Saturday, February 22, 2014

HỒN BƯỚM MƠ TIÊN - PHẦN I

Chương 1
Trên con đường Bắc Ninh Đông Triều chiếc ô xe ô tô hàng bon bon chạy. Bỗng một người hành khách vận âu phục thò đầu ra cửa ngơ ngác nhìn rồi kêu:

- Cho tôi xuống đây!
Sau một tiếng còi lanh lãnh, xe từ từ đỗ. Người hành khách xuống xe, đi rẽ sang tay phải theo con đường đất gồ ghề, cong queo.
Tuy lúc đó đã vào quãng năm giờ chiều, mà lửa tháng năm hãy còn gay gắt. Mặt trời xiên ánh sáng xuống cái lạch nước phía bên đường, rồi phản chiếu lên, khiến người lữ hành phải đội nghiêng cái mũ dạ về bên trái để che cho khỏi chói mắt.
Hai bên đường, lúa chiêm vàng ối. Từng bọn vừa đàn ông, đàn bà, con gái, cúi khom lưng cầm liềm nhỏ cắt lúa trông dáng vội vàng chăm chỉ lắm, như sợ trời sắp tối không đủ thời giờ mà gặt xong thửa ruộng. Một bọn nữa phần đông lực lượng, người thì lấy sức rít dây lạt bó các lượm lúa lại thành từng bó, người thì cắm đòn sóc xuống đất đứng bắt chéo chân, nhìn vơ vẫn.
Trong một thửa ruộng ngay sát chân đồi, một đám hơn mười người con gái, công việc đã xong, ngồi nghỉ trên những bó lúa xếp thành từng đống ở bên vệ đường để chờ bọn đàn ông trở lại gánh nốt.
Thấy người lữ hành một cô trỏ bạn:
- Chị em ôi, nhà tôi đã về kia kìa...
Mọi người cười rộ. Một cô nữa hát ví:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài nhời
Đi đâu vội mấy anh ôi?
Công việc đã có chị tôi ở nhà.
Các cô vỗ tay, cười rũ rượi. Lữ khách như đã biết tiếng con gái vùng Bắc đáo để, cắm đầu rảo bước trên đường, không ngảnh cổ lại. Thì cô hát ví lại đứng dậy như muốn chạy đuổi theo và gọi:
- Này anh, anh đưa va li đây em xách cho. Khốn nạn, thương hại! Nhà tôi đi đường mệt nhọc, mồ hôi, mồ kê thế kia kìa...
Lữ khách đi đã xa, còn nghe văng vẳng sau lưng câu hát ghẹo:
Anh về kẻo tối, anh ơi, Kẻo bác mẹ mắng rằng tôi dỗ dành.
Qua cánh đồng lúa, lữ khách đi vào một con đường tối, giữa hai đồi cây cối um tùm. Đường đã gồ ghề lại phải lên dốc, nên lữ khách mệt nhoài, đặt va li xuống, ngồi thở.
Lúc bấy giờ, ở vườn sắn bên đồi một chú tiểu quần nâu áo nâu, chân đi đôi dép quai ngang sơ sài, đầu đội cái thúng đầy sắn, đương lần từng bước leo xuống con đường hẻm. Thốt gặp người lại, chú bẽn lẽn, hai má đỏ bừng. Có lẽ vì chú tu hành ở vùng quê, không trông thấy người vận tây mấy khi, nên chú sợ hãi chăng?
Người kia thấy chú giật lùi lại một bước, thì mỉm cười ngả mũ chào, rồi hỏi:
- Thưa chú, chú làm ơn bảo giùm cho từ đây vào chùa Long Giáng đường còn xa hay gần?
Chú tiểu tò mò nhìn lữ khách, hỏi lại:
- Thưa ông, ông có phải là ông Ngọc không?
- Vâng chính phải tôi là Ngọc, nhưng sao chú biết?
Chú tiểu hai má càng đỏ ửng, cúi đầu trả lời:
- Thưa ông, vì mấy hôm nay cụ thường nhắc đến ông, cụ nói ông sắp lên chơi vãn cảnh chùa.
- Vậy ra chú cũng ở chùa Long Giáng?
- Vâng.
- Thế chú cũng về chùa?
- Vâng.
- Gần đến nơi chưa, chú?
- Đi hết con đường đồi này thì trông thấy chùa.
Ngọc đứng dậy xách va li nói:
- Vậy ta cùng về chùa?
Ngọc đi bên cạnh chú tiểu liếc mắt nhìn trộm, nghĩ thầm:
"Quái lạ! Sao ở vùng nhà quê lại có người đẹp trai đến thế, nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng trong trẻo như tiếng con gái."
Rồi chàng quay lại hỏi chú tiểu:
- Chú tu ở chùa này từ bao lâu?
- Thưa ông, mới hơn hai năm nay.
Chú tiểu chừng muốn đổi sang câu chuyện khác thốt nhiên hỏi Ngọc:
- Thưa ông, ông là cháu cụ Long Giáng tôi?
- Phải.
- Cháu gọi bằng bác.
- Phải.
- Ông học trường Canh Nông?
- Phải, chú biết tường tận lắm nhỉ?
Chú tiểu cười gượng:
- Ấy, cụ tôi vẫn nói chuyện đến ông luôn.
Lúc hai người ở con đường hẻm đi ra, thì mặt trời đã khuất sau đồi. Gió chiều hây hẩy đã mát, mùa lúa chín bốc lên thơm phức, khiến Ngọc ngắm cảnh nơi thôn dã êm đềm, trong lòng xiết bao tình cảm.
- Chú tu ở vùng này thú nhỉ?
- Thưa ông, đã xa nơi trần tục mà mến cảnh chiền am thì không còn lấy gì làm vui thú nữa.z Nghe câu nói có vẻ con nhà có học, Ngọc mỉm cười hỏi chú tiểu:
- Chú biết chữ nào?
- Vâng, nhờ ơn cụ dạy bảo, tôi cũng võ vẽ đọc được kinh kệ.
- Thế thì đi tu sướng lắm, chú ạ. Có cảnh đẹp... Lại có sách kinh phật mà đọc để quên cuộc đời náo nhiệt phiền phức... Hay tôi xin phép cụ ở lại chùa, tu với chú nhé?
Chú tiểu quay mặt nhìn sang phía bên đường rồi giơ tay trỏ bảo Ngọc, như muốn nói lảng:
- Thưa ông, chùa Long Giáng kia rồi.
Hai người đứng lại ngắm chùa. Lưng chừng một trái đồi cao, mái ngói mốc rêu chen lẫn trong đám cây rậm rịt, bốn góc gác chuông vượt lên trên từng lá xanh um.
- Chùa đẹp quá, chú nhỉ?
