Đồng, thư viện duy nhất của Đà Lạt nếu không
tính các thư viện trong cơ quan, trường học.
Mặc dù là một thành phố du lịch nổi tiếng, đô thị
trung tâm của vùng Tây Nguyên, Đà Lạt lại rất thiếu vắng các địa điểm văn hóa
và giải trí. Thành phố chỉ có một bảo tàng, một rạp chiếu phim và không có một
nhà hát hay sân khấu nào. Trước đây, dù dân số Đà Lạt chỉ khoảng 70 ngàn người,
thành phố có đến 4 rạp chiếu phim, gồm rạp Hòa Bình hay rạp 3-4, rạp Ngọc Lan,
rạp Ngọc Hiệp, và một rạp mini trên đường Trương Công Định. Sau năm 1975, Đà Lạt
còn có thêm rạp hát của Nhà Thiếu nhi. Nhưng cùng với thời gian, bốn rạp chiếu
phim đã bị phá bỏ, thay thế bởi các khách sạn hoặc công trình khác. Thành phố
hiện nay chỉ còn lại rạp 3-4, xây dựng cách đây hơn nửa thế kỷ. Mặc dù vậy, rạp
chiếu này cùng khu Hòa Bình cũng bị dự định dỡ bỏ để quy hoạch lại. Các thiết
chế văn hóa chủ yếu ở Đà Lạt ngày nay còn có Thư viện tỉnh Lâm Đồng,Bảo tàng
Lâm Đồng và Nhà Thiếu nhi Lâm Đồng.
Thư viện
tỉnh Lâm Đồng nằm ở số 22 đường Trần Phú, vốn là Thư viện Đà Lạt thành lập từ
năm 1958 trên cơ sở tiếp quản toàn bộ khuôn viên tòa thị chính thị xã Đà Lạt.
Sau năm 1975, cơ sở này được giao cho cơ quan văn hóa quản lý. Năm 1976, Thư viện
tỉnh Lâm Đồng được thành lập dựa trên nền tảng Thư viện Đà Lạt và hàng ngàn bản
sách do Thư viện Hà Giang gửi tặng. Hiện nay, thư viện lưu giữ trên 200.000 bản
sách và hàng chục ngàn bản báo và tạp chí, phục vụ 35.397 lượt độc giả trong
năm 2011. Năm 1978, Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng được thành lập với các hiện vật về
dân tộc học từ một số bộ sưu tập cá nhân và của chính quyền Việt Nam Cộng hòa để
lại. Vào thời điểm ra đời, bảo tàng nằm ở số 31 đường Trần Bình Trọng. Sau nhiều
lần thay đổi địa điểm, năm 1999, Bảo tàng Lâm Đồng chuyển về số 4 đường Hùng
Vương, vốn là biệt thự của điền chủ Nguyễn Hữu Hào, cha của Hoàng hậu Nam
Phương. Ngày nay, Bảo tàng Lâm Đồng được xem như bảo tàng tổng hợp về khảo cứu
địa phương, lưu giữ khoảng hơn 15.000 hiện vật về các nghiên cứu, phát hiện khảo
cổ học, dân tộc học, lịch sử và hai cuộc chiến tranh. Năm 2011, nơi đây đã đón
16.949 lượt khách tới tham quan.
Cơ
quan truyền thông
Từ năm
1949, thành phố Đà Lạt đã có đài phát thanh, Radio Dalat là một trong bốn đài
phát thanh thành lập đầu tiên ở Việt Nam. Trước đó, vào tháng 8 năm 1945, Ủy
ban khởi nghĩa Đà Lạt - Lâm Viên từng thiết lập một trạm truyền thanh trong một
căn phòng nhỏ ở trước chợ trung tâm Đà Lạt, ngày nay là rạp 3-4, dùng cho mục
đích tuyên truyền. Radio Dalat thời gian đầu được đặt trên tầng ba của khách sạn
Hôtel du Parc, phát thanh hàng ngày bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Cơ Ho.
