CHƯƠNG 4: ĐÁNH CHIẾM TỪNG NHÀ
Từ Trường
Janne D’ Arc tới Nhà Thờ.
Trong
cuộc chiến tranh xử dụng mìn bẫy, TQLC nếu có ai bị thương nhẹ cũng hy vọng được
nghỉ đôi ba ngày tại trạm nghỉ trước khi trở lại chiến trường. Tuy nhiên, trong
cuộc chiến trên đường phố Huế, bác sĩ và y tá tại trạm xá MAC.V đã phải khó
khăn khi khuyên thương binh khoan trở lại chiến trường. Mấy anh lính trẻ khi bị
thương về trại nghỉ một lúc rồi quay trở lại trạm xá, nói với y tá bây giờ họ
đã khỏe, để được ra đơn vị trở lại. Trung úy Ray Smith, đại đội trưởng Alpha 1/1
thế cho Batcheller, sau khi cuộc chiến chấm dứt vài tuần lễ, viết thư cho đại
úy cũ của anh ta như sau: “Nếu ai ở với TQLC tại Huế trong những ngày đó, không
thể không thương họ. Vài người lính của tôi bị thương nơi chân và tay, đi cà nhắc
vòng quanh để tìm tôi xin được ở lại, không phải tải thương. Họ chiến đấu thật
dũng cảm, rất hòa thuận với nhau, và không khi nào tôi nghe một lời than phiền.
Đó là tinh thần TQLC trong trận đánh Huế.”
Một
trong những yếu tố quan trọng nhất là thái độ năng nổ dậy lên từ ngày họ rời
chiếc xe bus ở trường huấn luyện. Họ thấy họ là chiến sĩ, là kẻ thắng, và là
“Những Phần Tử Tinh Túy”. Họ có lòng tin tưởng cấp chỉ huy, – từ những người chỉ
huy cấp tiểu đoàn cho tới anh trung sĩ hay trung úy, thiếu úy trẻ chỉ huy trung
đội. Tất cả những ai ngay bên họ trên đường phố, cùng nhau chiến đấu, cùng bị
thương vong. Các người lính trẻ TQLC cũng tự hào đặc biệt vì họ là bộ binh, và
cảm nhận trái ngược với lòng tự hào là không ai tệ hơn người lính chiến. Thêm
vào đó họ có niềm tự hào căn bản về binh chủng TQLC Hoa Kỳ và đất nước họ.
Nhưng
niềm tự hào đó chỉ được giải thích một phần. Lý do cao thượng vì tự do cho Miền
Nam VN không là động cơ thúc đẩy người lính TQLC xông pha lửa đạn để cứu một đồng
đội bị thương. Một nhà chính trị ở quê nhà ca ngợi các thanh niên của chúng ta ở
ngoại quốc không thể là lý do để cho một người lính từ chối di tản sau khi bị
thương một hai lần. Ba, má và apple-pie chỉ là một việc không đáng kể với một
người lính TQLC muốn giữ cân bằng giữa một trong những hành động kinh khiếp nhất
trong chiến tranh Việt Nam. Điều gì trong những yếu tố đó đã xẩy ra ở Huế đơn
giản chỉ là tình chiến hữu.
Có một
ít kinh nghiệm nhân bản so sánh được trong tình thương đồng đội và anh em của
người lính TQLC khi họ chiến đấu. Nó không phải là vấn đề gốc gác như thế nào,
màu da ra sao, học hành tới đâu, hoặc cha mẹ giàu có như thế nào. Tất cả vấn đề
là người sống chung trong tiểu đội, trung đội. Toàn bộ vấn đề là giúp đỡ nhau,
chia xẻ với nhau, giúp nhau bảo toàn tính mệnh khi súng bắt đầu nổ. Đêm đêm, họ
ngủ chung với nhau trong một hầm chiến đấu, cùng nhau chịu đựng cái nắng như
thiêu như đốt hay cái giá lạnh của những cơn mưa phùn gió bấc, ì ạch lội qua những
đám ruộng sình và cùng chiến đấu chống kẻ thù chung. Trong chiến đấu, mỗi người
lính TQLC đánh giặc hết sức mình vì họ không thể để cho bạn mình ngã xuống. Hy
sinh, không có gì thắc mắc. Đó là chân lý của họ trong cuộc Thế Giới Chiến
Tranh thứ Hai, trong Chiến Tranh Cao Ly và một lần nữa, trong Chiến Tranh Việt
Nam.
Nhưng ở
Huế, có một khúc quanh đặc biệt: Hận thù. Trước khi đánh nhau, có thể người
lính TQLC chưa bao giờ thấy một anh lính CSBV hay Việt Cộng trong trận đánh. Điều
họ biết là việc giết chóc tàn ác và việc làm thương tật ghê gớm bằng mìn bẫy. Họ
đã nếm mùi kinh hãi mà chẳng làm gì chống lại được. Họ thấy thất vọng trong việc
đi tuần trên một con đường mà chẳng phát hiện được gì hết, bị bắn sẻ từ trong
làng bắn ra mà không được bắn trả vì sợ thương vong cho người dân. Tuy nhiên, ở
Huế, họ cảm nhận được những gì họ đang làm: Mặt đối mặt với kẻ thù – Họ có thể
giết kẻ thù. Đại úy Pyle từng nói: “TQLC ở Huế thành công. Đó là thời điểm trả
lại cái thua ở An Hòa.”
Tinh
thần cao là động cơ tốt đẹp cho việc thành công của người lính TQLC. Tiểu đoàn
trưởng Gravel nói: “Sự đóng góp lớn nhứt của những người lính ấy, không phân biệt
cấp bậc, đã hoàn thành ở một mức độ ít thấy. Chẳng hạn như những trung úy đại đội
trưởng, các trung sĩ trung đội trưởng, hạ sĩ và tiểu đội trưởng đã hoàn thành tốt
đẹp trách nhiệm của họ. Binh sĩ của tôi làm được nhiều điều, nhiều phương cách
mà quí vị không thể hy vọng nơi những người lớn tuổi hơn và chín chắn hơn, thực
hiện chính xác những công việc hết sức nguy hiểm… Tôi không lo lắng gì hay chỉ
lo chút ít vì tôi biết, tôi cảm nhận những gì họ làm, họ thực hiện là hết sức tốt
đẹp mà không cần chỉ dẫn gì nhiều.”
Dale
Dye, phái viên báo chí Sư đoàn 1 TQLC đã tìm hiểu cẩn thận và kết luận như sau:
“Hầu hết chúng ta đều có băng cứu thương để băng bó những vết thương nhỏ. Chúng
ta đều bẩn thỉu dơ dáy mà tôi nghĩ chắc giống như những tay kẻ cướp người
Mê-Xi-Cô, nhưng với TQLC thì đó là cái dơ dáy trong sự huy hoàng. Tinh thần của
họ là tinh thần đặc biệt của người lính TQLC trong bất cứ một cuộc chiến đấu
gian khổ nào. Họ chưởi thề, họ khóc và họ nguyền rủa mọi thứ từ cấp chỉ huy cho
tới người lính CSBV hay nguyền rũa ngay cả khí hậu khắc nghiệt. Nhưng tôi nghĩ
tinh thần là một ngôn từ không đúng, không nói được hết. Đó là một thứ cay đắng
giai dẵng, là điều quyết định để thấy việc đánh nhau chẳng là gì cả. Chúng ta
quá chán nãn, bị căng ra quá lâu do những thúc ép triền miên và tất cả chúng ta
đều yếu đuối cam chịu. Tôi không nghĩ bất kỳ ai trong chúng ta nghĩ rằng mình sẽ
còn sống sau cuộc chiến đấu, tôi không nghĩ ai trong chúng ta sẽ trở thành đê
tiện bằng cách nầy hoặc bằng cách khác.”
Bên cạnh
tình chiến hữu, các TQLC Mỹ ở trận đánh Huế có một điểm chung – ghét quân CSBV
và Việt Cọng. Vấn đề nầy không phải nhìn theo nhãn quan chính trị, mà phần lớn
là vì cá nhân. Đó là vì bạn bè họ chết một cách thảm khốc. Vì vậy, họ cho rằng
quân địch là những kẻ dơ dáy, ti tiện và bướng bỉnh. Vì vậy, họ có bị giết cũng
không có chi ân hận và về sau có thể trở thành một câu nói đùa. Đó là điều
không thể không quan tâm hay từ chối, làm ngơ. Nhưng người ta có một cảm nhận
khác đối với kẻ thù – một sự quan tâm bất đắc dĩ – Đó là những người Việt Nam ốm
yếu, nhỏ bé chiến đấu rất mãnh liệt và ít khi chịu thua cuộc. Trung sĩ Dye cũng
kết luận như vậy: “Quân CSBV ở Huế là một thứ con hoang tận tụy và chiến đầu cừ.
Chúng nó thì cố thủ trong khi chúng ta thì di động suốt ngày và chuyển qua tấn
công vào ban đêm. Chúng ta thường phải tìm cách lấy lại khu vực mà chúng ta đã
giành được ngày hôm trước vì ban đêm quân CSBV đã chiếm lại, chúng ta không đủ
quân để bảo vệ những gì giành được. Tôi nghĩ rằng người lính CSBV vừa quá khích
mà cũng vừa hèn nhát.
Về điều
tôi nghĩ, đáng nguyền rủa là có quá nhiều những tên quá khích. Tuy nhiên, sự thực
rõ ràng là chúng ta giỏi hơn họ.”
Y Sĩ Hải
Quân Robert C. Hamilton nhận nhiệm vụ tại Đại đội Bravo, Tiểu đoàn Quân y số 1,
Sư đoàn 1/ TQLC, có đến thăm thành phố Huế trước khi trận đánh Huế bắt đầu.
Ngày Chủ Nhật trước Tết, ông ta cùng tài xế của ông và một sĩ quan trẻ đặc
trách công tác Dân Sự Vụ thực hiện một chuyến du ngoạn Huế. Họ uống cà-phê ở một
tiệm cà-phê ngoài trời; chụp hình trong Đại Nội cho đến khi lính canh đến đuổi
họ đi và cạn cốc với đại úy Stephen Bernie trong câu lạc bộ MAC.V. Ông nầy là y
sĩ tại trạm xá tại đây.
Mọi việc
đều hết sức bình thường. Y sĩ Hamilton nghĩ qua đêm Tết đầu tiên ở Phú Bài với
mấy người lính TQLC của ông và y tá Hải Quân trong khi hỏa tiển nổ.
Sau
đó, tướng LaHue gọi ông ta, yêu cầu ông tường trình sự việc tại trạm chỉ huy của
ông. Lúc đó là khoảng nửa đêm, điện bị mất. Tuy nhiên Hamilton tìm được một người
tài xế TQLC gốc da đỏ, dám lái xe trong bóng đêm đen như mực đưa ông ta vào Bộ
Chỉ Huy. Cũng từ đó, Hamilton là sĩ quan quân y của LLDN X-Ray. LaHue giải
thích cho ông ta hay có chuyện lôi thôi ở Huế nhưng ở đó chẳng có đơn vị nào có
y sĩ cả. Bằng một sự trùng hợp kỳ cục, các y sĩ tham dự một hội nghị về y học ở
Đà-Nẵng khi Tết bắt đầu nên họ không trở về đơn vị kịp. Tướng LaHue hỏi
Hamilton có thể làm gì được bây giờ.
Hamilton
trả lời có thể gọi một toán gồm 20 nhân viên trợ y của Tiểu đoàn 1 Quân Y ở
Đà-Nẵng. Tuy nhiên, ông ta nói nếu tình hình không quá nghiêm trọng thì ông
cùng với ít y tá đến trạm y tế MAC.V ở Huế để giúp Bernie chờ khi bác sĩ giải
phẩu của tiểu đoàn tới. Tướng LaHue đồng ý.
Hamilton
gặp sĩ quan Quân Vận để sắp đặt chuyến đi Huế rồi quay lại đơn vị để lấy y tá
đi theo ông ta. Nhiều người không bằng lòng. Ông bèn ra lệnh cho y tá trưởng ở
lại coi sóc mọi việc khi ông vắng mặt. Rồi ông ta tìm một y tá trẻ, giải thích
với anh nầy tình hình mọi sự. Anh nầy hỏi Hamilton có đi Huế không, nếu đi thì
anh ta xin đi theo. Hamilton nói rất vui nếu y tá nầy cùng đi với ông. Xong,
ông ta chọn anh y tá nầy cùng hai người nữa, một ông già của đại đội, người được
họi là Pappy Reinhart.
Sáng
ngày 4 tháng Hai, họ lên đường. Hôm đó, có hai chuyến xe đi Huế. Họ theo chuyến
đầu, khoảng 30 xe GMC chở đồ tiếp liệu và đạn dược. Nhân viên ẩm thực và thư ký
cầm M-16 đi theo giữ an ninh. Đó không phải là chuyện không bình thường. Châm
ngôn của TQLC là mỗi người một tay súng, dù đảm trách công việc gì chăng nữa.
Hamilton ngồi trên thùng xe GMC chở đầy lựu đạn M-26.
Vừa
qua khỏi sông Phú Cam (An Cựu), qua chợ An Cựu thì từ những toà nhà hai bên đường,
quân CSBV nổ súng.
Hamilton
ngồi trên một thùng chở lựu đạn trong khi lính bếp và văn phòng kê súng lên
lưng ghế bắn trả; tài xế cho xe chạy nhanh hơn. Họ tới MAC.V, xe chạy vào
trong, Hamilton cùng các y tá nhảy xuống xe. Y sĩ Bernie cười đón họ và đứng
vòng quanh nói chuyện với nhau. Hamilton cảm thấy an tâm khi được ở trong những
bức tường thành nầy.
Bất thần
địch quân pháo kích bằng hỏa tiển.
Đạn
pháo bay qua bức tường nổ trên mái một toà nhà, mảnh đạn và đá cát bay xuống họ.
Chẳng ai phản ứng gì kịp đành đứng chịu trận. Khi Hamilton đưa mắt nhìn quanh,
ông ta thấy chỉ có một y tá không bị thương. Bernie thì bị một mảnh đạn nhỏ nơi
tay, một người trong nhóm họ là một nhân viên dân sự của chính phủ bị chảy máu
đầu vì mảnh ngói vỡ, máu ra nhiều, người ta vội vàng đưa ông vào phòng cứu cấp.
Hamilton,
34 tuổi, bác sĩ thực hành ở Chicago, bị động viên sáu tháng trước, nhận được
vài sự chào đón nồng nhiệt khi tới đây. Hôm nay chỉ mới là ngày đầu tiên:
Hamilton, Berinie, và tất cả y tá còn lại của TQLC, các y sĩ băng bó chăm sóc
cho tất cả các TQLC bị thương đang nằm ở đây rồi khi có thời gian nghỉ ngơi,
Hamilton tới câu lạc bộ của đại tá Hughes ở bộ Chỉ huy. Người ta cho biết chuyến
xe chiều hôm đó, sau chuyến của Hamilton đã bị phục kích dữ dội.
Chuyến
xe buổi chiều do trung úy Terry Charbonneau, 25 tuổi, quê ở Detroit, trung đội
trưởng Trung Đội 2, Đại đội Charlie, Tiểu Đoàn Quân Vận số 1, Sư Đoàn 1 TQLC chỉ
huy.
Tại trại
Evans của Kỵ Binh 1, anh ta lúng túng vì một trung đội xe vận tải từ một đại đội
khác tới trong khi một tướng lãnh biểu anh ta tìm cách giải quyết việc tài xế xe
tải thiếu hụt. Charbonneau phải nhờ tới hậu cứ tiểu đoàn quân vận đóng ở Giạ
Lê, nhưng tài xế và xe ở trại nầy lại kẹt ở Phú Bài. Thực ra thì anh ta cũng chẳng
làm gì được hơn. Trong dịp Tết, trung đội của anh được phái đi chung với các
đơn vị khác và hiện đang kẹt ở Huế. Một vài xe GMC từ căn cứ tiếp liệu đến với
một số ít lính tăng cường trên xe. Có người không có nón sắt và áo giáp. Anh ta
hỏi thì họ cho biết trong kho hết nón sắt và những thứ khác không đáng quan tâm
lắm. Anh ta biểu họ vào trạm xá xin mượn nón sắt trong đó để đi Huế.