- Vâng, Long Giáng là một danh lam thắng cảnh ở vùng Bắc. Cụ tôi thường thuật cho tôi nghe rằng chùa này dựng lên đời Lý Nhân Tôn. Trước chỉ là một cái am nhỏ lợp gianh, sau vì có một bà công chúa đơn xin nương nhờ cửa Phật, nên nhà vua mới sửa sang nguy nga như thế. Câu chuyện thụ pháp của công chúa thực tỏ ra rằng phép Phật huyền diệu biết bao.
Chú làm ơn kể lại cho tôi nghe có được không?
- Vâng, tôi xin thuật hầu ông nghe những lời cụ tôi đã kể. Chắc ông cũng biết đức Thái Tổ nhà Lý, khi còn hàn vi, nhờ đạo Phật rất nhiều nên lúc Ngài lên ngôi rồi, Ngài dốc lòng chăm chỉ sửa sang các chùa chiền. Đến đức Nhân Tôn vì bận việc chinh phục Chiêm Thành và chống chọi với nước Tàu nên trễ nãi đạo Phật.
"Ngọc Hoàng Thượng đế muốn giúp nhà vua tỉnh ngộ, liền cho một nàng tiên nga giáng thế đầu thai, tức là Văn Khôi công chúa. Công chúa nhan sắc diễm lệ một thời, nhưng khi lớn lên, chỉ ngày đêm học đạo tu hành. Sau vì nhà vua cố ý kén phò mã, công chúa liền đương đêm lẻn bước trốn đi, nhờ có các thần tiên đưa đường tới nơi này xin thụ pháp đức Cao Huyền hòa thượng.
"Về sau có thám tử báo tin, đức vua mấy phen cho quan quân đến chùa đón công chúa về triều. Công chúa nhất định không nghe. Nhà vua nổi giận, truyền quan quân phóng hỏa đốt chùa. Ngọn lửa vừa nhóm, bổng một con rồng vàng hiện lên phun nước tắt ngay. Vì thế chùa này mới lấy tên Long Giáng từ thuở ấy. Nhà vua nghe tin cả sợ. Từ đó Ngài dốc lòng tin theo phép mầu nhiệm của đức Thích Ca Mâu Ni và lập tức cho sửa sang chùa để công chúa ở lại tu hành. Chùa này vì thế bắt đầu trùng tu từ thời ấy, đã bao phen tu bổ lại, nhưng kiểu chùa vẫn y nguyên như cũ.
Ngọc mỉm cười:
- Chú biết rộng lắm nhỉ?
Chú tiểu cúi mặt nhìn xuống đất, se sẽ đáp:
- Thưa ông, đấy là cụ tôi kể cho nghe, tôi chỉ thuật lại mà thôi.
- Nhưng chú thuật khéo lắm. Lại thêm chú có cái giọng dịu dàng êm ái quá.
Lần này là lần thứ ba, chú tiểu nói lảng:
- Chết chửa, đi mãi. Nay đến phiên tôi thỉnh chuông. Ta đi thôi, không về trễ cụ quở...
- Ở chùa không còn ai?
- Có chú Mộc nhưng nay đến phiên tôi.
- Cụ chưa thấy chú về, chắc cũng bảo chú Mộc đánh chuông thay chứ gì?
Nói dứt thời thì ngẫu nhiên chuông đâu như đáp lại, khoan thai dõng dạc buông tiếng. Ngọc mỉm cười:
- Đấy, chú coi, tôi nói có sai đâu.
Phía tây, sau dãy đồi cỏ biếc, sắc trời đỏ ửng, lấp loáng qua các khe đám lá xanh đen. Mái chùa rêu phong đã lẫn màu cùng đất, cùng cây, cùng cỏ. Khỏanh khắc, mấy bức tường và mấy cái cột gạch quét vôi chỉ còn lờ mờ in hình trong cảnh nhuộm đồng một màu tím thẩm.
Trong làng không khí yên tĩnh, tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp cảnh thiên nhiên. Lá cây rung động, ngọi khói thướt tha, bông lúa sột soạt, như cảm tiếng gọi của Mâu Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch.
Ngọc liếc mắt nhìn chú tiểu, thấy chú vừa đi, miệng vừa lâm râm cầu nguyện, nét mặt có vẻ mặt tưởng trầm tư.
Cái buồn rất hay lây. Đi cùng đường với một người, hình dung cho chí tâm hồn phải đều nhuộm một vẻ ủ ê chán ngán, Ngọc cảm thấy trong lòng nảy ra mối sầu vẫn vơ, man mác và đoái nghĩ tới cảnh náo nhiệt phiền phức ở Hà Thành.
Nhưng tuổi thanh niên dễ buồn mà cũng dễ vui. Lúc ấy lên đồi, đường đi khấp khểnh, đá sỏi thì trơn, lại thêm trời nhá nhem sắp tối, nên Ngọc trượt chân suýt ngã, văng cái va li xuống sườn đồi. Chú tiểu vội kêu:
- Chết chửa! Ông có can gì không?
- Không.
Ngọc toan trèo xuống dốc nhặt va li thì chú tiểu đã vội đặt thúng sắn, thoăn thoắt chạy xách lên.
- Cảm ơn chú.
Hai người cười ồ. Chú tiểu nói:
- Ông nên cẩn thận, gần đến chùa rồi có cái giếng cạn ở bên đường khéo mà ngã xuống đấy thì khốn. Để tôi đi trước dẫn đường cho.
- Cảm ơn chú. À quên, tôi chưa hỏi tên chú gì?
- Tôi là Lan.
Rồi chú trỏ tay bảo Ngọc:
- Tam quan đây rồi.
Tam quan chùa Long Giáng cũng như nhiều tam quan các chùa vùng Bắc, cách kiến trúc rất sơ sài. Trông như cái quán, có ba gian hẹp, trên nóc làm dô lên một cái mái nhỏ giống hệt cái miếu con. Vả tam quan không có cánh cửa mà hình như chỉ một cảnh để bài trí cho đẹp mắt chứ không dùng để ra vào. Vì thế tam quan xây ngay trên sườn đồi đứng thẳng như bức tường không ai leo lên được. Còn ra vào đã có cái cổng con.
Chú tiểu Lan đưa Ngọc đi qua một cái vườn sắn, rồi vòng quanh một bức tường hoa. Một người điền tốt, cởi trần, quần nâu ống xoắn lên qua gối ở trong bếp chạy ra. Anh ta chưa kịp trông thấy Ngọc, vội vã gắt với chú tiểu:
- Kìa chú Lan, cụ vừa quở chú đấy.
- Cụ đâu?
- Cụ đương làm lễ ở trên chùa. Sao hôm nay chú về muộn thế?