Tháng 4 năm 1975, quân đội miền Bắc tiến vào Đà Lạt, tiếp quản cơ sở của Đài
Phát thanh Đà Lạt, thiết lập nên Đài Phát thanh Đà Lạt giải phóng. Nhờ sự trợ
giúp kỹ thuật của Truyền hình Việt Nam, tháng 9 năm 1977, một trạm tiếp sóng
truyền hình được xây dựng tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế thuộc Phường 7, tiếp
sóng kênh 9 Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1984, Ủy ban Nhân dân tỉnh
quyết định đổi tên Đài Phát thanh Lâm Đồng thành Đài Phát thanh – Truyền hình
Lâm Đồng. Hiện nay, cùng với việc tiếp phát sóng của hai đài quốc gia, chương
trình truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng phát sóng 11 giờ mỗi
ngày, chương trình phát thanh phát sóng 7 giờ mỗi ngày. Bên cạnh Đài Phát thanh
– Truyền hình Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt còn có Đài Truyền thanh – Truyền hình
Đà Lạt, nằm ở số 4 đường Thủ Khoa Huân. Là trung tâm hành chính của Lâm Đồng, ở
Đà Lạt có sự hiện diện của nhiều tờ báo, tạp chí của tỉnh, trong đó quan trọng
nhất là Báo Lâm Đồng. Tờ báo này ra số đầu tiên vào ngày 19 tháng 8 năm năm
1977, hiện nay phát hành 3 số mỗi tuần vào thứ ba, thứ năm và thứ bảy. Báo Lâm
Đồng cũng có một ấn bản điện tử cập nhật hàng tuần vào ngày thứ sáu với nội
dung tổng hợp từ tin bài của các số báo in. Ngoài ra, báo chí Đà Lạt có thể kể
đến các tờ tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ của Sở Khoa học và Công nghệ,
tạp chí Lang Bian của Hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng, tạp chí Du lịch Đà Lạt của
Sở Du lịch và Thương mại.
Đà Lạt
với nghệ thuật
Thành phố Đà Lạt thơ mộng là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác
phẩm nghệ thuật, đặc biệt trong các lĩnh vực âm nhạc, nhiếp ảnh và văn chương.
Những tác phẩm đầu tiên viết về Đà Lạt chủ yếu là nhật ký và ghi chép của các
nhà thám hiểm như bác sỹ Paul Néis, trung úy Albert Septans, bác sỹ Alexandre
Yersin... tất cả đều được viết bằng tiếng Pháp. Tác phẩm về Đà Lạt đầu tiên của
người Việt có lẽ là Lâm Viên hành trình nhật ký của Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư
Bộ công của triều đình Huế, người lên Đà Lạt năm 1917 để nghiên cứu việc xây dựng
hành cung. Khi nơi đây dần trở thành một thành phố, trên báo chí bắt đầu xuất
hiện những bài viết, phóng sự về Đà Lạt. Trong lĩnh vực thi ca, ghi lại dấu ấn
trong giai đoạn đầu này là hai bài thơ Đà Lạt trăng mờ của Hàn Mặc Tử và Đà Lạt
đêm sương của Quách Tấn.[180] Khoảng thời gian 1954 đến 1975, khi Đà Lạt là một
trong những trung tâm tri thức của miền Nam Việt Nam, các tác phẩm với bối cảnh
thành phố cũng ra đời nhiều hơn, như truyện dài Hoa bươm bướm của Võ Hồng, Vòng
tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng, Con đường của Nguyễn Đình Toàn, các tiểu thuyết
Tóc Mây và Thung lũng tình yêu của Lệ Hằng hay tập truyện ngắn Bay đi những cơn
mưa phùn của Phạm Công Thiện. Đà Lạt cũng là nơi các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
đương thời như Nhất Linh, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng... thường ghé qua.
Quán
Café Tùng ở trung tâm thành phố, nơiKhánh Ly và Trịnh Công Sơn lần đầu gặp gỡ
vào năm 1964.