Charbonneau
biết đại úy đại đội trưởng Đại Đội Alpha, anh nầy tổ chức đoàn xe bằng người của
Đại Đội A và B và vài người trong Trung Đội 2 TQLC của chính anh ta. Anh ta đi
kiếm đại úy nầy và hỏi đoàn xe anh ta đi đâu? Huế. Charbonneau muốn đi cùng,
nhưng viên đại úy hỏi anh ta có biết ở Huế đang đánh nhau không? Anh ta biết.
Lala, nhân viên anh ta vừa được thưởng Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc cũng muốn
đi. Viên đại úy nhìn anh ta, nói: “Được rồi, anh sẽ là người đi sau”. (Chịu
trách nhiệm an ninh mặt hậu đoàn xe). Charbonneu nhận lãnh trách nhiệm và cùng
mấy người trong nhóm lên chiếc xe thứ hai, ngồi cạnh tài xế, xạ thủ đại liên 50
và hiệu thính viên. Đằng sau anh ta, trung đội y tá trên chiếc xe chót, một xe
cần trục. Hai chục chiếc xe chở đầy đạn dược, thực phẩm, y tế, v.v… cùng nhân
viên văn phòng, hỏa đầu quân, thợ máy, nhân viên tiếp liệu đi theo với nhiệm vụ
giữ an ninh.
Họ lên
đường lúc quá trưa một chút. Viên đại úy ngồi trên xe Jeep đi đầu. Chạy trên QL
1. Họ chẳng thấy ai. Dân chúng núp trong nhà. Có một thằng bé Việt Nam đứng bên
đường, hoàn toàn một mình. Khi đoàn xe đi qua thằng bé đưa ngón tay cái lên ra
hiệu số 1 (tốt).
Charbonneau
nghĩ rằng đó là ấn tượng đẹp. – thằng bé và gia đình nó sẽ gặp khó khăn lớn nếu
Việt Cộng thấy nó làm như thế. TQLC nhìn xuống sàn xe, chẳng ai cười vì họ
không biết gì đang đợi họ đây. – Và đưa tay ngoắt lại thằng bé.
Gần tới
cầu An Cựu, xe dừng lại. Charbonneau lo lắng chờ đợi. – một chếc xe GMC đang
nghiêng xuống đường – bèn bước ra khỏi xe. Anh bước qua bên lề đường vói nhìn
lên trước. Mấy chiếc xe đầu đang chạy chậm chậm. Anh ta tự hỏi không biết có việc
gì rồi quay lại xe và cầm máy gọi viên đại úy. Bất thần có tiếng nổ dữ dội. Chiếc
xe của viên đại úy bị cháy. Tiếng súng nhỏ nổi lên.
Tiếng
của sĩ quan quản trị đại đội (qua hệ thống bộ chỉ huy quân vận) bất thần xen
vào trong máy điện đàm. Ông ta nói với trung úy Charbonneau rằng ông đang đảm
trách công việc, yêu cầu tiếp tục di chuyển.
Phía
trước, các xe GMC rú hết máy vượt qua cầu, xe Charbonneau tiếp theo. Anh ta biểu
tài xế dừng lại bên chiếc xe Jeep đang cháy rồi nhảy xuống xe tìm viên đại úy
và người tài xế trong khi khẩu đại liên 50 bắn yểm trợ cho anh ta. Charbonneu
không tìm thấy ai hết. Trước mắt họ, đoàn xe tiếp tục đi vì vậy anh ta phải nhảy
lên xe chạy cho kịp. Đoàn xe chạy tới, gặp một bùng binh có trạm xăng Shell bên
đường rồi tiếp tục qua một đoạn hai bên là ruộng. Và rồi – Charbonneau không thể
tin được – quân CSBV chạy xuyên qua đám ruộng, bắn vào các xe vận tải. Mọi người
bắn trả lại. Cây đại liên 50 trên xe Charbonneau nã đạn, TQLC trên các xe chạy
phía sau dùng M-16 bắn lốp bốp về phía địch. Toán hỏa lực thì phản công bằng đại
bác M-79. Nước và bùn văng lên ở các đám ruộng. Quân CSBV chúi đầu vào các đường
rãnh, đường hầm, không bắn lại nữa.
Đoàn
xe cứ lo bắn để chạy, phía trước, hai bên hông và đằng sau.
Mấy
hôm trước, mồng một Tết, Charbonneau đã lái xe đi Huế, khi dân chúng đang làm lễ
năm mừng mới. Anh ta có cho dân chúng rượu vang, kẹo. Bây giờ thì thành phố vắng
hoe, mặt tiền các cửa hàng chất đầy củi cây vì quân địch dựng công sự chiến đấu.
Quân địch làm công sự như vậy hai bên đường cho tới khu MACV, phía ngoài cổng
thì hẹp lại như cái cổ chai.
Charbonneau
nhìn lui, không thấy chiếc xe cần cẩu chạy theo sau. Anh ta bèn chạy lui nói với
toán hỏa lực quay lui tìm chiếc xe nầy. Một người lính trong bọn tỏ ý chán nãn,
anh ta không muốn chạy giữa lằn đạn một lần nữa.
– “Gắng
lên.”
Người
lính gần như muốn xin lỗi:
–
“Chúng tôi là xạ thủ vũ khí chống máy bay.”
–
“Chúng ta không thấy chiếc máy bay nào. Anh có thể bắn chúng nó. Đi đi.”
Anh
lính lái xe lách ra khỏi đoàn xe đang ngừng, tìm cách quay lui thì chiếc xe cần
cẩu trờ tới. Viên đại úy bị mảnh đạn ở sau lưng. Tài xế của ông ta thì phía
trên mắt cá chân bị rách đong đưa mấy miếng da, xạ thủ cũng ở đây, gò má bị mấy
vết sứt và người y tá có bộ râu như ghi-đông xe đạp xử dụng súng tiểu liên
Thompson đang cúi xuống chăm sóc cho những người bị thương nầy. Có mấy miếng gỗ
được dùng chèn thùng nước xe bị bắn bể. Mấy người lính VNCH mang cáng tới cho một
người bị thương. TQLC mở cáng ra, thận trọng đặt người tài xế lên đó rồi nhẹ
nhàng khiêng vào trạm xá.
– “Lẹ
đi, anh lính nằm trên cáng nói, tôi sắp chết rồi đây. Nhanh lên.”
Charbonneau
bước vội vào trạm xá theo tài xế. Y Sĩ Hamilton khám và chích cho anh ta một
mũi thuốc. Người lính TQLC nhìn chằm chằm vào chân anh ta. Hamilton lấy kéo cắt
mấy miếng da tòn ten đi.
Charbonneau
quay lại sân trong MACV. Vài TQLC hỏi anh ta bao giờ thì trở lại Phú Bài. Chẳng
ai biết gì cả. Có mấy chiếc xe tải bị hỏng, chiếc thì bể vỏ xe, chiếc chảy bình
nước. Các thợ máy đang sửa xe thì có pháo kích. Đạn hú và nổ trong sân. Ai nấy
tìm chỗ núp. Charbonneau lăn xuống gầm một chiếc xe tải trước khi kịp nghĩ ra đạn
súng cối nổ sát mặt đất. Thêm mấy loạt đạn bắn vào nữa nhưng chẳng ai bị
thương, chỉ làm cho một chiếc xe GMC thủng lỗ chỗ mà thôi.
Tới tối,
Charbonneau, viên đại úy bị thương, y tá, và một số TQLC mang những người bị
thương băng qua một lỗ nơi vách tường để đi vào trong tầng đầu của một tòa nhà
chờ trực thăng đến tải thương. Y tá hỏi anh tài xế bị thương ở chân cần chích
thêm morphine cho đỡ đau không.
Rõ
ràng người nầy đang đau nhưng anh ta lắc đầu. “Không.” – Anh ta nói, anh không
muốn ghiền. Anh thường chịu đau đã quen.
Charbonneau
nghĩ thật là mai mỉa. Trước kia anh lính nầy bị bắt gặp ngủ gục khi đang gác và
bị giữ ở Việt Nam vì hút cần sa nhưng bây giờ thì lại chứng tỏ can đảm khi đang
bị thương.
Cuối
cùng có tin trực thăng tới bãi đáp ngoài bờ sông, phải đem thương binh đi, theo
con đường thường đi; trời đang mưa và sương mù. Hai chiếc Sea Knight từ hướng
Phú Bài bay tới, không bật đèn. Máy bay nhận thương binh xong bay đi liền. Đại
úy đại đội trưởng Đại Đội Alpha, mặc dầu đang bị thương, quyết định ở lại. Ông
ta quay lại MAC.V cùng Charbonneau lo chuẩn bị đoàn xe tải.
Buổi
sáng. Họ lại đem thương binh ra bãi đáp. Thỉnh thoảng trực thăng tới nhưng chỉ
chuyển ai bị thương nặng đi trước. Một anh TQLC, thân mình bị băng bó bốn nơi,
khấp khiểng ra tới bãi đáp ngồi chờ với những người khác trong đám cây cọ và
bao cát làm công sự. Sĩ quan phi hành nói có một chiếc trực thăng khác đang
trên đường bay tới. Khi Charbonneau thấy đó là chiếc trực thăng Quân Đội Mỹ
đang bay tới hướng họ – không phải máy bay của TQLC – hạ xuống, anh ta bèn chế
giểu anh sĩ quan phi hành. Anh nầy bèn nói cho biết có nhiều trực thăng của
TQLC bị bắn hạ, không có cách nào khác. Chiếc máy bay vừa đậu lại thì anh
thương binh bị băng 4 chỗ cùng những người khác lên tàu, một viên trung úy bị
băng quanh đầu tới máy bay.
Người
trưởng toán phi hành đuổi người lính ra khỏi máy bay, nhường chỗ cho viên trung
úy. Charbonneau nhìn chằm chằm vào viên trung úy ấy một lúc và nghĩ: “Với tên nầy
thì trước đàn bà và trẻ em, y muốn được trước. Trông y hoàn toàn lúng túng và sợ
hãi.”
Chiếc
máy bay cất lên. Charbonneau nhận ra rằng anh vừa chứng kiến một cảnh tồi tệ của
con người có cấp bậc và đặc quyền ưu tiên: Viên trung úy trông có vẽ bị thương
không nặng lắm. Truyền tin báo cho biết khoảng hai giờ đồng hồ nữa sẽ có trực
thăng tới. Nghe vậy, anh TQLC nói anh sẽ chờ tại MAC.V. Charbonneau nói với người
lính anh ta sẽ dìu anh lính về nhưng anh ta cám ơn rồi khập khểnh bước đi.
Mấy
ngày sau, viên đại úy bị thương ra lệnh cho Charbonneau trở về liên lạc với tiểu
đoàn. Anh ta trở về bằng tàu Hải Quân, đi chung với vài người dân Việt Nam, các
TQLC tử trận và cái chân của người tài xế đựng trong cái bao.
Mãi đến
ngày 4 tháng Hai, trung tá Gravel vẫn còn ở tại MAC.V. Ông ta chẳng có gì nhiều
để lựa chọn. Toàn bộ tiểu đoàn ở Huế, ngoài ban tham mưu và các trung đội thuộc
Đại Đội Alpha 1/ 1 thiếu hụt quân số và binh sĩ thương vong. Ngày 2 tháng Hai,
hai trung úy Smith và tiền sát viên của Alpha, Perkins – cố về lại tiểu đoàn bằng
chuyến xe của Đại Đội Hotel 2/ 5. Khi qua An Cựu thì bị phục kích, các thùng đạn
trên xe bị đổ và đè chết Perkins. Sĩ quan kia, trung úy Ray. L. Smith, trung đội
trưởng Trung đội 2 chỉ huy đại đội Alpha thay cho Gunny Canley.
Sáng
ngày 4 tháng Hai, Gravel quyết định tiến công.
Mục
tiêu bây giờ là trường Janne D’ Arc và nhà thờ (nhà thờ nhà nước – tên thường gọi
– ngd), cách MAC.V khoảng một trăm mét. Gravel biết có lực lượng quân CSBV ở
đây. Buổi sáng ngày 1 tháng Hai, dân chạy nạn đổ vào MAC.V thật đông, trong số
có vài bà xơ người Việt. Gravel nói chuyện với họ bằng một thứ tiếng Pháp không
được gãy gọn lắm do học được khi còn ở trường cấp ba. Các bà xơ nhỏ bé ăn mặc
áo tu đen trắng nầy cho biết quân CSBV đã chiếm nhà thờ. Họ nói: “Ít cũng có
khoảng một trăm người, chia làm bốn, ở trong các lớp học và trong phòng ngủ của
các bà “xơ”. Tiến đánh lực lượng nầy gồm có hai trung đội rưởi của Đại Đội
Alpha, do Smith và Canlay chỉ huy.
TQLC
tiến vào mục tiêu, quân CSBV bắn như mưa. Lính bị thương khi họ chạy vòng qua
góc nhà hay tấn công vào cửa. TQLC bắt đầu dùng chất nổ C-4 và hỏa tiển tấn
công để phá hủy vách nhà và sân tường thành những lỗ có thể tiến quân qua được.
Đó là một cố gắng bền bĩ và chậm. Cuối cùng. Họ tấn công thẳng vào địch quân.
Các lớp học nầy là một khu tứ giác lớn, ở giữa là sân rộng.
Nhà thờ
nằm cạnh bên lớp học, giữa những hàng cây xanh.
Trung
úy Smith và Canley cho quân tiến lên, bắn vào vị trí địch. Hai người dẫn đầu,
chạy từ chỗ núp nầy tới chỗ núp khác, vừa chạy vừa la xung phong và điện đàm với
Gravel qua máy truyền tin. Hạ sĩ Jackson dừng lại với tiểu đội. Hỏa tiển B-40
do địch bắn nổ liên tiếp, mảnh bay lung tung. Chưa bao giờ anh ta nghe hỏa tiển
nổ nhiều như vậy. “Chúa ơi! Thiệt là cảnh kinh hoàng!” Anh nghĩ thế. Hai quả đạn
nổ trên mái nhà, làm vài người bị thương. Ở phía bắc, nơi Đại đội 2/ 5 đang tấn
công vào ty Ngân Khố, trận đánh đang gay cấn. Hơi cay của Đại Đội 2/5 xử dụng
bay ngược về phía Đại Đội Alpha làm cho cuộc tấn công bị ngưng lại.
Gravel
đang ở trên máy, nói với bạn:
–
“Ernie Cheatham, đừng bắn hơi cay nữa”.
– “Xin
lỗi ông bạn già.”
Các
trung đội tấn công, xông vào nhà thờ, bất thần lựu đạn nổ âm ầm vào toán hỏa lực
tiên phong. Mấy TQLC vừa chết vừa bị thương. Lựu đạn nầy từ trên mái quăng xuống.
Địch
núp trên nóc nhà thờ.
TQLC
phải bò ngược trở lại điểm xuất phát.
Smith
gọi máy hỏi Gravel: “Chúng tôi làm gì bây giờ?”
Gravel
nghĩ tới các bà xơ đang tạm trú ở MAC.V với lòng biết ơn, nhưng ông ta không có
cách chọn lựa nào khác:
-Bắn
trốc mái đi.
Smith
điều một chiếc tăng lên và bắt đầu tác xạ. Một toán đại bác không giật cũng
lên, hòa âm ầm ầm cùng đại bác xe tăng. Nhà thờ rung rinh, ngói, gỗ bay khỏi
mái. Cột và cửa sổ mặt tiền đổ sụp xuống thành đống. Địch trên nóc nhà thờ đều
chết cả. TQLC lại tấn công, bắn đục tường để lấy đường vào bên trong, diệt các
toán CSBV trong các phòng học và các phòng ngủ nhỏ của các xơ. Địch chiến đấu từng
thước đất một. Thật là một cuộc đổ máu kinh hoàng. Chẳng còn lệnh lạc gì nữa hết.
Toán hỏa lực chạy vào các lớp học, bắn như điên như cuồng, quăng lựu đạn nổ ầm ầm.
Khói bay mù mịt, tiếng la hét, vôi vữa bay khắp nơi, xác người nằm ngỗn ngang.
TQLC thấy mình đã chiếm được cánh bên nầy của trường học, bắn nhau với địch
đang núp ở cánh bên kia, cách nhau bằng sân trường. Trung sĩ Gonzalez, hôm qua
đã bị thương hôm nay vẫn chiến đấu, đá bung cửa một lớp học, xộc vào trong cùng
với mấy TQLC của Trung Đội 3. Từ hai cửa sổ phía trước, hỏa tiển B-40 bay tới.