Chú tiểu vừa nói vừa trỏ Ngọc đứng cách đấy mấy bước:
- Tôi gặp ông Ngọc là cháu cụ đến vãn cảnh chùa nên đi hơi chậm, chú bảo chú Mộc lấy gạo tám thổi cơm nhé, để ông Ngọc xơi cơm.
Ngọc đỡ lời:
Thôi đi, chú cho tự nhiên, tôi ăn cùng một thứ cơm với các chú cũng được mà.
Anh điền tốt cười:
- Thưa ông, chúng tôi ăn cơm hẩm với dưa xơi sao được.
Chú tiểu Lan mỉm cười:
Vâng, ông nói rất phải. Đã đến cảnh chùa thì cũng phải ăn kham khổ. Trước cụ tôi cũng chỉ xơi cơm hẩm. Mấy năm nay, vì cụ tuổi tác, yếu đuối mà xơi mỗi bữa có một chén, nên nhà chùa cấy riêng một mẩu tám để cụ dùng. Nhưng mời ông hãy vào nghỉ trong nhà tổ để đợi cụ xuống.
Ngọc theo chú tiểu đi vào một tòa nhà gỗ thấp lợp ngói, bên trong bày trí rất sơ sài. Ở gian giữa sau cái bệ đất trên giải chiếc chiếu đã cũ là bàn thờ Tổ đặt trong một cái hậu cung xây thùng ra như cái miếu. Ngọc vén bức màn vải tây đỏ lên thấy bày xếp hàng đến hai chục pho tượng, liền hỏi chú tiểu:
- Đây là các vị sư tổ có phải không, chú?
Không nghe tiếng trả lời, Ngọc quay lại thì chú tiểu đã đi từ bao giờ. Ngồi đợi một lúc lâu, Ngọc vẫn không thấy ai ra vào.
Trời dần dần tối. Một lát sau, trông không rõ các thứ bày trong nữa. Lại thêm ngoài sân lờ mờ có bóng trăng, nên ở chỗ tối nhìn ra, thấy như mình ngồi trong một cái hang sâu vậy.
Ngọc vừa mệt, vừa khát đương mong có người nào để xin chén nước thì qua cái giại che hiên thấp thoáng có ánh đèn từ dưới bếp đi lên. Rồi tiếng người nói:
- Này chú Mộc, tôi đã bạch cụ rồi. Cụ sắp xuống đấy. À, trong khi tôi bận làm đèn thì chú đã lấy nước để ông Ngọc rửa mặt chưa?
Tiếng trả lời:
- Chưa, tôi đang bận giã vừng.
- Thế bà Hộ đâu? Nhưng thôi, tôi đem đèn lên rồi tôi lấy cũng được.
Chú Lan bước vào. Cây đèn dầu quả hình búp măng chiếu sáng lên, mặt chú trông càng xinh lắm. Ngọc ngắm chú lại tưởng đến bức tranh người con gái Nhật cầm chiếc đèn xếp của họa sĩ Ung đang mang to. Nụ cười tự nhiên trở trên môi Ngọc khiến chú tiểu ngước mắt trông thấy, ngượng nghịu lúng túng, đặt cây đèn xuống thư rồi vội bước ra ngoài.
- Này chú Lan, chú làm ơn cho tôi xin ấm nước nhé.
Chú tiểu, chân trong chân ngoài quay cổ lại trả lời:
- Vâng, mời ông ngồi chơi, rồi lát nữa xuống nhà trai xơi nước và xơi cơm.
- Thì chú đi đâu vội thế? Hãy vào đây tôi hỏi câu chuyện đã.
Chú Lan ngần ngừ bước vào:
- Thưa ông, đây là nhà tổ; sư Tổ thụ trai, nghĩa là xơi cơm ở buồng bên. Còn khách thập phương thì xơi cơm nước ở nhà trai, cũng như nhà khách của các ông.
- Phải đấy, chú giảng nghĩa cho tôi biết ít nhiều phong tục nhà chùa. Này chú, ở nhà Tổ thì thờ các sư Tổ, nhưng hai gian bên cạnh này thờ ai thế?
- Đấy là các hậu. Nghĩa là những người không có thừa tự, bầu hậu ở chùa thì nhà chùa cúng cho.
Có tiếng guốc lộp cộp ở ngoài hiên. Ngọc nhìn ra: Một vị hòa thượng mình mặt áo vải nâu rộng, chân đi đôi guốc gốc tre già, tay chống cái gậy trúc, ung dung bước vào.
Ngọc đứng dậy chấp tay vái:
- Lạy bác ạ.
- Cháu đấy à? Cháu đã được nghỉ hè rồi?
- Vâng.
- Me cháu được mạnh chứ?
- Cảm ơn bác, me cháu nhờ giời vẫn mạnh.
Chú Lan nghe Ngọc nói, tủm tỉm cười, đi ra. Mấy phút sau chú bưng lên thau nước, Ngọc trông thấy vội vàng đứng ra hiên:
- Cám ơn chú, chú để đấy cho tôi.
Sư cụ nói tiếp:
- Sao không lấy ghế đẩu? Chú không thấy thầy ấy vận quần áo tây à?
Ngọc đỡ lời:
- Được, bác để mặc cháu.
Rồi trỏ vào cái khăn mặt vải ta nhuộm màu nâu còn mới, hỏi chú tiểu:
- Khăn của chú đấy chứ, chú Lan?
- Thưa ông, khăn mới lấy ở hòm ra đấy ạ.
Sư cụ mắng:
- Sao không lấy khăn mặc bông để thầy ấy dùng?
Rồi quay lại hỏi Ngọc:
- Cháu mới đến nhà chùa mà đã biết tên chú ấy là Lan?
- Thưa bác, cháu gặp chú Lan hỏi chuyện nên biết.
Lúc đó Ngọc lại thấy chú tiểu cười. Liền hỏi thầm:
- Sao chú cười tôi?
Lan khẽ đáp:
- Vì thấy ông xưng cụ là bác. Ông nên bạch cụ. Đã xuất gia tu hành thì người nhà dẫu thân đến đâu cũng không nhận được họ.
Ngọc mỉm cười:
- Thế à? Cảm ơn chú, nhé. Xưa nay tôi không hỏi tường tận nên không biết.
Một lát, chú Mộc lên mời Ngọc xuống nhà trai ăn cơm. Ngọc đứng lên xin phép sư cụ rồi theo chú tiểu đi qua sân, tới một nếp nhà ngang dài đến mười gian, nhưng chỉ để ba gian làm nhà tiếp khách thập phương, còn thì ngăn ra từng buồng làm phòng ngủ. Ở đây bài trí có phần lịch sự hơn ở nhà Tổ: gian giữa, giáp cái sạp gỗ mít, kê một cái bàn, và đôi tràng kỷ lim lâu ngày đã đen bóng. Trên xà treo một cái đèn ba giây, có chụp thủy tinh men trắng. Hai bên kê sát từ tường ra tới gưỡng cửa ba bộ ghế ngựa quang dầu ghép liền với nhau.