Với âm
nhạc, trong rất nhiều các tác phẩm viết về Đà Lạt, có thể kể đến những ca khúc
nổi tiếng như "Thành phố buồn" của Lam Phương, "Thương về miền đất
lạnh" và "Đà Lạt hoàng hôn" của Minh Kỳ, "Còn nắng trên đồi"
của Lê Uyên Phương, hay "Ai lên xứ hoa đào" và "Bài thơ hoa
đào" của Hoàng Nguyên. Đà Lạt cũng là thành phố gắn bó với nhiều nhạc sỹ,
nghệ sỹ tên tuổi của tân nhạc Việt Nam. Trong những năm đầu sự nghiệp, nữ danh
ca Khánh Ly sống tại Đà Lạt và hát cho các phòng trà nơi đây. Năm 1964, Khánh
Ly gặp nhạc sỹ Trịnh Công Sơn trong quán Café Tùng và cuộc hội ngộ này đã tạo
nên một cặp đôi nổi tiếng của âm nhạc Việt Nam. Trước khi chuyển về Sài Gòn,
quán Café Tùng – ngày nay vẫn nằm trong trung tâm thành phố – thường là nơi lui
tới của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn và ca sĩ Khánh Ly. Một cặp đôi nổi tiếng khác
cũng gặp gỡ tại Đà Lạt và từng gắn bó với thành phố này là nhạc sỹ Lê Uyên
Phương và ca sĩ Lê Uyên.
Phong
cảnh và con người Đà Lạt, Lâm Đồng đã trở thành đề tài khai thác của rất nhiều
nhiếp ảnh gia Việt Nam. Những năm gần đây, không ít những triển lãm với đề tài
Đà Lạt đã được tổ chức tại chính thành phố hoặc ở những đô thị khác. Triển lãm ảnh
"Đà Lạt xưa" với sự tham gia của các nhiếp ảnh gia danh tiếng của Việt
Nam và nước ngoài được tạp chí Xưa & Nay tổ chức tại khách sạn Sammy Đà Lạt
năm 2008. Năm 2010, triển lãm ảnh "Đà Lạt - Cadasa" tại Công trường
Lam Sơn, Thành phố Hồ Chí Minh, đã trưng bày tác phẩm của những nữ nghệ sĩ nhiếp
ảnh về các biệt thự cổ vừa được trùng tu trên đường Trần Hưng Đạo, phản ảnh sự
hồi sinh của quần thể biệt thự cổ và ý thức về trách nhiệm giữ gìn di sản kiến
trúc, văn hóa và lịch sử. Năm 2010, những bức ảnh về Đà Lạt được đưa đến tham dự
triển lãm tại thành phố Nam Ninh, Trung Quốcnhằm mang hình ảnh của "Đà Lạt
- thành phố hoa" đến với ASEAN. Đây là hội chợ triển lãm những thành phố đẹp
thuộc các nước ASEAN diễn ra hàng năm tại Trung Quốc và Đà Lạt là thành phố Việt
Nam được chọn triển lãm nhằm giới thiệu, trưng bày, quảng bá những hình ảnh địa
phương tới du khách. Vào năm 2000, tại Liên hoan ảnh nghệ thuật quốc tế
Hassemblad Austrian Super Circuit ở Áo, câu lạc bộ Nhiếp ảnh Đà Lạt đã được ban
tổ chức tặng Cúp vàng và bình chọn là câu lạc bộ có bộ ảnh dự thi đẹp nhất
trong số 41 ngàn bức ảnh từ hơn 120 nước trên thế giới.
Trong
lĩnh vực nghệ thuật thứ bảy, Đà Lạt là nơi lý tưởng mà nhiều đạo diễn truyền
hình và điện ảnh trong nước chọn làm địa điểm quay phim. Thành phố thu hút các
nhà làm phim nhờ giá sinh hoạt tương đối thấp và dễ dàng tìm được bối cảnh cho
những cảnh quay đẹp. Một lý do khác, khí hậu mát mẻ, dễ chịu của Đà Lạt cũng tạo
nhiều thuận lợi trong việc làm phim. Với những lợi thế để trở thành một phim
trường thực sự, bao gồm phong cảnh thiên nhiên ưu đãi và những thắng cảnh,
không gian những tòa kiến trúc, biệt thự, Đà Lạt từng có dự án đầu tư một phim
trường và khu công viên nghệ sỹ tại Khu du lịch hồ Tuyền Lâm, tuy vậy đến thời
điểm 2011, dự án này vẫn chưa được triển khai. Trong lịch sử điện ảnh Việt Nam,
có thể thấy không ít những bộ phim lấy bối cảnh Đà Lạt, trong số đó có thể kể đến
như Con ma nhà họ Hứa (1973), Giỡn mặt tử thần (1975), Tình nhỏ làm sao quên
(1993), Khi yêu đừng quay đầu lại (2010)...
No comments:
Post a Comment