Gonzalez cầm hỏa tiển LAWW lên nhắm. Anh ta bắn ít nhất 10 trái hỏa tiển, lửa
và khói bùng lên ở vị trí quân CSBV. Súng ngưng nổ.
Thêm một
ngày Gonzalez chiến đấu.
Quân địch
rút khỏi nhà thờ và trường Janne D’ Arc. TQLC vào chiếm đóng. Kiểm điểm quân số:
TQLC hai người chết, 20 bị thương.
Hạ sĩ
Jackson cùng với binh lính của anh ta tiến vào một trong các phòng học, bỗng
phòng bên cạnh có một tiếng nổ kinh hồn làm rung rinh cả tòa nhà: Địch ở bên
kia bắn qua một quả B-40. Hạ sĩ Jackson cùng mấy người lính TQLC chạy băng qua
hành lang đầy đặc khói, xông vào một phòng khác. Tấm sắt ở trên của sổ văng vào
trong lớp. Hai TQLC bị thương té xuống và – Chúa ơi! Gonzalez nằm dài trên nền
nhà, ruột lòi ra. Bụng anh ta trúng một trái hỏa tiển. Jackson không muốn để
anh ta lại một mình trong đống vữa, gạch vụn – Anh ta không muốn quân CSBV có
cơ đụng đến thân thể bạn anh, anh cùng hai TQLC khác kéo Gonzalez tới một cánh
cửa bị đổ. Rồi họ chạy lui phía sau trường học, băng qua khỏi ngôi nhà thờ nhỏ
nơi Gravel đặt bộ chỉ huy tạm.
Gravel
nhìn lên. Kinh ngạc. Trung sĩ Gonzalez, người lính TQLC tuyệt vời đã chết. Họ đặt
xác Gonzalez phía sau ngôi nhà thờ nhỏ cùng với những người bị thương khác. Có
hai phóng viên báo chí đang đứng ở đây, họ chụp hình các người chết và bị
thương. Họ đang nói chuyện đùa, Jackson nghĩ có lẽ họ là người Pháp. Jackson
cũng chẳng thèm lưu tâm, chạy trở lui với trung đội của mình.
Gravel
bắt đầu tiến lên nữa, tìm một vị trí an toàn. Ông ta thấy hai tu sĩ cùng TQLC
chạy tới nhà thờ của trường Janne D’ Arc. Các tu sĩ nầy vừa được giải thoát khỏi
tay quân CSBV. Gravel lấy làm lạ tự hỏi tại sao họ vẫn sống được – TQLC thường
tự động bắn vào những ai mặc đồ đen. Mặt các tu sĩ nầy thì trắng: Một là người
Pháp, người kia là Bỉ. Các tu sĩ hết sức giận dữ, một người thì có vẻ sốc vì
súng đạn, người kia thì thét vào mặt Gravel vì nhà thờ bị bắn sụp.
Ngoài
việc xin lỗi, Gravel chẳng biết làm gì hơn. Ông ta cũng biết chẳng còn chọn lựa
nào khác. Ông ta đi băng qua đám gạch ngói đổ và nhìn lên mái nhà thờ. Quân
CSBV phá vở mái hiên bằng gỗ, Gravel nghĩ bọn địch đeo đẳng quá lâu ở đây, và
thế là qua một buổi chiều đánh nhau dài dằng dặc, tốn hao xương máu.
Trung
sĩ Gonzalez đánh giặc giỏi và bây giờ thì anh ta đã qua đời!
Buổi
chiều khi hai trung đội rưởi của Đại Đội Alpha đang đánh nhau với địch ở trường
Janne D’ Arc, thì các binh sĩ còn lại thuộc Trung Đội 1 bị mắc kẹt ở Quảng Trị
lên đường về Phú Bài. Ở đây, họ nhập với Đại Đội Bravo 1/ 1 và tiến ra QL. 1.
Xe chất
đầy đạn dược, không còn chỗ ngồi, hạ sĩ Edward F. Neas của toán súng máy Trung
Đội 1 chỉ còn chỗ đứng mà thôi. Nếu có gì được xem là điển hình cho người lính
bộ binh TQLC trong chiến tranh Việt Nam thì có thể xem Neas là một con người
thích hợp với điều đó. Quê ở Queens, to con, gồ ghề, tóc đen, 19 tuổi, bỏ trường
năm 16 tuổi, vì hay cãi lại cha mẹ, vào TQLC năm 17 tuổi, tình nguyện qua Việt
Nam năm 18 tuổi vì muốn làm một cái gì đó, xăm hình con phượng hoàng, quả địa cầu
và mỏ neo (huy hiệu TQLC) lên bắp tay và viết mấy chữ DTK (Down To Kill) vào
lưng áo giáp. Anh ta ghét quân CSBV chỉ vì họ bắn vào anh và bạn bè anh, và
đánh giặc thật hay chỉ vì anh ta là TQLC. Khi được về hậu cứ thì anh ta nghe
radio, uống vài loon bia và hút thuốc với bạn bè.
Tới gần
sông An-Cựu, đoàn xe chạy qua những chiếc xe tăng do Mỹ sản xuất đã bị hư hỏng,
đâm đầu vào các ngôi nhà gạch hai bên đường, súng đại bác bị bung khỏi pháo
tháp, rớt xuống bên cạnh. Có vẽ như những xe nầy bị B-40. Neas và bạn anh im lặng,
căng thẳng, nhìn ra hai bên đường, súng sẵn sàng trong tay. Bất thần có mấy tiếng
nổ, tiếng súng nhỏ từ trong những dãy nhà hai bên đường bắn ra. TQLC bắn trả,
xe dọt nhanh tối đa. Neas tưởng như xe chạy có hai bánh hướng nhanh về MAC.V.
Vào tới nơi, phóng xuống xe và họ sẵn sàng đứng vào vị trí dọc các vách tường.
Quanh khu MAC.V đầy xác quân CSBV, kẻ thì vắt trên hàng rào, nhiều xác nằm dài
trong sân, có xác mắc trong kẽm gai, cứng đơ và đã sình.
Neas
nghĩ: “Chúa ơi, trông như trong một cuốn phim chết tiệt.”
Có người
báo cho biết: “Đại úy Batcheller bị thương nặng, trung úy Perkins chết, trung
sĩ Gonzalez chết, bác sĩ Brooklyn cũng chết.”
Neas bị
xúc động mạnh. Kẻ thù đã giết mất những người giỏi nhứt. Nhưng Neas tự an ủi,
ít ra cũng còn Canley, những người bị thương và tất cả mọi người.
Chỉ mới
6 tuần trước, đại đội thực hiện một cuộc tấn công quân CSBV trong các hầm hố ở
Cồn Tiên. Neas lom khom đằng sau một chiếc xe tăng khi chiếc xe nầy tiến tới. Một
trong các xạ thủ đại liên bị đạn vào ngực. Y tá chạy lên, cũng trúng đạn và ngã
xuống. Neas thấy Canley chạy vượt qua chỗ anh ta, ôm lấy người y tá bị thương
bây giờ trông rất tơi tả, rồi nhanh như chớp quay trở lại, vừa chạy vừa bắn mà
chẳng bị chợt da một chút nào.
Neas rất
tin những người chỉ huy Trung Đội 1. Thiếu úy William R. Donnelly là một người
dẻo dai, tóc vàng, vừa mới được gắn loon ra trường tại học viện Annapolis. Vì
Neas và những người lính khác mới 18, 19 tuổi trông anh ta còn trẻ nên họ đặt
cho Donnelly biệt danh là “Chú Bé”. Trong trung đội cũng có một anh trung sĩ,
trung sĩ Josef Burghardt, 21 tuổi, dáng người rắn chắc, đẹp trai và thông minh.
Anh ta từ Nam Tư di dân đến Mỹ hồi 5 tuổi, và muốn tạo sự nghiệp trong TQLC.
Anh ta xăm một cái hình lớn biểu tượng cho TQLC/ Hoa Kỳ trên bắp tay. Năm
1966-67, anh đến Việt Nam một lần, khi ở Sư đoàn 9, được thưởng Anh Dũng Bội
Tinh Ngôi Sao Đồng – như anh ta thường nói, chẳng nghĩa lý gì cả -, khi anh ta
cùng đồng đội phản kích một cuộc tấn công của Cộng Sản sau khi đã bị thương.
Neas
yêu mến Burghardt; anh ta là một TQLC giỏi, một người bạn, một hạng người có thể
tin tưởng hết lòng. Cả Trung Đội 1 ai cũng có lòng tin anh ta như vậy.
Thiếu
úy Donnelly và trung sĩ Burghardt không có thì giờ nghỉ ngơi một chút sau khi sắp
xếp đơn vị lại tại MAC.V. Viên thiếu úy được lệnh đưa trung đội của anh ta, một
trung đội lấy từ đại đội Bravo và hai cái xe tăng nhỏ có trí súng đại bác đi
tìm xác hai TQLC bị giết ở phía đông MAC.V, quanh sân vận động Huế. Họ đã để lại
hai xác chết nầy trên đường. (TQLC có truyền thống là không được bỏ xác đồng đội
lại sau khi rút đi).
TQLC
tiến ra, vòng theo các đường phố và con hẽm, không ai biết chắc việc gì sẽ xảy
ra. Trước đây, họ chưa bao giờ chiến đấu trong thành phố. Mọi người ai cũng
căng thẳng thần kinh. Bất thần có bóng người di chuyển phía trước, thập thò ở
cái hố bên đường. Tức khắc, hai TQLC quỳ xuống và nổ súng, chiếc xe tăng có gắn
đại bác đi đầu cũng nổ súng. Mấy bóng người gục xuống. Khi TQLC tiến lên, họ bối
rối vì quang cảnh trước mặt: Dưới đáy hầm và bên lề đường là xác mấy người Việt
Nam mặc đồ dân sự. Có thể đó là quân CSBV xâm nhập ngụy trang dân sự. (đơn vị
1/ 1 đã gặp rắc rối vì tình trạng nầy) hoặc cũng có thể họ là người dân thường
thật sự.
Dù sao
thì cũng có vài TQLC chẳng quan tâm lắm.
Cuộc
tuần tiểu tiếp tục. Có tiếng súng AK nổ phía trước. Ngay phát súng đầu tiên,
Burgdardt và Neas nằm sát xuống đất, bên chiếc xe đại bác đi đầu. Xe quay súng
về phía căn nhà nhỏ nằm
Có người
phát hiện ra mấy cái xác họ đang đi tìm nên bốn TQLC chạy lên trước để nhận
xác. Súng AK và B-40 lại nổ khiến ba người té xuống đường, bị thương. Thiếu úy
Donnelly và trung sĩ nhứt James R. Bresnahan cùng Dagley, cả hai thuộc Đại Đội
Bravo chạy lên trước. Lính TQLC bắn như điên để che cho những người nầy. Cách
khoảng mấy chục thước phía trước, địch bắn tới, đất như bị cào lên chung quanh.
Donnelly bị mấy mảnh đạn hỏa tiển, nhưng ba người nầy vừa khom mình chạy vừa bắn
để kéo mấy người bị thương lui.
Trung
đội tập trung người bị thương và bắn ngược lại phía đường cũ: MAC.V. Thiếu úy
Donnelly đem trung đội tiến ra hướng tây để tham chiến cùng những người còn lại
trong đại đội. Họ vào một ngôi nhà lớn và Donnelly thấy mình đang đứng hàng đầu.
Anh ta điện đàm với trung úy Smith, người muốn anh ta rút lui. Tuy nhiên, lúc ấy
trời đã tối, di chuyển trong đêm rất nguy hiểm. Vì vậy, trung đội ở lại. Chỉ
còn có 19 người. Donnelly gọi điện cho Smith bắn súng cối yểm trợ cho anh ta.
Trung
sĩ Burghardt trải qua một đêm ngồi bên cửa sổ, nhìn qua đám ruộng và hàng cây
phía bên hông. Thỉnh thoảng hỏa châu bắn lên, rọi xuống đường và các đám ruộng
đầy nước. Ngay ở đây, nhìn qua cửa sổ, anh ta thấy quân CSBV. Họ đi từng đoàn,
từng đoàn phía bên kia ruộng lúa, giống như đàn kiến, hướng về phía biển. Họ
không mang súng, nhưng pháo binh hay súng cối cũng không được gọi tới tác xạ
vào họ. Suốt đêm, quân CSBV an toàn di chuyển, không bị hề hấn gì, mang người
chết và bị thương ra ngoài thành phố và mang đồ tiếp tế vào. Burghardt nghĩ: “Thiệt
là ngu xuẩn.”
Hôm
đó, đại tá Hughes ở trong MAC.V khi có pháo kích. Sau đó, có tin báo cáo là cầu
An Cựu đã bị đặc công địch phá sập. Như thế, con đường bộ từ Phú Bài đi Huế bị
cắt đứt. (Có vài cây cầu khác nữa nằm phía tây cầu An Cựu, cũng trên sông đào nầy,
một nhánh sông từ sông Hương chảy vào, nhưng tất cả cầu nầy còn nằm trong tay địch).
Đó là tin xấu, nhưng địch cũng không may gì. Họ đã để một thời gian quá lâu mới
phá cầu. Đó là chỗ hỏng lớn trong kế hoạch hành quân của họ. Cây cầu đã giúp đưa
các Đại đội A/ 1/ 1 và G/ 2/ 5 vào MAC.V ngay ngày đầu tiên, cứu được nơi nầy,
thiết lập điểm phòng ngự, chuẩn bị cho cuộc tấn công của Hoa Kỳ. Cầu nầy giúp
đưa thêm vào Huế nhiều binh lính và tiếp liệu. Đến khi quân CSBV phá cầu An Cựu
thì đã có 5 đại đội ở Nam Huế. Xem xét tình hình địch, Gravel thấy có lý do để
mỉm cười.
Sáng
hôm sau, thứ Hai, ngày 5 tháng Hai, hai Đại Đội Alpha và Bravo bắt đầu tiến chiếm
các ngôi nhà dọc theo ruộng lúa. Hạ sĩ Neas cùng toán súng máy chạy qua một con
hẽm, bắn vào các cửa sổ ở những ngôi nhà trước mặt họ. Quân CSBV bắn lại như
mưa.
Trung
sĩ Burghardt vẫn còn ở trong căn nhà lớn với hạ sĩ Norris Brennen, anh nầy là
tiểu đội trưởng súng máy, đang bắn qua bên kia đường. Burghardt gọi máy cho
Donnelly báo rằng cần thêm hỏa lực hỗ trợ. Anh ta biểu Brennan tránh xa các cửa
sổ cho đến khi họ có thể xử dụng xe tăng được hay sẽ làm gì đó rồi rút ra khỏi
hành lang. Anh ta mới đi được có mấy bước thì nghe Brennen bắt đầu nổ súng trở
lại. Rồi anh ta nghe có tiếng vũ khí đụng lách cách trên sàn nhà. Burghardt vội
quay lại phòng. Brennan là người chậm chạp, để súng cướp cò trúng mặt, máu
tuông ra.
Neas
đang trí súng vào thành cửa sổ để bắn thì thấy mấy TQLC đang ở phía dưới đường
vội vã khiêng một người ra cửa. Đó là Brennan, đầu anh ta băng kín. Còn sáu tuần
nữa thì anh ta hết phiên ở Việt Nam, nhưng anh bị xuất huyết cho tới khi chết.
Có
nghĩa là bây giờ hạ sĩ Neas làm tiểu đội trưởng.
Vài
phút sau, tiếng xích sắt xe tăng kêu leng keng dưới đường. Xe dừng lại, pháo
tháp quay chậm chậm về phía ngôi nhà có quân CSBV ẩn núp, bắn mấy phát. Đại bác
90 ly nổ bum lên, người chỉ huy bắn đại liên 50 vào các cửa sổ, gạch ngói bay
lung tung, khói lên cuồn. Địch chạy ngược lui cửa sau, trợn tròn mắt kinh
hoàng, không bắn được phát súng nào, chạy vượt qua khoảng sân sau. Burghardt chạy
tới cửa sổ tầng lầu 2. Cách khoảng mấy chục thước, quân CSBV đang bò. Vài người
giật bắn lên và rơi xuống vì trúng đạn. Số khác chạy thoát được. Burghardt nổ
súng nhưng cũng không chắc anh ta có gặt hái được gì.