Ngọc nhác nhìn mâm cơm đặt trên bàn mủm mỉm cười. Buổi tối thấy nhà chùa có vẻ náo nhiệt, nhộn nhịp, kẻ lên người xuống, lách cách bát đĩa, nồi mâm, chàng vẫn tưởng các chú tiểu sửa soạn một bữa tiệc sang để thết khách quý. Ai ngờ trên chiếc mâm gỗ vuông chỉ lỏng chỏng có đĩa dưa, đĩa cà và đĩa muối vừng.
Lúc đó chú Lan bưng lên một bát đậu phụng kho tương, khói bay nghi ngút. Chú hơi cau mặt, hỏi chú Mộc:
- Sao chú không bảo bà Hộ rán đậu?
- Dầu lạc hết rồi, mai mới mua được.
Chú Lan quay lại nói với Ngọc:
- Thưa ông, bữa nay ông hãy xơi tạm. Nếu mai ông muốn dùng cơm mặn, xin bảo bà Hộ làm riêng để ông dùng.
Ngọc tươi cười đáp:
- Cảm ơn chú, nhưng tôi thích ăn cơm chay.
- Ông quen ăn mặn nên dùng vài bữa cho biết mùi, chứ ông ăn mãi cơm chay thế nào được.
- Được chứ. Bên tây cũng có người chỉ ăn rau cùng hoa quả quanh năm mà lại khỏe mạnh hơn là ăn thịt.
- Thế à, thưa ông? Nếu vậy càng hay.
- Không những tôi thích ăn chay, tôi lại muốn xin phép cụ được cùng ăn với hai chú cho vui.
Chú Lan cười:
- Thế không được.
- Sao vậy? Tôi chỉ muốn nếm mọi sự tham khổ của đạo Phật, vì tôi thấy tôi yêu đạo Phật lắm, nhất từ ngày tôi bị....
Nói đến đấy, Ngọc ngừng ngay lại. Suýt nữa chàng đem chuyện riêng của mình ra thổ lộ với chú tiểu. Ngọc không hiểu vì đâu lúc mới gặp chú Lan chàng đã có lòng quyến luyến, và, như người gặp bạn thân, muốn đem hết những sự đau đớn phiền muộn của mình cùng chú chia xẻ.
Ngọc ngồi âm thầm nghĩ ngợi, hình như đương ôn lại một quãng đời dĩ vãng thì chú Lan đã xới bát cơm đặt lên mâm, nói:
- Mời ông xơi cơm.
- Cảm ơn chú. Sao chú bảo tôi không thể ngồi ăn với các chú được?
- Thưa ông, có hai cớ: một là, như thế người ta cười, hai là, chúng ta đã tu hành, thì không phải ăn kham khổ, mà lại không được ngồi cùng mâm với...
- Với người trần tục, phải không?
- Nghĩa là người không tu hành. Như đến mai có dọn cơm ông ngồi xơi hầu cụ cũng phải bưng hai mâm, chứ không được ngồi cùng mâm với cụ.
- Lạ nhỉ? Nhưng nếu như tôi cũng đi tu thì được chứ?
Chú Lan mỉm cười:
- Vâng, nếu ông thụ giới, nhưng khi nào ông lên chức sư cụ thì mới được, nghĩa là ít ra cũng ba mươi năm nữa.
Lúc đó nghe có tiếng mõ. Chú Lan vội vàng chạy lên nhà tổ. Ngọc cũng bắt đầu ăn cơm. Quay ra phía bên thấy chú Mộc đứng khoanh tay, Ngọc liền hỏi:
- Sao chú Lan nghe tiếng mõ lại chạy hấp tấp đi đâu thế?
- Bẩm, sư tổ gọi.
- Cụ gõ mõ gọi à?
- Vâng. Nếu có hiệu lệnh mà không thưa khiến cụ đánh đến tiếng thứ tư thì chúng tôi phải ra ngay sân quì để chịu tội.
- Luật nhà chùa uy nghiêm nhỉ?
- Chả cứ chúng tôi, đến sư bác, sư ông cũng vậy. Năm ngoái sư ông đến đây cũng quỳ đến nửa ngày.
- Thế à? Vậy bây giờ sư ông đâu?
- Bẩm, cụ cho đi trụ trì ở chùa gần đây.
- Vậy ở đây chỉ có chú với chú Lan?
- Vâng.
- Chắc rồi hai chú cũng lên sư bác chứ gì?
- Thưa ông, tôi thì còn lâu lắm. Nhưng chú Lan rất sáng dạ. Mới thụ giới hai năm nay kinh kệ đã thông lắm. Có lẽ ít nữa thế nào cũng được lên sư bác.
- Bẩm nghe đâu chú ấy ở Ninh Bình, cha mẹ mất cả.
- Nhưng kìa, sao chú không đi ăn cơm?
- Thưa ông, ở chùa chỉ ăn có hai bữa, một bữa sáng sớm, một bữa đúng ngọ.
- Thế không đói à?
- Khổ hạnh lâu ngày quen đi chứ. Chính phép nhà chùa, thì chỉ dùng được một bữa cơm trưa mà thôi.
- Nhưng tối chắc đó chỉ là luật pháp nhà chùa, đã dễ ai tuân theo.
- Ấy, những người không tu hành vẫn đều tưởng thế. Có người lại ngờ chúng tôi ăn thịt, ăn cá nữa, nhưng chẳng bao giờ có thế. Nhất là ở đây sư tổ tôi lại nghiêm giới lắm. Sai một tí là cụ phạt ngay.
Ngọc phần thì đói, phần thì cơm chay lạ miệng, nên ăn ngon lắm. Chàng nghĩ bụng: cứ bảo ở chùa kham khổ, nhưng đậu, vừng cùng dưa, cà chẳng kém gì thịt cá. Tự nhiên trong trí Ngọc nẩy sinh ra cái ý tưởng muốn xa lánh chốn phồn hoa.
Ngoài sân ánh trăng chiếu lờ mờ, rặng tường hoa lồng bóng xuống lối đi lát gạch, mấy cây đại không lá ẻo lả, uốn thân trong vườn sân um tươi. Vạn vật có vẻ dịu dàng như muôn màu thiền êm đềm tịch mịch....

Chương 2


Sáng hôm sau, Ngọc đương ngủ say, bỗng tiếng chuông chùa inh ỏi đánh thức. Ngọc giật mình, mở choàng mắt, ngơ ngác, không nhớ mình nằm ở đâu. Thấy chú tiểu Mộc bưng đặt thau nước trên chiếc ghế đẩu, Ngọc chợt nhớ ra và hỏi:

- Mấy giờ rồi chú?
- Thưa ông, vào khỏang cuối giờ dần, sang đầu giờ mão.
Ngọc nghe nói, mỉm cười, súng sính bộ quần áo "pijama" ra hiên rửa mặt. Trong vườn trước sân, các lá sắn hình hoa thị còn đọng giọt sương lóng lánh. Dưới chân đồi một dòng nước bạc thấp thoáng lượn trong sương mù.
Mặc xong quần áo, Ngọc vội vàng lên chùa.
Trên chiếc bục gỗ, trải chiếu đậu, sư cụ ngồi tụng kinh, mắt đâm đâm nhìn thẳng vào quyển sách có chữ to đặt trên cái kỷ nhỏ gỗ mộc. Tay phải sư cụ gõ mõ như để chấm câu, cứ đọc bốn chữ lại đánh một tiếng. Tay trái sư cụ đặt trên quyển Kinh, thỉnh thoảng lại rời trang giấy, nhắc chiếc dùi gõ vào thành cái chuông con hình dáng như cái lon sành.
Sư cụ có vẻ tôn nghiêm lắm. Bao nhiêu tâm trí thu cả vào quyển Kinh, không hề thấy cụ liếc mắt ra chỗ khác. Các pho tượng ngồi trên bệ gạch như đương lắng tai nghe, có vẻ trầm tư mặc tưởng.
Tiếng kinh du dương, mùi trầm ngào ngạt, Ngọc tưởng tượng sống trong một thế giới khác, thế giới mộng ảo thần tiên... Bỗng một tiếng chuông. Ngọc giật mình ngỏanh lại. Theo tiếng ngân, chàng lần tới một cái bậc gạch bên tả, rón rén lần từng bước leo lên cái gác chuông con. Tới bận thượng cùng, vừa nhô đầu lên, chàng nghe có tiếng "đà Phật" rồi kế tiếp một tiếng chuông. Ngước mắt nhìn, chàng gặp chú Lan tay cầm chiếc vỗ gỗ.
Thấy Ngọc, Lan hơi đỏ má, mỉm cười ngả đầu chào.
Đôi bạn mới gặp nhau hôm qua nay đã như có chiều thân mật. Song chú tiểu vẫn chăm chú vào phận sự: đọc đứt một câu lại đánh chuông. Những câu niệm Phật ấy dần dần ngắn bớt, và những tiếng chuông kế tiếp một lúc một thêm gần nhau cho tới khi đổ hồi.
Ngọc đứng chờ đến mười lăm phút cho chú tiểu đánh xong hồi chuông cuối cùng, đặt vồ xuống gác.
- Sao chú phải cầu kinh thế mới đánh được chuông?
Lan cười:
- Đánh chuông phải đọc thần chú, chứ.
- Thần chú! Hay nhỉ?
- Nghĩa là mười câu niệm Phật, ba hồi, một trăm hăm ba tiếng.
- Vậy nhớ được cũng khó lắm nhỉ?
- Phải học thuộc lòng chứ.
- Những ba hồi, một trăm hăm ba tiếng! Thảo nào mãi bây giờ mới dứt hồi. Tiếng chuông thứ nhất của chú làm tôi thức giấc. tôi tiếc quá, vì đương giở cái chiêm bao.
Lan dịu dàng hỏi:
- Thưa ông, chiêm bao lành hay dữ?
- Chiêm bao thú lắm. Tôi thấy tôi đi với một người sư trẻ tuổi, chỉ vào trạc tuổi chú mày mà thôi. Chúng tôi đi trên con đường quanh co ngoắt ngoéo, ở giữa hai trái đồi. Cây cối um tùm, ánh trăng chiếu sáng qua những khe lá, bóng in xuống đất như gấm như hoa. Một lát sau chúng tôi đến một cảnh bồng lai. Dưới chân một ngọn núi, dòng nước chảy róc rách như tiếng gõ mõ, tên cành, chim hót véo con, bên mình, ai cười khanh khách. Tôi quay đầu lại, thì lạ quá! Bạn tôi đã biến thành một trang tuyệt thế giai nhân... Ấy chính lúc đó, tiếng chuông của chú làm tôi thức giấc.
Chú Lan bẽn lẽn:
- Mộng mị của ông đầu Ngô, mình Sở đến buồn cười!
- Lạ nhất là người con gái ấy lại là chú.
Chú tiểu hai má ửng đỏ. Chú cười sằn sặc như muốn giấu hổ thẹn rồi đáp lại:
- Nam mô A di đà Phật! Kẻ đã quả quyết xuất gia tu hành thì trai cũng thế mà gái cũng thế, có khác chi. Vậy bây giờ giá đức Thích già có dùng phép mầu nhiệm bắt tiểu này hóa ra làm gái, cũng không có gì thay đổi cả, kia mà. Tôi còn nhớ một hôm sư tổ giảng sự tích Phật, có dạy rằng:
"Phật bình sinh đối với đàn bà, con gái vẫn có bụng nghi ngờ, cho rằng bọn họ không những không đủ tư cách để tu hành được trọn vẹn mà lại thường làm sự ngăn trở sự tu hành của những kẻ thành tâm mộ đạo. Cho nên ngài thường dạy các môn đồ đối đãi với đàn bà con gái rất nên cẩn thận, phải xa lánh họ và ra công ngăn ngừa cho khỏi mắc vào lưới dục tình."
Sư tổ lại theo gương Phật mà dạy chúng tôi rằng: "Đối với đàn bà con gái phải coi họ như mẹ mình, khi họ hơn tuổi, hay bằng tuổi mình, và nếu họ kém tuổi mình thì nên coi em ruột mình, lúc nào cũng phải yên tâm yên trí như thế mới mong tránh được sự cám dỗ."
Tôi đã hết sức luyện tâm trí tôi được như lời sư tổ dạy, nên tôi coi đàn ông hay đàn bà không khác nhau chút nào, và ví phỏng bây giờ tôi hóa ra làm con gái, tôi cũng không biết là trai hay gái, chỉ nhớ rằng mình là người xuất gia tu hành mà thôi."
Ngọc ngờ Lan là gái, nên bịa đặt ra câu chuyện chiêm bao để dò ý tứ. Khi nghe Lan cố lấy giọng tự nhiên, diễn lời Phật dạy, Ngọc lại càng ngờ lắm. Chàng vừa cười vừa bảo chú tiểu:
- Chú cứ dốc lòng cầu nguyện được cãi nam vi nữ đi, đức Thích già sẽ chuẩn y cho sự ước vọng của chú được thành sự thật đấy.