Cuối
cùng, anh ta ngưng bắn, mang súng M-16 chạy xuống cửa sau nơi quân CSBV chạy
ra. Một lính địch nổ súng. Anh ta bắn lại một tràng, địch ngã ngay xuống sân. Rồi
một tên phóng ra, anh ta bắn hạ, lại một tên nữa phóng ra, anh bắn hạ, cứ thế
mà anh ta đã hạ được nhiều địch quân.
Một
lúc, tình hình yên tĩnh trở lại. TQLC hé nhìn qua các khe cửa, Họ thấy có 9 địch
quân chết nằm chồng lên nhau mà các đồng chí của họ không kéo đi được. Gravel
thấy tự hào về thành quả đó. Quả thật đơn giản là quân CSBV không thể nào đương
cự nỗi với những người lính TQLC trẻ trung của ông ta.
Các
thương binh TQLC vẫn tiếp tục chiến đấu hoặc được đưa vào trạm xá trong MAC.V.
Lúc tình hình lắng dịu, y sĩ Hamilton tới bộ chỉ huy của đại tá Hughes. Ông ta
đang đứng đó thì có bức điện gởi tới cho đại tá Hughes. Mấy TQLC phát hiện quân
CSBV trong một ngôi chùa và xin phép bắn súng cối vào ngôi chùa ấy. Hughes làm
theo chỉ thị về cuộc chiến ở Huế, nên gọi điện xin phép bộ chỉ huy LLĐN của tướng
LaHue ở Phú Bài, rồi từ đây chuyển cho bộ tham mưu tướng Robertson tư lệnh Sư
đoàn 1 TQLC ở Đà Nẵng. Từ đây, điện lại chuyển cho bộ tham mưu tướng Cushman.
Hai giờ sau, Hughes nhận được lệnh cho pháo kích ngôi chùa nhưng kèm theo lời
khuyến cáo giảm thiểu tối đa sự hư hại ngôi chùa cũng như những kiến trúc quanh
chùa. Tới khi TQLC bắn đại bác không giật vào chùa thì quân CSBV đã rút mất rồi.
Hôm
sau, ngày 6 tháng Hai, trung sĩ Burghardt leo lên tầng trên của ngôi nhà lớn
khi anh ta nghe la có quân địch ở phía sân sau. Anh ta chạy tới cửa sổ nhìn xuống
thấy có một Việt Cộng và hai quân CSBV đang núp dưới mấy cây dừa ở trong sân, lặng
lẽ quan sát vị trí của TQLC. Họ không biết là họ đã bị phát hiện. Burghardt đưa
súng lên nhưng vì lá dừa che nên không trông rõ địch. Anh ta mang súng chạy xuống
tầng dưới tìm một cửa sổ khác trông ra. Bây giờ anh ta thấy rõ. Họ đang ngồi
quay lưng về phía anh. Anh ta từ từ đưa súng lên vai và nhắm bắn. Một lính CSBV
đâm đầu gục xuống gốc cây. Phát thứ hai: Anh kia rơi phịch lui sau. Cả trung đội
nổ súng: Tên địch thứ ba và lá cây như bị xé nhỏ ra.
Dù vậy,
họ không phải thanh toán hết đám địch trong khu nầy.
Một
lúc sau đó Burghardt đang đứng ở tầng dưới nói chuyện với trung úy Donnelly thì
có tiếng nổ lớn phía sau bức tường họ đang đứng. Hai người lính TQLC đang đứng ở
đây, tai bị vưng lên, phủi bụi và chùi máu phía sau cổ. Một mảnh đạn xuyên qua
áo giáp và mũ sắt. Anh ta nhận ra quân CSBV đã dùng ngay chính hỏa tiển của họ
để bắn.
Hai
người đều được Chiến Thương Bội Tinh nhưng không ai chịu di tản cả.
Trong
tuần đầu tiên chiến đấu trên đường phố, Đại đội 1/ 1 lấy làm vui vì đã hoàn
thành nhiệm vụ trong trận đánh Huế. Từ ngày đầu tiên, Gravel đã gọi điện tiếp
xúc với bán Phi Đội Cat Killer của Không Quân Hoa Kỳ, họ đang đóng gần MAC.V và
đang bị quân CSBV bao vây. Họ đào hầm trong nhà, đặt mìn claymore chung quanh
nhà, chờ giải cứu. Mỗi khi Đại Đội Alpha hay Bravo tiến gần tới họ thì họ bị địch
bắn rất gắt. Họ có một bản đồ và thông báo vị trí địch cho Gravel. Mỗi khi địch
bắn vào nhà hay bắt đầu quấy rối bên ngoài thì họ chỉ điểm vị trí địch cho
Gravel. Do đó, Đại đội 1/ 1 bắn súng cối vào vị trí địch, đẩy địch ra chỗ trống
để dễ tác xạ. Được ít ngày, pin trong máy của họ bắt đầu yếu đi. Do đó, Gravel
nói với họ gọi hạn chế giờ lại để báo cáo tình hình mà thôi. Một hôm, họ nghe
được trong máy tiếng nói như thì thầm. Gravel biểu họ cố giữ liên lạc bằng việc
lắc ống nói. Không Quân cố thả pin xuống cho họ nhưng lại lạc dấu. Cuối cùng Đại
đội 1/ 1 chiếm lại được ngôi nhà và giải cứu họ. Đó là kinh nghiệm giữa 1/ 1 và
toán phi công Cat Killer. Sau Huế các phi công nầy hết lòng giúp binh lính của
Gravel.
CHƯƠNG 5: LÁ CỜ MỸ TRONG SÂN TÒA HÀNH
CHÁNH THỪA THIÊN/ HUẾ
Sau
khi củng cố an ninh khu Ngân Khố – Bưu Điện mới chiếm được, ngày hôm sau, Đại Đội
2/ 5 (ĐĐ) chiếm Câu Lạc Bộ Thể Thao, Thư viện Đại Học, Bệnh Viện Trung Ương Huế.
Tài liệu cho biết có 38 TQLC Mỹ bị thương trong khi 66 lính CSBV bị giết và 30
chục CSBV bị bắt khi đang điều trị trong bệnh viện Trung Ương Huế.
Mục
tiêu chính của Đại Đội bây giờ là tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên/ Huế. Đại úy
Ron Christmas, Đại Đội Trưởng Đ/Đ Hotel được giao nhiệm vụ nầy. Anh ta gặp phải
vài điều rắc rối về chiến thuật. Tòa Hành Chánh nầy là một khu nhà lớn, hai tầng
lầu xây theo kiểu Pháp, mái bằng, rất tiện cho quân Cộng Sản núp trên đó để bắn
xuống đường. Một bức tường cao 8 bộ bao quanh tòa nhà, phần trên tường nầy lại
có những khe hở. Christmas không biết có gì sau những bức tường nầy.
Tuy
nhiên, viên đại úy trẻ tuổi nầy gặp một điều thuận lợi lớn:
Binh
lính ông ta muốn chiếm ngôi nhà nầy. Vào ngày đầu tiên khi chiếm Huế, quân Cộng
Sản đã treo một lá cờ sao vàng lên cột cờ của toà Hành Chánh. Đó là một hình ảnh
cứ hiện ra dai dẳng mà xạ thủ súng máy Frank Thomas thường phản ảnh ý nghĩ của
nhiều TQLC khác, khi anh ta nói rằng: “Cần phải hạ lá cờ của quân CSBV đó xuống.”
Họ đã thực hiện được việc ấy hôm 6 tháng Hai.
Ngày 6
tháng Hai, sau trưa một chút, họ tiếp tục tiến quân, theo sau là cỡ một tiểu đội
phóng viên báo chí, gồm cả Don Webster của đài truyền hình CBS và hai người Việt
mang máy quay phim cho anh ta, trung sĩ Bertson và trung sĩ Dye, trung sĩ Bill
Dickman, trung sĩ Paul Thompson. TQLC Mỹ tiến phía trước, đi ngoằn ngoèo qua những
cây cọ đã bị bắn ngã và mấy ngôi nhà nhỏ bị cháy cho đến khi vào được bên trong
một cái sân rộng có trồng cây rải rác. Phía sau sân là tòa nhà lớn, hai tầng.
Bên phải họ là đường Lê Lợi và sông Hương, cuối sân là dãy nhà xe thấp, quay mặt
ra con đường kế đó, ngay bên kia đường là toà Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên/ Huế.
TQLC bò trên cỏ, về hướng nhà xe, cúi xuống thật thấp. Quân CSBV bắn dữ dội.
Ngay
khi súng bắt đầu nổ, thiếu tá Salvati kéo theo tài xế của ông và hai TQLC trẻ xạ
thủ đại bác 3.5 inches tìm đường vào bệnh viện vừa được giải tỏa xong. Bệnh viện
vắng, ngoại trừ một phòng dài đầy bệnh nhân nằm trên giường. Mấy bệnh nhân nầy
đã già và sợ điếng người. Salvati coi như họ đã chết. Mấy TQLC vào cuối phòng
và tìm một cửa sổ ngó qua tòa Hành Chánh rồi trí súng đại bác 3.5 lên trên ấy.
Xạ thủ nổ súng, hơi bật hậu dội vào hành lang, các giường bệnh bị đùa xa ra, dồn
vào góc nhà. Các TQLC kinh ngạc nhìn những người bệnh già bất thần chui ra khỏi
giường và từ từ biến mất.
Họ bắn
thêm mấy phát súng nữa. Salvati gọi máy cho Cheatham mang tới ít đạn hơi cay để
bắn sang tòa Hành Chánh. Ông ta muốn lặp lại thành công đã đạt được ở ty Ngân
Khố. Nhưng lần nầy thì gió ngoài sông Hương thổi vào hơi cay bay mất.
Đại úy
Christmas đứng trên đám cỏ trước căn nhà lỗ chỗ vì đạn, súng M-16 mang trên
vai, đang nói vào máy truyền tin. Ông ta còn trẻ nhưng mặt mày phờ phạc, râu
ria lởm chởm, giọng nói mệt mõi. Ông ta và đại đội đánh nhau với quân CSBV ở Huế
đã 5 ngày. Bên cạnh là hai hiệu thính viên còn trẻ và các phóng viên báo chí.
Thomas đứng kế bên, mang cây shotgun trên vai trông như cái gậy của người đi bộ.
Anh ta đang bàn với Cheatham làm thế nào để tấn công vào mục tiêu dễ hơn.
Chẳng
bao lâu sau, viên trung úy gọi một chiếc xe tăng hạng nhẹ có trí súng đại bác
tiến lên phía đường Lê Lợi, bên hông phải của đại đội Hotel, dừng lại phía
ngoài bức tường. Qua khỏi ngã tư phía trước, bên trái là toà Hành Chánh. Muốn
có một xạ trường tương đối rõ, chiếc xe phải tiến lên một chút nữa, qua khỏi bức
tường, chỗ khúc đường trống. Chiếc xe tăng hạng nhẹ ló mũi ra khỏi bức tường và
cho nổ ba phát 106 ly vào hướng quân CSBV trong tòa Hành Chánh.
Ban Chỉ
Huy của Christmas vẫn còn đứng trong sân khi có tiếng đạn bay ngang trên đầu. Rồi
có tiếng nổ dữ đội như tiếng sắt thép chạm nhau. Người hiệu thính viên cúi xuống
núp và nhăn nhó, trong phút chốc trông họ như những đứa trẻ đang run sợ bên cạnh
Christmas và Thomas già dặn hơn, chẳng một chút nhúc nhích gì cả. Một tràng AK
nổ ngay trên đầu. Vài giây sau, có tiếng một người trẻ gọi: “Y sĩ”.
Thomas
và vài TQLC tiến lên trước. Viên thiếu úy và ba người lính trong đội xe đang ở
phía sau bức tường nhà xe, ai cũng bị thương hoặc run vì tiếng nổ. Thomas buông
cây shotgun xuống và quì bên cạnh người bị thương nặng nhứt, một anh lính rất
trẻ, mũ sắt văng mất, nằm úp bụng xuống cỏ. Thomas lật anh lính bị thương nằm
ngữa ra lại. Anh ta nói yếu ớt và chỉ vào mắt, có mảnh đạn nằm trong ấy.
Thomas
nhìn lui chỗ ban chỉ huy, gọi: “Y sĩ lên đây.”
Họ đem
người bị thương để ở phía sau bức tường bị đạn lỗ chỗ, tránh đường đạn nổ lốp bốp
từ hướng tòa Hành Chánh bắn tới. Một y sĩ mở đường cho họ đi. Anh ta cẩn thận
băng quanh mặt anh lính trẻ. Màu băng trắng dính đất cát. Băng che mắt người
lính, anh ta bắt đầu rên rỉ: “Tôi bị thương, tôi bị thương.”
Phía
trước, lính CSBV vẫn còn bắn vào nhà xe. Christmas quyết định tấn công địch,
anh ta ra lệnh cho Trung Đội 1 tiến lên.
Chỉ huy Trung Đội 1: Thiếu úy Leo Myers, còn trẻ, mang kính trắng, chừa râu. Anh ta và mấy người lính của anh đang túm tụm bên ngoài nhà xe, chờ lệnh tiến quân. Họ chạy xuyên qua hai cánh cổng sắt để vào con đường ở mặt tiền tòa Hành Chánh. Cánh cổng đang mở và Thomas lo ngại lính của anh sẽ bị thương vong khi cố vượt qua cánh cổng ấy. Anh ta tìm được một góc phía sau cánh cổng, lấy một viên gạch đỏ cột vào đầu sợi giây rồi liệng qua cánh cổng, kéo cánh cổng ra và cột xuống đất.
Chỉ huy Trung Đội 1: Thiếu úy Leo Myers, còn trẻ, mang kính trắng, chừa râu. Anh ta và mấy người lính của anh đang túm tụm bên ngoài nhà xe, chờ lệnh tiến quân. Họ chạy xuyên qua hai cánh cổng sắt để vào con đường ở mặt tiền tòa Hành Chánh. Cánh cổng đang mở và Thomas lo ngại lính của anh sẽ bị thương vong khi cố vượt qua cánh cổng ấy. Anh ta tìm được một góc phía sau cánh cổng, lấy một viên gạch đỏ cột vào đầu sợi giây rồi liệng qua cánh cổng, kéo cánh cổng ra và cột xuống đất.
Thiếu
úy Myers cầm M-16, huơ tay ra dấu cho lính. Họ phóng nhanh vào cổng, ai cũng
mang mặt nạ. Trung sĩ Berntson, Dye và thiếu tá Aloysius McGonigal, linh mục
tuyên úy, cùng nhào vào tấn công cùng với trung đội. Dye hoảng kinh: Cái mặt nạ
anh ta mang bỗng quá nóng, ngộp, anh ta chẳng thấy được quái gì hết.
Súng lại
bắt đầu nổ. TQLC băng qua đường, tìm chỗ núp dọc bờ tường sân tòa Hành Chánh và
hàng cây dọc theo lề đường. Quân CSBV bắn ngang trên đầu họ làm họ không nhúc
nhích được. Christmas gọi một chiếc xe tăng hạng nhẹ lên tiếp sức. Một chiếc ầm
ầm chạy lên. Christmas tới bên chiếc xe, mở máy truyền tin gắn sau xe, cúi xuống
tránh đạn và chỉ điểm mục tiêu cho khẩu đại bác 90ly trên xe. Nhiều tiếng nổ
như xé phát ra trong tòa Hành Chánh. Bỗng một trái B-40 nổ ngay phía trước chiếc
xe tăng, mảnh bay tung tóe. Thêm một trái B-40 nữa nổ tiếp, Christmas không đeo
được xe, té xuống. Chiếc xe tăng vẫn bắn.
Súng cối
81-ly của ban Chỉ Huy Đại Đội bắt đầu nổ chung quanh. Thiếu tá Salvati và nhóm
của ông bắn thêm mấy quả hơi cay, lần nầy trúng ngay mục tiêu. Quân địch bắn ít
đi và Christmas gọi điện cho Myers: “Tiến lên.” Trung đội cho nổ một lỗ nơi
vách tường sân, tiến vào, khom mình xuống dưới nón sắt, áo giáp và đồ trang bị.