Lan có vẻ ngẫm nghĩ, rồi đột nhiên hỏi Ngọc:
- Đời nay có thể có bậc Quan Âm Thị Kính không nhỉ?
Ngọc ngơ ngác hỏi lại:
- Thị Kính là ai thế, chú?
Lan mỉm cười:
- Vậy ra về đạo Phật ông kém cỏi lắm nhỉ? Thế mà muốn đi tu sao được! Bà Thị Kính tức Quan Âm, là một người Triều Tiên cải dạng nam trang để xuất gia đầu Phật...Chắc nay trong đám phụ nữ chả ai có gan dám cải dạng như thế.
Ngọc ngẩn người ra, nghĩ vơ nghĩ vẫn có ý buồn rầu. Quay lại thì Lan đã bước xuống thang.
- Chú xuống đấy à?
- Vâng, tôi đi thắp hương.

Chương 3


Ngọc nấn ná ở chơi chùa Long Giáng đã mười hôm, tình thân mật đối với chú tiểu Lan một ngày một thêm khăng khít, đến nỗi cả chùa sư cụ cho chí ông Thiện, bà Hộ, đều biết rằng hai người là một cặp tri kỷ, ý hợp tâm đầu.

Từ hôm nói chuyện với chú tiểu ở trên gác chuông, mối hoài nghi của Ngọc một ngày một tăng. Trí nghĩ lúc nào cũng nhắc tới câu hỏi:
- Gái hay trai?
Hỏi rồi lại tự trả lời:
- Chả có lẽ là gái, những lời bàn về đạo Phật của chú tiểu có ý khinh bỉ cánh phụ nữ... Nhưng ta cũng ngốc tệ! Phải, nếu hắn là gái thì hắn càng cần phải làm thế để giấu ta chứ... Đích rồi, chính hắn là gái.
Hôm ấy Ngọc hai tay chắp sau lưng, thung thăng đi bách bộ dưới rặng thông già.
- Ta hẹn cho ta mười hôm nữa là cùng, phải tìm ra sự bí mật này.
Lúc ấy có tiếng ai gọi:
- Thầy phán!
Ngọc quay đầu lại. Một bà lão cắp rổ chè tươi rảo bước đi tới.
- Bà cụ gọi tôi?
- Thầy có phải ở chùa Long Giáng không?
- Phải, cụ hỏi điều gì? Hay cụ muốn bán chè?
- Tôi nhờ thầy bảo giùm chú Lan cho rằng đừng chờn vờn đến nhà tôi nữa mà có ngày què cẳng.
- Sao vậy cụ?
Bà lão mặt hầm hầm tức giận:
- Ai lại đã tu hành còn ghẹo gái...
- Cụ lầm đấy? Chẳng khi nào chú Lan lại bậy thế.
3
- Chả khi nào! Con cháu nhà tôi từ ngày nó gặp chú ấy nó sinh ốm, sinh đau, mất ăn, mất ngủ.
Ngọc cười:
- Thế thì lỗi ở cháu cụ, chứ ở đâu chú Lan! Đừng ngờ cho người ta tội nghiệp, cụ ạ.
- Nếu nhìn nó, chú ấy không cười cợt nhí nhãnh thì đâu nên nỗi.
- Được, cụ để tôi về bảo chú ấy cho.
Bà lão vui vẻ:
- Vâng, thầy giúp cho. Tôi chào thầy ạ.
- Không dám, chào cụ.
Ngọc chau mày, lo lắng tự hỏi:
- Lạ nhỉ, có lẻ hắn là trai thật sự ư? ... Mà sao hắn lại không phải là trai? Trí ta tiêm nhiễm tiểu thuyết quá, hóa quẩn mất rồi.
Ngọc loay hoay suy nghĩ vừa đi vừa nhìn xuống đất. Bỗng nghe tiếng sột soạt trong vườn chè bên con đường hẻm. Kiễng chân nhìn qua hàng rào, thấy chú Mộc đương buộc bó cành khô, Ngọc chào:
- Kìa, chú tiểu.
Chú Mộc chưa kịp đáp lại, chàng đã lấy tay rẽ một lối bước vào vườn:
- Chú đã nhặt đủ hai ôm rồi à? Đưa lạt tôi bó giúp cho một bó.
- Thôi, ông để mặt tôi, không bẩn áo.
Ngọc ngắm chú Mộc từ chân đến đầu, mủm mỉm cười. Chú Mộc ngước mặt thấy chàng cười chẳng hiểu chi cũng cười, có biết đâu rằng Ngọc đang so sánh chú với chú Lan, một người quê mùa cục mịch, một người trắng trẻo xinh xắn. Ngọc thốt nhiên hỏi:
- Sao tên chú ấy lại là Lan nhỉ? Như tên con gái ấy.
Mộc giảng nghĩa:
- Lan là tên cụ đặt cho. Tên chú ấy chính là Thận kia.
- Sao cụ lại đổi tên cho chú ấy thế nhỉ? Tên Thận cũng hay chứ.
- Vì ai mới tu hành cũng phải bỏ tên cũ, rồi sư tổ đặt cho một tên mới, chọn trong các giống huê, chẳng hạn huê lan, huê quỳ, huê hồng...
Ngọc nghĩ thầm:
- Ra ta lầm to, ta cứ tưởng Lan là tên con gái, té ra chỉ là một tên sư cụ đặt cho. Khen thay sư cụ cũng khéo tìm được cái tên xứng đáng...
Chú tiểu lại nói:
- Chú đặt cho chú ấy cái tên Lan là vì chú ấy tới chùa vào đầu mùa xuân.
Ngọc muốn gợi chuyện:
- Nghe đâu chú ấy không được đứng đắn thì phải.
- Không, chú ấy đứng đắn lắm, mộ đạo lắm.
Ngọc lẩn thẩn hỏi:
- Chú ngủ cùng buồng với chú Lan chứ?
- Không tôi vẫn ngủ ở nhà trai. Còn chú Lan, cụ tin yêu giao cho giữ buồng kho, nên hôm nào cũng ngủ trong buồng kho, cài then kỹ lưỡng lắm. Nhiều hôm đêm khuya gọi, lay thức gì rất khó khăn.
Một tia ngờ nẩy trong trí Ngọc: làm gì mà cẩn thận quá thế? Thôi, chắc hắn là con gái rồi.

Chương 4


Ngọc ở nương chè về, dáng điệu buồn rầu đứng tựa cột hiên chùa, nhìn vơ vẫn. Dưới chân đồi, thẳng cửa Tam Quan trông ra, con đường đất đỏ ngòng ngoèo đi tít về phía rặng tre xanh biếc, bao bọc mấy xóm xa xa. Bên đường lạch nước vẳng lặng phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh như tấm kính dài.

Cảnh đẹp bỗng gợi lòng thích hội họa của Ngọc.
Xưa nay chàng đi chơi đâu cũng thường đem theo giấy cùng hộp màu thủy họa. Chàng liền xuống nhà trai mở va li lấy các họa cụ lên ngồi vẽ.
Đương hý hoáy trộn pha màu, nghe có tiếng cười khúc khích sau lưng, Ngọc quay lại và kêu: "Chú Lan!" Đương buồn, gặp chú tiểu, chàng lại thấy lòng vui. Chàng cũng chẳng hiểu vì sao cứ vắng chú lâu lâu, là cảm thấy mình nhớ vơ, nhớ vẫn như thiếu cái gì mà không nhận ra. Song ở nơi hẻo lánh không mấy ai biết nói câu chuyện cho ra câu chuyện thì hai người trí thức làm gì mà chẳng chóng thành một cặp tri kỷ. Cái đó có chi lạ!
Chú Lan nghiên đầu ngắm nghía bức tranh rồi bình phẩm:
- Cây đại ông vẽ sao không có ngọn?
- Không cần có ngọn.
- Vẽ thế sái.
Ngọc mỉm cười:
- Nhưng gần quá thì trông sao đủ toàn thân cây được?
- Thêm vào chứ! Mà cảnh của ông không có người.
- Ấy tôi cũng biết thế, chính tôi đương muốn tìm một người làm kiểu mẫu hộ. Hay chú đứng cho tôi vẽ nhé?
- Cứ nghĩ ra mà vẽ không được à?
- Cũng được, nhưng không đẹp, vì không giống hệt dáng bộ... đi, chú làm ơn ra đứng tựa gốc cây đại cho một lát.
- Vâng, thì ra. Nhưng ông vẽ mau lên nhé.
Ngọc đặt cái bìa cứng lên hai đùi, cầm bút chì ngồi nghĩ ngợi:
- Chú nhìn ngang về phía rặng đồi bên tả. Được đấy. Chú đứng yên cho.
Độ mười lăm phút sau, Ngọc hai tay cầm giơ bức tranh. Nhắm một mắt lại ngắm nghía rồi mủm mỉm cười:
- Xong rồi, cảm ơn chú.
Lan vội vàng bước lại gần ngưỡng cửa, chỗ Ngọc ngồi. Thoạt nhìn, chú kinh ngạc:
- Chết! Sao lại vẽ tôi mặc áo tứ thân như con gái thế?
- Không hề chi. Tôi chỉ mượn chú làm mẫu để vẽ một người con gái đẹp thôi mà.
Chú Lan có dáng không bằng lòng, nguây nguẩy quay đi. Ngọc vội giật lại:
- Này chú, chú giận tôi đấy à?
Lạnh lùng, chú tiểu đáp:
- Ông khinh tôi quá. Lần này không biết là lần thứ mấy, ông chế riễu tôi, ông coi tôi như một người con gái.
- Không phải là tôi dám khinh chú. Chỉ vì chú đẹp trai lắm kia. Mọi lần, tôi không nhớ, nhưng lần này thì tôi xin lỗi chú, quả thực tôi không có ý gì chế riễu chú, tôi chỉ muốn vẽ bức tranh cổ tích.
Chú Lan tuy giận mà cũng không nhịn được bật cười:
- Tranh cổ tích thì cần gì có hình tôi?
- Ấy thế mới vẽ chú ra một người con gái... Chính tôi muốn thuật lại bằng nét bút sự tích bà công chúa đời đức Nhân Tôn xuất gia đầu Phật, câu chuyện chú kể cho nghe bữa nọ ấy mà...
- À ra thế.
- Đây chú coi: công chúa vừa tới chùa, đứng tựa gốc đại già, nhìn về phía Thăng Long, nghĩ tới đức vua cha cùng hoàng hậu, rầu rầu giọt lệ rơi trên má...
- Thế thì ông vẽ sai rồi. Công chúa quả quyết đi tu, mới tới chùa là vui đạo Phật ngay...
- Truyện thực tế vẫn thế. Nhưng tôi muốn tả cái tâm tình công chúa lúc bấy giờ đương phân vân nửa muốn quay về nơi đế đô vì sơ cha mẹ nhớ thương, nửa muốn ở lại mà tu thành quả phúc.
Lan mỉm cười, Ngọc thấy Lan cười cũng cười theo, rồi nói luôn:
- Lúc bấy giờ có tiếng chuông chùa ngân nga như để đánh tỉnh cơn mê, như để gột rửa linh hồn trần tục của công chúa...
Lan lại cười:
- Ông vẽ sao được tiếng chuông?
- Vẽ được. Nghĩa là vẽ công chúa, con mắt lờ đờ ngước nhìn trời như đương nghe chuông chùa mà cầu khấn đức Thích già Mâu ni, xin ngài cứu vớt cho thoát được chốn trầm luân.
- Nếu ông vẽ được thế thì khéo lắm. Còn vẽ công chúa mặc áo tứ thân thì chắc ông theo sự tích Phật và Phật tổ khi đã rời bỏ cung điện, liền cởi bộ gấm đổi lấy áo cà sa của một vị hòa thượng...
Ngọc tuy không hiểu sự tích Phật cũng trả lời liều:
- Ấy chính thế.
Một lúc lâu, hai người ngồi im lặng trên thềm hiên chùa, mỗi người như đương theo đuổi một ý tượng riêng.
Về phía đông nam mấy trái đồi phản chiếu ánh chiều tà nhuộm một sắc da cam. Nền trời xanh nhạt, lơ thơ mấy áng mây hồng. In trên cánh đồng lúa chín, màu vàng thẫm, con cò trắng thong thả bay về phía tây, đôi cánh lờ đờ cất lên đập xuống loang loáng ánh mặt trời. Bên cái quán gạch cũ, ẩn núp dưới đám mây đen, trên con đường hẻm, và ba đứa mục đồng cưỡi trâu hát ngêu ngao trở về trong xóm.
Ngọc cất tiếng hỏi Lan:
- Trong cảnh này tôi tưởng tượng như còn thiếu một thứ gì.
- Ấy là ông tưởng tượng đó thôi.
- Phải. Cái cảnh đẹp thế kia, êm đềm thế kia, dịu dàng thế kia, tôi coi vẫn như không có linh hồn. Cũng như lúc nãy chú bình phẩm bức tranh của tôi, chê rằng thiếu vẻ hoạt động vì không có vẽ người...
Lan cười hỏi:
- Vậy thiếu cái gì?
- Thiếu ái tình... vì cảnh yên lặng, diễm lệ này. Tạo hóa chỉ để riêng cho những người biết yêu thưởng thức.