Họ khom mình núp sau hàng cây và bức tường thấp bằng đá trong sân, rồi cứ mỗi lần
hai hay ba người phóng như tên bắn vào tòa nhà chính. Cửa trước bị bắn bung ra,
lựu đạn tống vào, TQLC tiếp tục bắn. Súng AK vẫn nổ từ bên trong và hai người
lính TQLC xông vào đầu tiên gục ngay nơi cửa. Trong cảnh súng nổ dữ dội, linh mục
McGonigal chạy tới và nằm xuống bên cạnh người lính vừa chết, làm phép thánh lần
chót cho người nầy. Số TQLC còn lại quăng thêm lựu đạn vào nữa. Toán CSBV rút
lui, súng vẫn nổ, bắn đuổi theo họ.
Trung
đội 2, do trung sĩ John Miller chỉ huy, và Trung đội 3, do thiếu úy Mike
Lambert, vượt qua đường cùng với Christmas và Thomas cùng ban Chỉ Huy Đại Đội.
Việc đầu tiên Thomas và các TQLC làm là chạy ngay tới cột cờ, hạ lá cờ Cọng Sản
xuống.
Tình
hình trong khu vực tòa Hành Chánh được yên, các TQLC đứng nghỉ ở đó, ai nấy mệt
nhoài, dựa lưng vào tường, nói chuyện với nhau bằng một giọng nói yếu ớt, không
ra hơi. Thomas kẹp cây súng Shotgun giữa hai đầu gối, mở nút áo giáp, và kéo
ra: Một lá cờ Mỹ.
Đối với
TQLC đó là một hình ảnh đẹp.
Trước
khi trận đánh bắt đầu, Cheatham và Christmas thảo luận về việc treo cờ. Theo luật
pháp miền Nam Việt Nam, kể từ khi Mỹ được xem là khách của Việt Nam, trong phạm
vi lãnh thổ Việt Nam Cọng Hòa, không thể treo lên một lá cờ Mỹ mà không kèm lá
cờ vàng đỏ của Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, thật ra, chẳng ai muốn treo lá cờ
Việt Nam lên đây. Đây là lính TQLC, với những bạn hữu của họ, những người vừa mới
chết trên đường phố, họ không phải là binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Ông đại tá và
các đại úy tự hào về chiến công của binh lính mình, vì vậy trong trường hợp nầy,
luật lệ không được quan tâm tới.
Cheatham
nói: “Chúng ta không có quyền treo lá cờ Mỹ ở đây. Nhưng chúng ta đã tiến lên,
treo cờ và chẳng ai nói với chúng ta không được phép làm việc ấy. Chúng ta đang
chiến đấu, chúng ta cần có lá cờ để giữ niềm tin. Tôi muốn mấy tay CSBV ở bên
kia sông phải thấy lá cờ nầy.”
Thomas
mới tới Việt Nam, nói với Christmas rằng ở quê nhà, mỗi sáng anh ta phải chào cờ.
Mấy hôm trước, khi cấp chỉ huy nói với Thomas họ được phép treo cờ, Thomas biểu
lính đi xoáy đâu đó một lá cờ. Không ai tìm ra. Họ lại được sai đi một lần nữa
với chỉ thị là không có cờ thì không về. Họ kiếm được một lá. Có người nói là họ
chôm lá cờ ở cột cờ MAC.V. Thomas chẳng cần lưu tâm lá cờ được lấy ở đâu. Anh
ta ra trận với lá cờ xếp lại cất trong áo giáp.
Thomas,
một người đã có gia đình, quê ở Camden, New Jersey, đúng là dáng dấp của một
TQLC, ốm, dẻo dai, dửng dưng, chạm hình con rồng và con chó bull ở cánh tay trước.
Tuy nhiên, trong 17 năm ở trong TQLC, anh ta chưa bao giờ ra trận. Huế là trận
đánh đầu tiên, và chiếm tòa Hành Chánh tỉnh là phút giây huy hoàng của đời anh.
Đại úy
Christmas quay về phía Thomas và la to: “Làm đi.”
Lúc ấy
là vào khoảng quá 4 giờ chiều một chút. Thomas chạy tới cột cờ, nắm sợi giây.
Súng vẫn còn nổ lốp bốp phía ngoài tường. Walter R. Kaczmarek, 19 tuổi, người
mang máy truyền tin cho trung úy Myers và Alan V. McDonald giúp Thomas kéo cờ
lên. Nhóm truyền hình của hãng thông tấn CBS và các nhiếp ảnh viên của TQLC/ HK
quì trên sân cỏ, quay phim và chụp hình. Thomas kéo lá cờ “Sao và Sọc” lên giữa
tiếng la hét hoan hô của TQLC. Christmas đưa tay lau nước mắt. Họ đã treo được
lá cờ lên, phóng viên Don Webster của CBS mô tả lại trên truyền hình như sau:
“Chẳng có người lính đứng thổi kèn chào và TQLC quá bận rộn không ai có thì giờ
đứng nghiêm trước quốc kỳ, nhưng ít khi có được một lá cờ nào được kéo lên
trong niềm tự hào như vậy.”
Tại
ban Chỉ huy Đại đội, Cheatham gọi máy cho Bộ Chỉ Huy của đại tá Hughes tại
MAC.V: “Chúng tôi đã chiếm được tòa Hành Chánh tỉnh và bằng mọi cách, một lá cờ
Mỹ đang bay phất phới tại đó.”
Thomas,
McDonald, Kaczmarek và Myers cùng một vài TQLC khác đứng sắp hàng cầm lấy chiến
công của họ: lá cờ Cọng Sản họ vừa mới lấy được cho các phó nhòm chụp hình. Các
TQLC ai nấy đều dơ dáy và mệt đứt hơi, râu tóc không cạo, trang bị nặng trĩu –
nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi đánh Huế, họ cười to và sung sướng.
Thomas,
súng Shotgun mang sau vai, gọi to, đùa với toán truyền hình CBS:
“Chúng
tôi đang đói, Đại đội Hotel. Quay phim đi.”
Vài
người cười to.
Một
TQLC nói to với người quay phim: “Xong chưa, chúng tôi muốn ra khỏi cái địa ngục
nầy.”
Người
ta lại cười vì câu nói đùa.
Thomas
rời khỏi đám người đang chen chúc quanh cột cờ và thở dài luyến tiếc. Anh ta cảm
thấy tự hào, vui sướng và cả sợ hãi khi kéo lá cờ lên, và bây giờ thì anh ta cảm
thấy hết sức xúc động, nước mắt lưng tròng. Anh ta một mình đi về hướng bức tường
để tự trấn tĩnh. Bất thần, như có tử thần trên đường đi! Kìa, xa chưa được một
thước phía trước, ngay phía chân tường, một người lính CSBV đang núp trong một
cái hố, súng AK kẹp giữa hai đầu gối. Mắt họ thấy nhau.
Thomas
chụp súng bắn mấy phát. Người lính CSBV cúi núp xuống hố. Thomas phóng mình qua
một bên và gọi TQLC: “Coi mấy cái hố, coi mấy cái hố ở đằng kia.” Có khoảng gần
một chục cái hố dọc theo các bức tường. McDonald và nhóm hỏa lực của anh xông tới,
đi dọc theo bờ tường, nổ súng vào từng hố một. Chỉ trong ít phút, công việc
xong. Lính CSBV chẳng bắn lại phát súng nào. TQLC giết 6 mạng trong các hố đó,
mỗi người súng nằm bên cạnh.
Có một
người lính CSBV sống sót. Anh ta còn trẻ, đi chân đất, kịp đưa tay lên hàng trước
khi TQLC nổ súng. Hai người mang máy truyền tin, một đen, một trắng nắm cổ tay
lôi anh ta đi.
Một
lúc, sau khi thiết lập an toàn khu tòa Hành Chánh, một đại tá ở MAC.V gọi máy
cho Christmas biểu phải tuân theo luật lệ, hạ lá cờ Mỹ xuống. Anh ta không tuân
lệnh. Một lát sau, có hai đại úy Mỹ đến và nói với Christmas, họ đến để giám
sát việc hạ lá cờ Mỹ xuống. Christmas nói với hai người nầy nếu họ muốn lấy lá
cờ Mỹ đi thì họ cứ tự làm lấy, nhưng anh ta không bảo đảm binh sĩ anh ta không
có phản ứng.
Các
TQLC đứng lại để xem cấp chỉ huy của họ đối phó với hai viên đại úy. Họ kinh hoảng
về việc hạ cờ. Chiến hữu họ tử trận chưa kịp mang đi, họ còn đang đấu súng với
địch còn núp lén ngoài tường. Bây giờ thì có hai thằng cha xỏ lá tới đây nói
chuyện thủ tục lễ nghi. Các TQLC càu nhàu: “Tao không thể tin được.” Họ nguyền
rủa cuộc đời và mấy tên quân nhân kỳ quặc. Thomas cố trấn an họ. Nhưng
Kaczmarek nạp một băng đạn M-60 và cằn nhằn một cách cay đắng với Berntson: “Nếu
một trong hai thằng chó đẻ nầy đụng tới lá cờ là tao bắn tan xác nó.”
Hai
viên đại úy đành về tay không.
Cuối
cùng, một sĩ quan TQLC tại MAC.V can thiệp, và Christmas đồng ý cho hạ cờ xuống
khi họ đã rút ra khỏi khu vực nầy.
Sáng
hôm sau, sau một đêm pháo kích bằng súng cối, TQLC chuẩn bị lên đường. Họ hạ cờ
xuống như không để lại gì nơi đó cả. Một sĩ quan nói với một phóng viên báo chí
dân sự: “Nếu chúng tôi không treo lá cờ Mỹ lên đó thì chúng tôi cũng không treo
một lá cờ nào khác.”
Thomas
xếp lá cờ lại, bỏ vào gói rồi cùng binh sĩ tiến qua những ngôi nhà đổ nát bên cạnh.
Như
Don Webster của hãng CBS thuật lại: “Ngay lúc nầy thì tòa Hành Chánh là tuyến đầu.
Và họ đã chận được một cuộc tấn công. Trận đánh nầy làm cho họ nổi tiếng và một
sự đánh giá lớn lao không phải thắng hay bại mà chính căn bản là ca ngợi lòng
can đảm của họ. Lòng can đảm đó không thiếu gì trong hàng ngũ binh sĩ TQLC.”
CHƯƠNG 6: TỪ MAC.V ĐẾN PHÚ CAM CỦNG CỐ VỊ
TRÍ PHÍA NAM SÔNG HƯƠNG
Sau
khi Đại Đội Hotel củng cố an toàn toà Hành chánh vào ngày 6 tháng Hai, TQLC tìm
ra bộ chỉ huy của quân CSBV. Họ thấy ở đây vũ khí, bản đồ, trang bị, giấy tờ và
tiền bạc cùng nhiều tài liệu khác. Trung tá Cheatham nói với báo chí: “Chiếm được
Tòa Hành Chánh là đánh vở mặt hậu của họ. Đó là công việc khó khăn. Bây giờ
chúng tôi chỉ gặp phải những ổ kháng cự lẻ tẻ.”
Viên đại
tá không quá chủ quan (tuy nhiên, không quá lạc quan như ở bộ Chỉ Huy cao cấp,
tuyên bố tình hình Nam Huế ổn định kể từ 10 tháng Hai), nhưng về căn bản thì
ông ta đúng. Tuần đầu tiên thì CSBV và Việt Côjng còn gây được áp lực. Sau đó đại
đội 2/ 5 đã chiếm được khu vực Bưu Điện và Tòa Hành Chánh, củng cố vị trí của họ,
đại đội 1/ 1 thì củng cố MAC.V và hai ngày chiến đấu đẩm máu tại trường Jeanne
d’ Arc. Sau đó, ưu thế thuộc về phía TQLC. Đại Đội 2/ 5 tiến dọc theo sông
Hương và Đại Đội 1/ 1, xa hơn về phía nam, hành quân dọc theo sông An-Cựu, tiến
về phía bắc, đến sông Hương. Trong tuần lễ đầu tiên đó, TQLC chưa bao giờ bị
đánh bật lui. Họ tấn tới, đánh từ nhà nầy qua nhà khác, từ khu nầy qua khu
khác, củng cố vị trí vào ban đêm, tiến công vào ban ngày. Sức kháng cự của địch
càng lúc càng yếu dần. Họ không còn sức chiến đấu, giữ từng phòng hay từng nhà
như trước nữa và chủ yếu là phản công bằng bắn lén, pháo kích bằng súng cối hay
hỏa tiển.
Cường
độ trận chiến càng lúc càng yếu đi, thời gian phản ảnh chiến cuộc đã rõ hơn.
Một
trong những vấn đề lớn trong hàng binh sĩ ở vài đơn vị, – và một trong những phản
ảnh hoạt động của các sĩ quan trong quân đội – sĩ quan thì ngồi trong ghế bành
chỉ huy các đại đội trưởng, các đại đội trưởng ngồi trong công sự chỉ huy các
trung đội; các tiểu đoàn trưởng thì ngôi trên trực thăng, khuất tầm tác xạ của
địch. Ở Huế có sự trái ngược với những điều như thế. Trong trận đánh, sĩ quan
TQLC đi đầu, mức độ thương vong của sĩ quan cấp úy chứng minh như thế. Sĩ quan
cấp chỉ huy tiểu đoàn cũng thế. Mặc dầu đây chỉ là những trận đánh ngắn, rời rạc,
nhưng cấp chỉ huy tiểu đoàn cũng ở ngay tuyến đầu. Cả hai trung tá Cheatham và
Gravel chia xẻ công việc cho nhau, tiến lên cùng với binh sĩ, ngay cả trong những
lần đụng độ hết sức nặng nề. Đặc biệt Cheatham được nhiều người ca ngợi. Các
phóng viên báo chí theo dõi trận đánh thường có khuynh hướng tốt về đại đội 2/
5, viết về lòng can đảm cao độ của họ. Sĩ quan hành chánh của ông, thiếu tá
Salvati, sau nầy tuyên bố:
“Mọi
người biết công nghiệp của tôi trong lực lượng TQLC. Tôi dám mạnh bạo nói rằng
đại tá Cheatam là một cấp chỉ huy hoàn hảo nhứt mà tôi có dịp phục vụ dưới quyền
ông ta. Tài lãnh đạo của ông rất năng động. Chỉ trong những ngày đầu tiên của
trận đánh, nhiều lúc dưới hỏa lực địch, ông đã xuất hiện chỉ rõ từng mục tiêu một
để binh sĩ tấn công. Ông chỉ huy tiểu đoàn của ông theo đúng truyền thống tốt đẹp
nhứt của một sĩ quan TQLC.”
Huế,
có nhiều điều tự hào vì thực ra, (mặc dù đã gánh chịu tất cả những cuộc tuần tiểu
tao-ngộ-chiến, những thất bại, và trì trệ ở An Hòa), TQLC đã đánh bại, giành thắng
được một trận chiến cam go, dữ dội, đè bẹp được các đơn vị quân chính qui CSBV.
Đại úy
Christmas nói với các phóng viên báo chí: “Quả thật đây là một trận chiến dành
cho các người chỉ huy cấp tiểu đội, một phương cách chiến đấu. Các TQLC trẻ phản
ứng rất cừ.”
Thiếu
tá Salvati phát biểu: “Những người lính TQLC của chúng tôi ở Huế, nhìn chung đến
từ trận thua ở An-Hòa. Đó là một trận đánh căn bản là ở ngoài đất nước chúng
tôi, có phần cách ly với dân chúng. Hầu hết thì giờ là dùng để tuần tiểu. Thường
khi đi tuần tiểu trên đường dễ bị phục kích; nếu không, đi trên đường thì lại dễ
bị mìn bẫy. Các TQLC của chúng tôi thường không đụng lớn với quân CSBV. Vấn đề
tinh thần gặp khó khăn. Tuy nhiên, ở Huế, tôi thấy họ là những người chiến đấu
tài ba nhất. Những người trẻ nầy họ biết cách phải đánh nhau với địch như thế
nào. Từng ngày, họ cải biến cách chiến đấu hay hơn. Họ tìm cách tác xạ và điều
động, che chở nhau, xử dụng tài trí các loại chất nổ. Người bị thương nhẹ từ chối
di tản vì họ tự nhận thấy có trách nhiệm hoàn thành chiến công. Họ cố giành cơ
hội mặt đối mặt với kẻ thù và họ chiến thắng. Tôi trải qua những giây phút hết
sức xúc động, hồi hộp chứng kiến người lính trẻ TQLC đã đem hết tài ba của mình
giành lấy những gì họ đã giành được từ tay kẻ thù.”