Lãnh đạm Lan trả lời:
- Không phải. Thiếu tiếng chuông, vì đến giờ thỉnh chuông rồi mà tí nữa tôi quên baÜng.
Dứt lời Lan vội vàng cắm đầu chạy. Ngọc gọi: Đợi tôi với!
Rồi cũng chạy theo sau.
Khi lên đến đầu thang gác chuông, bỗng Lan kêu rú lên một tiếng, lùi lại. Ngọc vừa bước tới, thành thử Lan ngã ngay vào lòng chàng. Ngọc ôm bạn lim dim cặp mắt:
- Cái gì thế?
Câu hỏi như đánh thức linh hồn chú tiểu. Chú giật mình ẩy mạnh Ngọc ra rồi chạy tuột xuống chân thang. Ngọc theo xuống:
- Cái gì mà chú sợ hãi quá thế?
Lan thở hồng hộc ngồi xệp xuống bậc thang, nói không ra tiếng:
- Con.... rắn!
Ngọc ngơ ngác:
- Con rắn à? Chú trông thấy ở đâu? To hay bé?
Lan, mặt còn tái như gà cắt tiết, nhưng đã hơi hoàn hồn, mỉm cười gượng, trả lời:
- Bằng cái đũa cả ấy. Nó có đốm hoa.... Giời ơi! Hú vía!
- Chú để nó đấy cho tôi.
Ngọc quay đi tìm khí giới. Mấy phút sau chàng trở lại đem theo một cây đòn sóc. Lan đã hết sợ, ngăn lại:
Thôi, ông đừng đánh người phải tội. Ở nhà chùa không được sát sinh.
- Thế nó cắn mình nó có phải tội không.
Vừa nói chàng vừa xăm xăm chạy lên thang. Khi chàng gần tới nơi, Lan ngửa mặt trông, lo lắng:
- Ông hãy đứng lại nhìn quanh xem nó nằm ở chỗ nào đã, chẳng nhở vô ý dẫm phải nó, nó cắn thì khốn.
Ngọc theo lời, kiễng chân nhìn khắp một lượt rồi cúi xuống gọi:
- Chú Lan! Cứ lên. Nó chạy rồi, không thấy nó đâu nữa.
Chàng rón rén bước lên rồi xem xét lại một lượt khắp các xó gác chuông. Chú Lan cũng đã tới, nhớn nhác nhìn chung quanh chưa hết sợ.
- Bây giờ thì chú cư yên tâm niệm Phật thỉnh chuông. Rắn có trở lại đã có tôi tiếp chiến.
Câu nói khôi hài đã khiến hai người cười ran.
Rồi Lan bắt đầu thỉnh chuông. Còn Ngọc thì chống đòn sóc tựa vào tường, đứng khoanh tay, phưỡn ngực hút thuốc lá, trông ra dáng một tay hào hiệp và có vẻ tự phụ bênh vực được một người yếu đuối đã saÜn lòng ký thác sự bảo hộ cho mình.
Đêm hôm ấy, Ngọc trằn trọc loay hoay trên chiếc giường tre, không sao ngủ được, trong lòng nghĩ vẫn, nghĩ vơ. Vì lúc chú tiểu sợ hãi ôm chầm lấy Ngọc, Ngọc có một cảm giác khác thường. Cảm giác ấy vẫn còn man mác trong lòng. Ngọc tự hỏi: "Sao khi anh em bạn ta đùa ôm ta như thế, ta không thấy tim hồi hộp? ... À phải rồi, chỉ vì ta yên trí rằng chú Lan là con gái".
Ngọc bỗng bật cười, cười sằng sặc. Đêm khuya thanh vắng, Ngọc tự nghe tiếng cười của mình khanh khách giữa khỏang im lặng thì rùng mình ghê sợ.
Nằm mãi không ngủ được, Ngọc liền dậy mặc quần áo đi bách bộ ngoài hiên. Hôm ấy vào hạ tuần, trăng vừa mọc, trông như cặp sừng trâu treo ngược trên đỉnh đồi. Cũng là trăng khuyết nhưng đối với trí tưởng tượng của Ngọc thì trăng thượng tuần trông dịu dàng âu yếm mà trăng hạ tuần trông lạnh lẽo buồn tẻ.
Ngọc đi đi lại lại không biết bao nhiêu lượt trên hiên nhà trai. Khi tới phòng chứa là chỗ chú Lan ngủ thì như có sức mạnh thiêng liêng gì giữ chàng lại. Chàng dừng bước đứng lắng tai nghe. Không một tiếng gì lạ, chàng lại đi.
Một lần, Ngọc áp má vào cánh cửa buồng. Bỗng cánh cửa mở tung ra, làm Ngọc suýt té nhào. Thì ra buồng kho không có ai. Ngọc đứng nhìn quanh khắp một lượt, nghĩ thầm:
"Quái! chú này đêm khuya đi đâu thế? Được, ta cứ thung thăng bách bộ, thế nào hắn cũng trở về buồng." Khi đến đầu hiên bên kia, Ngọc trông lên chùa trên, nhác thấy ở chỗ khe cửa tò vò có một vật đen đen vừa đi vụt qua. Liền lần tới, se sẽ ẩy cửa bước vào.
Trong chùa lờ mờ tối. Trên bàn thờ, ngọn đèn dầu lạc leo lét chiếu ánh. Một cái bóng đen với bó hương tỏa khói.
Ngọc trụt giầy rơm, rón rén lại gần, thì thấy chú Lan cắm hương vào bát hương, rồi quỳ trên bục gỗ, chấp tay lâm râm cầu khẩn. Ngọc tuy núp sau cái cột ngay bên cạnh, nhưng vì Lan khấn nhỏ quá, không nghe rõ; chỉ thỉnh thỏang lọt vào tai Ngọc những mẩu câu, đại khái "Phù hộ cho đệ tử... đủ nghị lực... xa chốn trầm luân..." Lạ nhất là luôn luôn Ngọc nghe rõ Lan nhắc đến tên mình đi liền với một tên khác, hình như Thi thì phải.
Ngọc liền ở chỗ ẩn núp đi ra, định đến vỗ vai chú tiểu. Nhưng bấy giờ tâm trí để cả vào sự cầu nguyện, Lan không biết rằng Ngọc lại gần, thành thử chàng đứng ngay sau lưng mà chú vẫn không ngờ. Ngọc bỗng giật mình kinh sợ, vì chàng vừa nghe chú tiểu khấn một câu ghê gớm:
"Đệ tử đã dốc lòng tin mộ đạo, không ngờ nay mới biết lòng trần tục vẫn chưa rũ sạch. Nhưng đệ tử xin thề ở trước mặt đức Từ bi..."
Nghe tới đó, Ngọc rón rén lui về phía cửa, rồi lẳng lặng bước ra.

No comments:

Post a Comment