“Tuy
nhiên, trậnh đánh còn lâu mới chấm dứt. Trong khi gặt hái được những chiến công
lớn lao, và kẻ địch bị đẩy vào vị thế chiến đấu càng lúc càng phản ứng kém đi,
cũng còn cần phải quét sạch quân CSBV còn lén lút đâu đó. Các cuộc nổ súng gây
nhiều tai hại. Sức kháng cự càng lúc càng yếu đi không có nghĩa là không còn
thương vong. Những cuộc chạm súng như vậy chỉ ít đi mà thôi. Đối với người lính
bộ binh, những người chỉ có cây súng M-16 và tài khôn khéo của mình giúp họ sống
còn, mà trận chiến cũng chưa chấm dứt. Họ vẫn còn chiến đấu hàng ngày ở đó,
trên đường phố, không mềm lòng, không xao lãng.”
Trung
sĩ Burghardt cùng với trung đội của anh đang lục soát trong bệnh viện. Họ đang
cố gắng vượt qua một khoảng sân trống trước mặt họ để tới dãy lầu bên kia. Hai
bóng người bắt đầu băng qua. Họ chạy theo rãnh nước trong sân – bỗng có tiếng
súng AK-47 nổ. Hai TQLC té xuống đất, bị thương.
Từ
trên cửa sổ, Burghardt nhìn thấy cảnh ấy, gọi cho hai y tá đang núp bên trong với
đồng đội. Anh ta biểu một y tá chạy ra kéo người bị thương vào. Người y tá anh
ta ra lệnh là một người lùn, chỉ còn hai tuần nữa là tới phiên về nước. Anh nầy
chần chừ.
Burghardt
nổi giận, mắng anh ta: “Thằng chết nhát nầy.” Nói xong, anh ta phóng ra khỏi cửa.
Anh ta chạy như bay trên đám cỏ, nhào xuống một cái hố. Súng nổ lốp bốp trên đầu.
Anh ta nắm một trong hai người bị thương và kéo người nầy xuống hố với anh ta.
Khi anh ta với lên để kéo người thứ hai thì bị địch bắn chết.
Trung
đội xông ra và cứu họ.
Trung
tá Gravel cùng Đại Đội Alpha di chuyển trên đường phố. Điểm đến là ngã tư gần
tòa Lãnh Sự Trung Hoa Quốc gia. Quân CSBV bắt đầu pháo kích họ. Mảnh đạn văng
vào tường gạch, mọi người tìm chỗ núp, nép người xuống hoặc bằng cách nào khác
để tránh mảnh đạn. Gravel đưa mắt nhìn quanh, Canley đang đứng nghênh ngang giữa
tiếng nổ. Anh ta tựa lưng vào cột đèn, súng trong tay chực nhả đạn, ra lệnh cho
binh sĩ trong khi súng nổ dữ dội, rõ ràng hết sức nguy hiểm. Gravel kinh ngạc:
“Chúa ơi! Bộ anh ta đang chờ xe bus chăng?” Chưa bao giờ ông ta thấy cái cảnh
như vậy.
Trên
đường rút lui, quân CSBV đã chọn một trong những người trẻ tuổi của họ, một “đồng
chí” còn trắng trẻo, xích chân vào nhà và giao cho một cây súng để làm chậm đường
tiến quân của TQLC. Người lính Cộng sản nầy tỏ ra không mấy nhiệt tình với sứ mạng
được giao nên vội vã đầu hàng khi TQLC Mỹ tiến chiếm khu vực. Họ giao “chú lính
sữa” cho trung sĩ tình báo. Tuy nhiên, các TQLC Mỹ cay cú vì bạn bè thương
vong, nên bắt đầu đánh hay giết tù binh mà họ đã bắt trói. Người trung sĩ nói:
“Hây! Thằng bé sợ lắm đấy. Nó sợ hơn bạn sợ đấy. Anh nghĩ là anh ngon lành khi
đánh nó hay sao?” Người lính bước lui và lầm bầm: “Ồ! Thằng đê tiện, chẳng đáng
để đánh nó.”
Trung
sĩ Dickman, nhiếp ảnh viên của TQLC, chụp bức hình anh trung sĩ đỡ thằng bé đứng
dậy. Đó là một ấn tượng mạnh mẽ cho thấy làm thế nào một người biết ứng dụng
tâm lý một cách đơn giản để ngăn ngừa một vụ giết người.
Người
tị nạn đổ xô ra khỏi nhà như dòng suối, chạy về hướng các TQLC Mỹ. Hạ sĩ Soukup
và binh sĩ trong tiểu đội anh ta lãnh nhiệm vụ kiểm soát người tỵ nạn, chặn các
người già và các bà mẹ đang bồng em để kiểm soát giấy tờ, truy tìm cán binh
CSBV lẫn lộn trong dân chúng, tịch thu vũ khí của họ. Ai kiểm soát xong rồi thì
được chỉ hướng chạy về MAC.V; ở đó có các cố vấn Mỹ và quân nhân QĐ/ VNCH chuẩn
bị nơi tạm trú cho hàng ngàn người mới bị mất nhà cửa.
Có một
ông già và một đứa bé tách ra khỏi nhóm người tỵ nạn, bỏ đi băng qua đám cỏ trước
mặt các TQLC. Soukup thấy hai người nầy bèn gọi lại nhưng họ cứ chạy.
Soukup
đưa súng lên và bắn một tràng đạn. Đứa bé té về phía trước nhưng cố gượng lên,
bò bằng hai tay và đầu gối. Ông già chạy ngược lui chỗ thằng bé bị té, các TQLC
khác nổ súng. Ông già cũng trúng đạn, ngã xuống. Một người khác bắn một quả
M-79, đứa bé nằm im, bất động. Khi TQLC tiến lên để kiểm tra hai xác chết, họ
không có giấy tờ gì cả. Lật xác ông già lên, thấy ông ta dấu một băng đạn của
CSBV dưới áo. TQLC không biết chắc ông già thuộc thành phần gì, có thể là người
cảm tình với Cộng Sản và cố tiếp tế đạn cho họ. Ông ta dắt đứa bé theo là muốn
làm ra vẻ dân lành vô tội.
Trong
tiến trình tác chiến ở đây, cạnh việc chiến đấu lại nảy sinh một vấn đề khó
khăn mà TQLC phải đối phó. Đó là việc làm hư hao nhà của của dân chúng, vấn đề
người chạy nạn và chôn cất người chết.
Các cố
vấn quân sự Mỹ được giao nhiệm vụ đảm trách công việc nầy, một trong những chướng
ngại cũng do từ phía người Nam Việt Nam tạo ra. Trung tá Phạm văn Khoa (Ông ta
họ Phan, không phải Phạm – ngd), tỉnh trưởng Thừa thiên kiêm Thị trưởng thành
phố Huế, là ứng viên lãnh trách nhiệm việc nầy. Xui xẻo! Ông ta không làm được
gì cả.
Trong
5 ngày đầu tiên của trận đánh, ông ta bị kẹt lại đằng sau phòng tuyến địch, buộc
lòng bỏ trốn cùng cận vệ. Tới ngày 5 tháng Hai, đại đội Fox 2/ 5 tìm thấy ông
ta. Sau một cuộc chạm súng ngắn, vài CSBC bị giết trong một tòa nhà. Khi đại úy
Downs vào, ông ta thấy một trung sĩ trong ban tham mưu của ông, đang giữ chức vụ
quyền trung đội trưởng, đứng trước hai người Việt Nam đang bị bắt đứng giang
tay úp mặt vào tường. Anh trung sĩ nói: “Chỉ huy trưởng, thằng ngốc chó đẻ nầy
nói với tôi nó là thị trưởng thành phố Huế.”
Downs
kiểm soát lại và tin rằng người Việt Nam đó nói thật. TQLC cho ông ta mấy cái kẹo,
nước uống rồi chuyển ông ta về tiểu đoàn.
Việc Cộng
sản tràn ngập là một sự kiện quá lớn đối với Khoa. Ông ta ngoan ngoãn, không
đương đầu nỗi với tình thế, và quá nặng gánh lo cho gia đình, vẫn trốn cùng một
nơi khi Cộng Sản kiểm soát thành phố Huế. Đến khi Đại Đội Golf 2/ 5 tìm ra gia
đình ông ta vào ngày 10 tháng Hai, Khoa mới bắt đầu lo tới trách nhiệm của ông,
nhưng ông vẫn chưa có kế hoạch kiểm soát cần thiết. Có một số binh lính VNCH tại
MAC.V – Họ rời đơn vị từ hôm Tết và nay vẫn chưa liên lạc được. Nhưng khi một
sĩ quan cố vấn đề nghị xử dụng các binh sĩ nầy thì Khoa lẫn tránh, nói rằng
Khoa không có quyền hạn gì với họ.
Dù có
hay không một ông thị trưởng gánh chịu trách nhiệm trực tiếp các vấn đề trên,
nó cũng không thể bỏ đi được. Thiếu tá Jack E. Walker, quê ở Baltimore, một sĩ
quan quân đội Mỹ thuộc cơ quan CORDS được chọn đảm trách công việc nầy. Để hỗ
trợ cho ông ta, một trung đội thuộc đại đội Dân Sự Vụ 29 được gởi từ Đà Nẵng
ra. Một trong những nhiệm vụ đáng ngại nhất mà họ phải thi hành là di chuyển và
chôn xác chết. Nhiều xác lính CSBV còn để lại nơi họ bị TQLC bắn chết. Xác chết
người dân còn nằm trong sân và trong đống ngói gạch ngỗn ngang. Các xác chết nầy
đã sình thối và lôi kéo chuột tới. Vấn đề sức khỏe trở nên nghiêm trọng. Với sự
giúp đỡ của Cảnh Sát Trưởng Huế, Walker lập kế hoạch đào những ngôi mộ tập thể,
nhưng phía Việt Nam thì từ chối không làm và không muốn đụng tới xác chết. Vì vậy,
các tù binh được lệnh mang xẻng cuốc đào huyệt chôn ngay nơi họ tìm thấy xác chết.
Về
phía người sống, thiếu tá Walker thực hiện cuộc kiểm tra chưa chính xác, có khoảng
5 ngàn người tạm trú tại nhà thờ Công Giáo (Ở đây, các linh mục tổ chức tương đối
tốt) và khoảng 17 ngàn người tạm trú tại trường đại học (Trường Kiểu Mẫu Huế –
ngd). Walker và toán của ông phải chăm sóc cho 22 ngàn người tỵ nạn, nhưng
lương thực thì thiếu hụt, y tế không đủ và dụng cụ vệ sinh cũng không có sẵn.
Ông ta gặp trung tá Khoa để yêu cầu cung cấp lương thực cho dân chạy nạn. Khoa
cho biết có tất cả có 25 kho gạo trong thành phố, đủ cho dân chúng xử dụng
trong 2 tháng. Chính phủ VNCH sẽ cung cấp cho dân chúng. Walker yêu cầu cung cấp
gạo ngay cho dân chúng vì tình hình khẩn cấp. Nhưng đến khi Walker lo gom gạo để
phát cho dân chúng thì thấy không có gì hết. (Không bao giờ ông ta tìm được ai
đã lấy gạo đi hết, nhưng ông ta chú ý thấy rằng dân chạy nạn có tiền thì vẫn
mua được gạo. Một phóng viên báo chí điều tra thấy giá gạo chợ đen nhảy từ 20
xu lên tới 4 đôla một kýlô). Walker gởi điện khẩn cấp cho bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
I ở Đà-Nẵng, yêu cầu cung cấp gạo cho dân chúng. Nhờ đó, người tỵ nạn được cung
cấp 380 bao gạo một ngày. Có một vài vấn đề nhỏ khác: Khi có 21 miếng thịt sườn
được cứu tế cho người tỵ nạn do Walker nhận từ Khoa và văn phòng của ông ta,
thì sau đó có 6 miếng biến mất.
Nhờ có
sự trưng dụng nầy mà dân tỵ nạn không ai bị đói cả.
Tại Bệnh
Viện Trung Ương Huế, Walker phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn. Một
số người tỵ nạn bị thương, người ta đang gặp nguy cơ có thể chết, nhưng chăm
sóc y tế thì rất ít. Vấn đề vệ sinh rất nghiêm trọng. Người bệnh ỉa đái ngay tại
chỗ và xác người rửa thúi ngay nơi họ ngã xuống. Nhờ sự giúp đỡ của nhân viên
Dân Sự Vụ Mỹ của Văn Phòng Y Tế Công Cộng tại Quân đoàn I và bác sĩ người Úc là
Froweys, xác chết được chuyển ra khỏi khu vực bệnh viện, đem chôn cất và bệnh
viện được chùi rửa sạch sẽ. Bác sĩ và y tá người Việt trong thành phố đến giúp
đỡ, cũng như một toán y tế của Hải Quân được gởi tới, người tỵ nạn được chích
ngừa, bệnh viện mở cửa đón bệnh nhân.
Những
quan tâm về tình hình trong khu vực trận địa đều được giải quyết tốt đẹp như
người ta hy vọng. Tuy nhiên, về phía các nhà lãnh đạo ở Huế thì không chu toàn
được nhiệm vụ của họ. Một tuần lễ sau khi trận đánh chấm dứt, một nhà viết sử
quân lực Mỹ hỏi bao lâu thì chính quyền Việt Nam có thể tự đảm đương trách nhiệm
một mình, thiếu tá Walker trả lời: “Chẳng bao giờ được cả. Họ quá ích kỷ, chỉ
nhắm vào mình, sợ hãi và thiếu khả năng quản trị. Các sĩ quan trẻ sợ không dám
quyết định, họ từ chối hoàn toàn và gặp phải đủ loại vấn đề rắc rối. Họ không
có trách nhiệm, chúng tôi phải làm lấy.”
Một vấn
đề xảy ra đằng sau chiến tuyến của TQLC là thổ phỉ. Ai cũng có hết. Một sĩ quan
TQLC hết sức ngây thơ nghĩ rằng binh lính trẻ của anh ta đã vượt quá việc giải
phóng những cái gọi là say sưa và tiền bạc tìm thấy trong những căn nhà trống.
Suốt trong những ngày đầu TQLC đã “chôm” một số kính hiển vi ở viện đại học và
khi đại đội 2/ 5 ổn định khu Kho Bạc rồi, một số TQLC bỏ túi một ít vàng thỏi.
Một số TQLC từng làm quen với những người ăn mày nghèo khổ sống trong làng quê,
ngạc nhiên trước sự giàu có của Huế, và có một số vật kỷ niệm bị lấy đi. Cũng
có một số xe dân sự bị trưng dụng. Những thứ “chôm” được đó được đem ra xử dụng
như mua đồ tiếp liệu, di tản người bị thương và ngay cả … hết xăng giữa đường.
Tuy
nhiên, việc cướp bóc của TQLC có liên hệ đến vài lý do nhỏ nhặt. Trước hết, và
quan trọng nhứt, các đại đội trưởng không khoan thứ cho một hành động cướp bóc
nào. Lệnh nghiêm nhặt tôn trọng tài sản dân chúng và binh lính bị lục soát kỹ để
ngăn ngừa việc cướp bóc. Thứ hai, TQLC không có cơ hội để cướp bóc của dân. Họ
đang chiến đấu, luôn luôn phải tiến tới phía trước nên không có thì giờ để thực
hiện những hành vi như thế. Họ chẳng có thể mang theo cái gì kềnh càng được. Mặc
dù có vài hành vi cướp bóc nhỏ nhặt, báo chí vẫn tường trình việc ăn cắp ồ ạt.
Chẳng hạn như nhà nhiếp ảnh Philip Jones Griffith tố cáo TQLC đã xé nát thành
phố bằng việc cướp bóc chè chén say sưa. (Tin tức của Griffith sai lầm vì sự thực
ông ta đã viết rằng TQLC ở Huế là những chiến binh rất nghèo khó).
Nhìn
chung, việc cướp bóc ở Huế là từ người Việt Nam. Người tỵ nạn báo cáo nhà cửa họ
bị ăn cắp. Những bị cáo lớn nhứt là binh lính Miền Nam VN. Vai trò của họ là
quét sạch Cộng Quân sau khi TQLC Mỹ đã tiến qua, nên họ đi từ nhà nầy qua nhà
khác để tổ chức băng nhóm cướp bóc, lấy bia, máy nghe nhạc, tủ lạnh, tiền bạc
và các thứ khác. Trong một vài trường hợp, binh lính VNCH còn lục soát dân
chúng và lấy những gì chúng muốn. Chỉ trong mấy tuần đánh nhau, việc các binh
lính cướp bóc nầy lên đến mức độ không thể khoan dung được, đến nỗi các nhà
lãnh đạo ban hành nhiều biện pháp quyết liệt: Xử tử những kẻ cướp bóc (1).
Trung tá Gravel sợ những hàng chữ như TQLC Hoa Kỳ hãm hiếp, cướp bóc, và cưỡng
đoạt các cổ vật trong Đại Nội nên ra lệnh cho các cố vấn Mỹ “Kể từ 12 giờ hôm
nay, bất cứ binh lính VNCH cướp bóc sẽ bị bắn tại chỗ.” Ông ta còn nói thêm:
“Tôi phải đổi hướng tấn công. Nếu cần, tôi sẽ làm như thế.”
Ông ta
không cần phải làm như thế, cũng không có một lính TQLC nào bắn hạ một tên cướp
bóc nào. Các cố vấn quân sự thông báo cho binh sĩ VNCH biết việc gì có thể xảy
ra. Mặc dù việc cướp bóc không bao giờ chấm dứt hoàn toàn nhưng đã giảm thiểu
nhiều. Nhưng tất cả kinh nghiệm còn lại là một chút chua xót nơi cửa miệng.
Trung sĩ Dye ghi nhận: “Binh lính VNCH quả là bất trị, luôn luôn tìm cách ở sau
xa TQLC khi chúng tôi chiến đấu ở khu Nam thành phố Huế. Sau một trận đánh cam
go, tôi thấy chúng lái xe GMC tới cướp bóc tại những ngôi nhà chúng tôi mới
đánh chiếm xong. Cũng có nhiều anh TQLC chó má về việc cướp bóc nầy nhưng tôi
nghĩ rằng nếu binh lính VNCH không lợi dụng cái uy danh của TQLC qua các trận
đánh ở đây thì họ đã đánh mất cái uy danh ấy rồi.”
Sáng
ngày 7 tháng Hai, chiếc cầu thứ hai và cũng là cuối cùng trên sông Hương bị đặc
công Cộng Sản đánh sập (2). Tuy nhiên, về chiến thuật không có gì ảnh hưởng nhiều
vì bến tàu Hải quân vẫn còn hoạt động hữu hiệu.
Ngày
hôm sau, bác sĩ Hamilton và 4 y tá chờ tàu thủy trở về lại Phú Bài. Họ đã ở đây
5 ngày. Một ngày sau khi họ thiết lập trạm y tế ở MAC.V, một trung úy VNCH tên
là Ba (hay Bá? – ngd), người nầy khai tốt nghiệp bác sĩ ở Saigon, hăng hái giúp
đỡ. Họ gọi ông nầy là bác sĩ Ba và ông làm việc hết sức mình để chăm sóc những
người bị thương. Điều làm cho bác sĩ Hamilton hết sức xúc động về Huế là tinh
thần của TQLC vô cùng anh dũng. Hầu hết những người lính trẻ sau khi băng bó
xong đều xin trở lại đơn vị ngay. Cuối cùng, tất cả các bác sĩ sau hôm họp ở
Đà-Nẵng đều trở lại thành phố, do đó, bác sĩ Hamilton nghĩ rằng đã tới lúc ông
và nhân viên của ông trở lại Phú Bài.
Trời
mưa nhẹ trên bến tàu. Bác sĩ Hamilton đứng nhìn đám người chuẩn bị ra đi. Có
khoảng một chục người tỵ nạn Việt Nam, vài phái viên báo chí đang chụp hình và
phỏng vấn, một vài TQLC, binh lính VNCH và khoảng 30 TQLC bị thương, vài người
đi cà nhắc, đầu bị băng, đội nón sắt và áo giáp, vài người nằm trên cáng có che
áo mưa. Sáu TQLC được bỏ vào bao bó xác chết.
Thỉnh
thoảng có tiếng nổ lác đác gần đó. Có tiếng súng cối và lựu đạn. Hamilton chỉ
lưu ý tới những tiếng nổ đó, tiếng nổ không gần lắm và có vẽ như càng lúc càng
xa đi.
Một
chiếc tàu đổ bộ (LCU) của Hải Quân cập bến. Người ta lên tàu. Những người chết
và bị thương nằm trên cáng được chuyển lên. TQLC và dân chúng tập trung trên
sàn tàu. Hamilton lấy làm lo. Chỉ một trái súng cối nổ trên sàn tàu sẽ làm cho
khối người chết và bị thương. Chiếc tàu ra giữa dòng và từ từ chạy lên hướng Bắc,
vào một con kinh đào gần bờ thành Thành Nội. Khi chiếc tàu đi vào một khúc sông
hẹp, quân CSBV từ hai bên bờ bắn ra. Hamilton núp phía sau một cái thành sắt,
nhìn ra sông. Cây cối dày đặc, bụi bờ, và cỏ ống. Lửa từ các họng súng núp dưới
đất bắn ra.
Các
TQLC còn đi lại được núp bên thành sắt trên tàu bắn trả. Bác sĩ Hamilton cũng
chụp một cây súng M-16 cùng nổ súng với họ. Chẳng ai trên tàu bị thương. Tàu tiếp
tục đi, chẳng bao lâu bờ thành khuất dạng, để lại tiếng súng phía sau. Rồi tàu
lại quay vào sông Hương và hướng ra biển đông.
Hai
ngày sau khi bác sĩ Hamilton rời Huế, một đợt tăng cường khác chuyển đến. Đó là
trung đội đại bác không giật 4.2 inch, súng cối thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn
11, Sư đoàn TQLC, dưới quyền chỉ huy của Pháo Đội Dã Chiến Số 1 LLDN X-Ray. Họ
có 12 người và 4 súng cối, trung sĩ Reliss chỉ huy. Ông nầy là một TQLC thuộc
loại cừ, một hạ sĩ quan. Khi trận Huế bắt đầu, trung đội ông có nhiệm vụ yểm trợ
cho các đơn vị hoạt động ở Phú Bài – Phú Lộc. Họ được lệnh chuyển về căn cứ Phú
Bài. Ngày 10 tháng Hai, sau ít ngày lau chùi súng đạn, tái tiếp tế, và tổ chức
lại, trung đội được máy bay Sea Knight chở đến thành phố Huế.
Chiếc
trực thăng gầm thét, lách qua lại để tránh đạn quân CSBV từ dưới đất bắn lên.
Reliss và lính tráng của ông lót áo giáp mà ngồi, để tránh đạn từ dưới bắn lên.
Chiếc trực thăng đáp xuống bãi đáp bên cạnh bến tàu Hải Quân, binh lính thoát
ra cửa đuôi. Quân CSBV nổ súng. Những người bắn sẻ núp bên kia sông hay trên tường
thành bắn qua, hai quả đạn súng cối hạng nhẹ rớt trên sông. Một toán súng máy
trí súng trên bến tàu bắn trả, la to biểu đám súng cối di chuyển. Trung đội chạy
nhanh tối đa, kéo theo cây súng cối nặng 650 pound.
Có mấy
người đi sau để bảo vệ, chiến trực thăng lao vào bầu trời sương mù, tiếng súng
tắt dần.
Sau 20
phút chờ đợi một chiếc xe GMC tới chở trung đội đi về hướng đông bến tàu, tới một
địa điểm cách khoảng vài trăm mét. Họ được gom lại trong khách sạn Hương Giang,
nằm bên kia đường đối diện với vị trí Đại Đội 1/ 1, phía bắc là sông Hương và
hoàng thành. Ở đây TQLC gác cổng, nhưng chung quanh đó toàn là người Việt.
Khách sạn Hương Giang đông đặc người tỵ nạn: đàn bà, trẻ em và ngay cả đàn ông
còn trong tuổi lính. Trên xe, Edward M. Landry, một người trong toán của Reliss
rất ngạc nhiên. Ở Quân Đoàn I, anh ta đã quen hiểu rằng tất cả những người còn
trẻ hễ không ở trong quân đội VNCH thì là Việt Cộng.
TQLC
chuẩn bị súng cối 4.2 inch. Thấy một người có vẻ lớn tuổi hơn, Landry hỏi:
“Này, ông ơi, chúng tôi đi với ai đây?”
Người ấy
trả lời ông ta không phải là xạ thủ, ông ta là thiếu tá đang làm việc với Đại Đội
1/1 và trung đội nầy sẽ hợp tác với tiểu đoàn của ông ta và Đại Đội 2/ 5. Rồi
viên thiếu tá giúp họ chuyển vào một căn nhà trống bỏ hoang, cho họ tần số truyền
tin thuộc hệ thống LLĐN X-Ray. Trung đội lo chuẩn bị đạn dược, dựng công sự
quanh súng cối bằng thùng đạn đổ đầy cát vào đó, sẵn sàng nhiệm vụ chiến đấu
sau khi đến Huế.
Còn có
nhiều việc phải làm. Đối với Landry, 21 tuổi quê ở Lynn, Massachsetts, vào TQLC
vì bộ Quốc Phòng gởi giấy động viên tới nhà, ở Việt Nam 6 tháng. Huế là nơi tồi
tệ nhất trong thời gian của anh ở Việt Nam. Anh ta nghĩ Huế là nơi tiêu biểu nhứt,
nếu dùng cho đúng chữ. Ở Huế, nhóm của họ có 12 người: Anh ta và trung sĩ
Reliss, Dave Raby, George Schamberger, Billy Barr, Ed Shaw, Powell, O’ Neil,
Edenfield, Miller, Torres, và Fuerst- Họ tự gọi họ là “Mười Chàng Dơ Dáy” bởi
vì họ thiếu trang bị và kẹt giữa đống rác dơ dáy. Landry chẳng muốn thế. Đôi
khi anh ta trông thật mệt mỏi và lo sợ, chỉ muốn khóc. Là một xạ thủ súng cối,
anh ta chưa bao giờ cận kề với giặc như thế nầy. Chỗ nầy hôi hám vì xác chết bắt
đầu sình thúi trong các đống gạch ngói vụn, mưa dầm và bầu trời u ám làm cho
lòng anh thấy ảm đạm u sầu.
Hơi đạn
cay xử dụng lưu lại trong không khí nhiều ngày làm cho việc hô hấp không được
thoải mái. Máy bay trực thăng tới bãi đáp để thả đạn dược xuống và chuyển binh
sĩ tử trận đi. Họ phải xử dụng thứ nước ở ngoài sông và bắn súng liên miên.
Theo lý thuyết, có 7 người phụ trách một cây súng: Anh ta, Reliss, người truyền
tin, tiền sát viên; họ chỉ có 4 người. Họ làm việc suốt ngày suốt đêm đằng sau
công sự do họ dựng nên, lắng nghe tiếng chạm súng chung quanh, nghe tiếng gọi
pháo trong máy truyền tin và bắn yểm trợ. Đạn cay, đạn nổ và đạn chiếu sáng ban
đêm. Nhiều lúc tiếng của tiền sát viên, tiếng bộ binh gọi trong máy: “Lặp lại.”
Gọi đi gọi lại nhiều lần, sau một loạt đạn bắn liên tục vào vị trí địch. Lặp lại,
có nghĩa là tác xạ lại trên một mục tiêu. Quân địch đút đầu núp đạn. Landry
nghe tiếng “lặp lại” không nhiều lắm. Ngủ rất ít, mệt thường xuyên. Một lần anh
ta chui vào ngủ trong góc công sự, nằm cuộn lại dưới cái bàn trong phòng, mệt
quá chẳng biết ra làm sao nữa cả. Khi mặt trời lặn, chỉ có vài khoảnh khắc là
trời tối, thế rồi máy bay tới thả trái sáng, máy bay tới tác xạ, biến đêm thành
ngày. Landry nghĩ ánh sáng hỏa châu như điều thần bí, làm cho mọi vật trở thành
hư ảo, trông giống như nhìn vào địa ngục. Súng cối địch bắn liên tục, mấy tay bắn
sẻ từ bên kia sông, phía Thành Nội bắn sang. Khi họ tới gần bờ sông, một lính
CSBV nổ súng, Schamberger lăn mình tránh đạn, rồi nghe một tràng đạn sát trên đầu.
Anh ta chụp cây M-16, quay tròn, thấy khói súng tỏa ra, anh bắn một băng vào cửa
sổ, tiếng súng ngưng. Nhiều ngày sau, Landry mới rõ chuyện: Cổ áo dưới cằm anh
ta thủng mấy lỗ vì đạn địch rồi bay trúng cánh tay O’ Neil đang đứng bên cạnh
anh ta.
Cũng
có những giây phút vui vẻ, như khi họ gặp mấy đứa bé mồ côi. Có một lần
Schamberger đi vào MAC.V, một em bé gái tên là Lê (Li) báo động cho anh ta đừng
đi vào con đường em bé đưa tay chỉ vì con đường đó, như em bé nói: “Beaucoup
Vixi.” Lời báo động của em bé đã cứu mạng anh ta. Nhiều năm sau anh ta còn giữ ấn
tượng sâu sắc đó nên khi sinh con gái, anh cũng đặt tên con anh là Sherri Li.
Mặc dù
đêm đầu tiên của họ ở Huế thật tệ, họ vào ngủ trong khu vực MAC.V. Landry có
nhiệm vụ phải đi gác. Anh ta đi tuần trên con đường một bên là các ụ súng và một
bên là sông Hương, bỗng nghe có tiếng đạn xé trên không. Anh ta phóng xuống đất,
bò như cua để tránh đạn và nhìn lên trời. CSBV pháo kích. Đạn lửa bay trong
không gian vạch từng lằn vàng trong đêm đen. Cuối cùng, hết pháo kích, máy bay
thả trái sáng, chiếu sáng toàn bộ khu vực.
Đêm
nào trái sáng cũng thả suốt đêm, Landry có thể đánh cá với bạn hễ cứ 3 người
TQLC thì có một anh mang dù trái sáng quanh cổ, cột quanh đầu hay đồ dùng.
Ban
đêm, TQLC củng cố vị trí phòng thủ, gài mìn claymore phía trước và đặt vị trí
canh gác cẩn mật. Đêm đêm, CSBV mò tới bắn lén hoặc quăng lựu đạn vào phòng tuyến
TQLC, nhiều khi họ bị pháo sáng phát hiện và bị bắn chết tại chỗ như đã xảy ra ở
Đại đội 1/ 1. Có đêm, TQLC nghe có tiếng động của kiếng và gạch ngói bể dưới
chân người đi hay bò trong một căn nhà phía trước. Họ dùng M-16 và hỏa tiễn bắn
xuyên qua cửa sổ. Một đêm, hạ sĩ Soukup và số lính còn lại trong tiểu đội của
anh ta phải bỏ lại một cây súng đại bác 106 ly đằng sau một căn nhà và chui qua
một lỗ vách để phòng thủ chung với binh sĩ Đại đội 2/ 5. Phía trước nhà, ngoài
sân là một bức tường; phía sau đó, quân CSBV đang giữ một khu nhà. Nếu có anh
CSBV nào trong bọn họ lẻn qua được vách tường đó vào khoảng nửa đêm thì có thể
đó là điều chẳng lành cho mọi người.
Soukup
và một TQLC khác đặt một vị trí nghe ngóng bên bức tường.
Họ gọi
thầm báo cho nhau, gom vũ khí rồi bắt đầu bò thật thấp qua một cái sân cỏ. Họ
ép sát vào tường, rồi ló đầu lên trên bờ tường quan sát. Cảnh thật đẹp. Trăng
sáng. Họ có thể thấy một ngã tư trước mặt. Nhà cửa trông màu xám, cửa sổ thì
đen. Mọi vật đều yên tĩnh. Đúng là yên tĩnh. Họ ngồi như thế khoảng 2 giờ đồng
hồ, tay đặt trên súng, quan sát, chờ đợi. Chẳng có gì xảy ra cả. Bỗng tự nhiên
họ thấy lo. Nếu có ai trong bọn họ thấy lâu không có động tĩnh gì cả sẽ bò ra
đây và chuyện rủi ro có thể xẩy ra. Họ quyết định ngồi nín thinh cho tới sáng,
ba hồi ngủ ba hồi thức canh.
Soukup
đang ngủ gật gù bên bờ tường thì bất thình lình đồng đội đánh thức dậy. Anh nầy
cúi xuống thầm thì nghe có tiếng gì đó bên kia đường, anh ta chắc có gì đó.
Soukup hé nhìn qua tường.
Bốn
lính CSBV nhảy ra đường.
Đồng đội
của Soukup bắn một quả lựu đạn, mảnh bay tung tóe trên mặt đường. Soukup bắn
thêm một băng M-16 rồi cả hai phóng mình nằm sát xuống đất. Đạn từ bên kia đường
bắn sang bay ngang trên đầu họ, đụng vào vách tường kêu lụp bụp. Soukup vừa bò
vừa chạy về hướng nầy còn đồng đội của anh về hướng kia rồi cả hai vòng lui cửa
sau ngôi nhà. Họ hô mật khẩu và nhảy vào trong.
Họ kiểm
tra tình hình, mọi người đều đủ mặt, ai cũng bình an.
Tới
khi mặt trời lên, họ tiến qua phía bên kia đường. Căn nhà trống không. Địch đã
rút lui trong đêm. Họ thấy có bốn CSBV chết chụm vào nhau trên đường, súng đạn
và xắc mang lưng còn y.
Trung
tá Gravel đặt ban chỉ huy gần QL. 1, tại địa điểm mới chiếm lại được. Chỗ nầy gần
trường học, ngôi trường CSBV đã chiếm trong trận đánh với TQLC vào hôm đầu
tiên. Gravel nhận được lời cám ơn đã đánh đuổi được Cộng Sản ra khỏi khu vực nầy.
Một linh mục Công Giáo tại một trường dòng nói với Gravel nhiều trẻ em của viện
mồ côi núp đầy trong các lớp học. Hôm 10 tháng Hai, mấy TQLC của Đại đội 2/ 5
đã hộ tống vị Tổng Giám Mục được giải thoát về lại Trường Dòng ở gần ban chỉ
huy của Đại Đội 1/ 1. Gravel đến thăm đức Tổng Giám Mục. Đức Tổng Giám Mục, tóc
đã ngã bạc, mang một cái thánh giá lớn bằng bạc trước ngực, mời Gravel tham dự
buổi lễ tạ ơn cùng với đông đảo con chiên trong giáo xứ, cầu nguyện cho việc
tái chiếm thành phố Huế được thành công tốt đẹp. Bằng một thứ tiếng Pháp không
được trôi chảy, Gravel trả lời đồng ý với Giám Mục và ra lệnh cho TQLC ai muốn
thì có thể tham dự lễ với Gravel vào lúc 9giờ30 ngày hôm sau. Một cách trùng hợp,
buổi lễ diễn ra vào ngày Chủ nhật, 11 tháng Hai. Gravel cùng vài TQLC đến thăm
một nhà nguyện của Trường Dòng với các linh mục. Ông ta bị xúc động bởi một điều:
Có 4 lỗ đạn đại bác 90ly bắn thủng vách tường mặt tiền, nhưng các khung gỗ thì
còn nguyên.
Đêm
hôm trước lễ tạ ơn, Cộng Sản lại tấn công.
Vào
khoảng nửa đêm, Gravel trở lại ban chỉ huy khi Cộng Sản bắt đầu pháo kích bằng
hỏa tiễn 120 ly. Không có công sự để ẩn núp nên ai cũng ngồi xuống, giữ lấy nón
sắt và nghiến răng chịu đựng. Trận pháo kích kéo dài 5 phút, vài tiếng nổ
nhanh. Bụi cát bay tung lên và TQLC thò đầu ra canh chừng địch. Thiệt hại nặng
nhứt là một chiếc GMC trúng đạn. Chẳng bao lâu người ta mới thấy đau lòng tại
sao TQLC chẳng hề hấn gì. Hầu hết hỏa tiễn đều bắn không tới mục tiêu, nổ bên
Trường Dòng của Giám Mục. Trẻ con được tập trung vào đây làm nơi ẩn trú nên khoảng
20 em bị chết, 40 bị thương nặng. Một linh mục chạy qua ban chỉ huy của Gravel
cầu cứu. Gravel gọi máy cho đại tá Hughes, được mấy phút, y tá và xe GMC đến cứu
giúp. Các em bị thương nặng đều được chở xuống bệnh viện Quân Đội Hoa Kỳ ở Phú
Bài.
Binh
lính TQLC xúc động thấy rõ, còn Gravel giận muốn sôi lên. Cộng Sản chẳng tôn trọng
luật lệ gì cả, chẳng quan tâm người bị họ giết là ai.
Ngày
11 tháng Hai, Đại đội Fox 2/ 5 chiếm xong một khu gia cư ngó xuống cây cầu bắc
ngang sông An-Cựu, phía nam ngã ba sông đào nối với sông Hương, (Khu cư xá đại
học, gần cầu Ga – ngd). Như thế, đại đội nầy đã quét dọc theo con đường đi về
phía tây, từ MAC.V đến bờ phía đông sông An-Cựu. TQLC dừng chân ở khu cứ xá nầy,
khám xét tất cả tác tòa nhà, lục lọi từng hộc tủ, và vì vậy, đã xoáy một số vật
kỷ niệm. Trung sĩ Carter tìm thấy một hộc tủ đầy thư từ, hình ảnh của một người
đàn ông da trắng và vợ ông ta. Một trong số hình đó, có hình người đàn ông mặc
đồng phục sĩ quan Quân Đội Đức Quốc Xã hồi Thế Giới Chiến tranh Thứ hai. Trung
đội ba thì tìm thấy một vài hộp thịt heo muối cũ khẩu phần ăn của Quân Đội Mỹ,
nên quyết định làm ngay một món ăn với thứ thịt đó.
Trung
đội 2 bên kia đường thì “giải phóng mấy con gà”, và trung đội 3 mua lại bốn cái
trứng với 4 đôla. Carter gần như muốn bệnh khi đập trứng vỡ ra. Lòng đỏ thì bầy
nhầy màu xanh rêu. Anh ta chẳng đụng tới, nhưng có mấy tay cực kỳ ngoan cố thì
đem nấu và ăn hết. Đại úy Downs đem tới mấy ống nước và bọn họ dựng ngay một chỗ
tắm ngoài nhà xe. Trời thì lạnh mà nước gần như đóng băng, nhưng chẳng ai thèm
quan tâm. Lính TQLC thấy khoái khi tuột áo quần dơ và chà cho sạch các vệt máu
khô, mồ hôi và đất bùn.
Khi mọi
sự đang diễn ra ngon lành như thế, trung đội 3 nhận thêm lính đến bổ sung, một
nhóm lính tóc húi-cua, áo quần còn sạch sẽ mới tới Việt Nam. Thiếu úy Hausrath
đưa mấy anh lính mới nầy vào trong nhà nói chuyện với họ. Trước hết, anh ta và
trung sĩ trung đội gọi điện yêu cầu bắn súng cối vào mấy tòa nhà bên kia sông
mà họ nghi là có CSBV núp bên đó, bắn sẻ qua bên nầy. Mấy trái súng cối rớt ở
phía xa bờ bên kia, vào các mục tiêu chết. Hausrath hứng chí tới gần bên cửa sổ
để quan sát.
Thình
lình, bên kia bờ một tràng đạn AK nổ dòn.
Người
Hausrath giật ngược lên, té xuống nền nhà, đạn trúng ngực anh ta. Các chú lính
mới nằm xuống, lăn bò càng, mắt mở to kinh ngạc. Hausrath thở được ít phút, mắt
trợn ngược và chết.
Hạ sĩ
Allbritton bước tới mấy bước báo tin hạ sĩ Burnham.
Burnham
thì thào: “Trời ơi, tôi mới đi theo anh ta.”
Carter
cảm thấy buồn vì cái chết của thiếu úy Hausrath. Anh ta thường không thích sĩ
quan lắm vì những qui định nầy nọ và lạm dụng quyền hành. Hausrath là một sĩ
quan mới ra trường nhưng tuồng như lúc nào anh ta cũng đúng. Anh ta thường chăm
sóc lính tráng của mình, chia nhau từng cái bánh và tạp chí Playboys mà người
yêu của anh ta gởi cho, chẳng bao giờ nói mãi cái câu: “Thi hành đi, tôi là cấp
chỉ huy”, câu thường nghe trong trung đội. Anh ta được mọi người kính trọng và
yêu mến. Có một lần trước khi trở lại Huế, khi viên thiếu úy nầy mới tới và
đang chờ hành quân, Carter đang gắn một trái mìn chiếu sáng vào trái mìn
claymore, anh ta vô tình làm cho trái mìn claymore nổ, bay mất mấy ống phát hỏa,
Hausrath từ ban chỉ huy chạy bổ xuống, một tay cần mũ sắt, một tay cầm M-16.
Khi thấy mọi sự, anh ta mắng Carter. Nhưng kể từ khi thấy Carter đứng đó trông
như con cừu. Tự nghĩ lại mình, và làm y như kiểu của John Wayne, anh ta cười to
lên.
Khi đại
úy Downs nghe tin, anh ta vội chạy tới vị trí Trung đội 3. Cái chết của viên
thiếu úy làm cho anh ta choáng váng. Chỉ mới 4 ngày trước, người hiệu thính
viên rất được anh ta yêu mến bị Cộng Sản giết chết. Anh nầy trẻ, đẹp trai, biệt
danh là Red. Họ đang lục soát từng nhà dọc theo sông Hương thì súng nổ, đạn bay
chéo trên đầu ban chỉ huy đại đội. Downs không hề hấn gì nhưng Red thì ngã xuống
ngay bên cạnh. Bây giờ thì bọn bắn lén giết Hausrath. Tình thế khó khăn. Viên đại
úy gọi những người thuộc Trung Đội 3 có mặt từ ngày đầu lại.
Họ tập
trung sau tòa nhà gạch. Hạ sĩ Allbritton kinh ngạc nhìn quanh. Toàn bộ chỉ còn
có 12 người. Ngoài tiểu đội của anh, chỉ còn có anh ta, hiệu thính viên và một
anh chàng trẻ biệt danh là Moses. Downs bắt đầu nói chuyện với họ. Anh ta nói:
“Các bạn chiến đấu thật kỳ diệu. Điều tôi muốn là chúng ta có một đại đội trưởng
giỏi hơn.” Rồi anh bị bị xúc động. Mọi người thấy anh chảy nước mắt. Allbritton
nghĩ: “Anh ta giỏi đấy. Đại úy là một người tài giỏi.”
Thiếu
tá O.K. Steele, TQLC, sau khi vào Huế đã gặp khó khăn. Ông ta to cao, đẹp trai,
35 tuổi, có gia đình ở tại Oakland, California, hết sức trầm lặng và thông
minh. Trước Tết, ông ta được giao một công việc không mấy thích thú là sĩ quan
tại ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn, hậu cứ sư đoàn 1 TQLC tại Đà-Nẵng. Ông ta
nói chuyện với đại tá Bohn và cố giành một công việc ở trung đoàn như là sĩ
quan quản trị của Đại đội 2/ 5. Ông ta được phân công với một người bạn cũ, thiếu
tá Salvati, ông nầy còn vài tháng nữa thì đến phiên về Mỹ.
Lệnh
bàn giao có hiệu lực từ 1 tháng Hai nhưng ông ta bị kẹt ở Đà-Nẵng vì đặc công
và pháo binh tấn công ngoại vi trong khi Salvati thì đang đánh nhau với địch ở
Huế.
Cuối
cùng, sau mấy ngày Steele đi nhờ được chuyến bay của chiếc trực thăng khổng lồ
CH-53. Phi công thay vì bay trên đất liền phải vòng ra ngoài biển Đông và khi
vào đất liền, ông ta phải ghì chặt vào máy bay vì máy bay phải bay đảo để tránh
phòng không. Tại Phú Bài, Steele báo cáo cho bộ chỉ huy Trung Đoàn 5 TQLC của đại
tá Bohn rồi đi thăm ông nầy sau khi đi quan sát sân bay. Ông ta không thể đi Huế
được vì thời tiết xấu và máy bay đi Huế thì chất đầy đạn dược. Vài ngày sau,
ông ta được lệnh báo cáo cho sĩ quan quản trị của Sư đoàn 1/ TQLC. Ông nhận lệnh
làm chỉ huy trưởng đoàn xe đi Huế, chở thiết bị đi sửa cầu An-Cựu. Theo tin báo
cáo, cầu bị thủng nhiều lỗ trên mặt cầu. Steele có một toán lính sửa cầu không
chuyên nghiệp: Một thiếu úy và một tiểu đội súng trường của Đại đội 2/5, toán bắn
sẻ, toán yễm trợ pháo binh, công binh biệt phái với xe GMC chở đầy gỗ, xe cần cẩu,
thiết bị thay thế và thương binh mới xuất viện. v.v…
Thiếu
tá Steele có khoảng 120 người, chẳng có ai là người ông quen biết trước kia.
Buổi
sáng ngày 10 tháng Hai, họ lên đường, chạy hết tốc lực trên QL 1 bởi vì ai cũng
ngại bị phục kích, nhưng người ta chỉ thấy TQLC của các đơn vị hỗn hợp Việt-Mỹ
đứng gác cầu. Bộ Chỉ huy LLĐN/ X-Ray báo cho Steele biết Đại đội 1/ 1 chưa củng
cố an ninh tại khu vực An Cựu/ Phú Cam, nên ông ta phải dừng lại tại tháp phát
thanh cách Huế khoảng 1 Km. Họ dừng lại lập phòng tuyến kháng cự bằng các xe
GMC và các xe tăng hạng nhẹ hộ tống. Steele đưa mắt nhìn 3 cái tháp cao tự hỏi
tại sao địch không đánh sập những tháp nầy.
Họ chờ
ở đây hết ngày. Vài người tỵ nạn chạy ngang bằng xe đạp. Vài lính Cộng Hòa mang
súng bên vai đi ngang đưa mắt dò hỏi, nói lúng búng và nhe răng cười như họ vừa
đi chơi ở công viên về. Mọi người đều đi ngược hướng về Huế.
Tới
khi trời tối, LLĐN X-Ray gọi Steele ra lệnh cho đoàn xe quay lại Phú Bài.
Sáng
hôm sau, họ lại lên xe. Có lệnh cho biết một đoàn xe từ Phú Lộc sẽ đến với lực
lượng tăng cường Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5/ TQLC. Họ chờ hết cả buổi sáng nhưng
chẳng thấy đoàn xe từ Phú Lộc tới. Bộ chỉ huy LLĐN X-Ray lại ra lệnh cho đoàn
xe của Steele lên đường. Xe chạy nhanh qua ba cái tháp phát thanh hôm qua, và
Steele đứng trên lưng chiếc xe tải chở ban chỉ huy, nhìn cái xe cần cẩu lắc lư ở
phía sau. Tới ngoại ô thành phố Huế, xe dừng lại và Steele cho đoàn xe tải quay
lại Phú Bài với một nhúm bộ binh giữ an ninh. Xong Steele ra lệnh cho các trung
đội hỗn hợp của ông ta thám sát phía trước và củng cố an ninh cây cầu An Cựu.
Không có súng nổ. Trong vòng mấy phút, viên thiếu úy trung đội đi đầu gọi điện
báo cáo cho Steele và họ cùng xe tăng và xe cần cẩu tiến lên cầu.
Cầu An
Cựu dài khoảng 100 bộ, đúc bằng xi-măng. Phần trung tâm đã bị hỏng sụp xuống.
Hai đầu cầu còn dính vào bờ. Nước chảy ở giữa. Mấy cây sắt móng cầu lồi ra, xoắn
cong lại trông như cọng bún khô.
Steele
và viên đại úy kỹ sư đứng trên bờ quan sát sự thiệt hại.
Steele
nói: “Được! Tiến hành đi, nối nó lại.”
Viên đại
úy nói không thể làm được. Việc nầy vượt ngoài khả năng của anh ta. Người ta
báo cho anh biết chỉ có mấy lỗ thủng giữa cầu. Anh ta chỉ đem theo vật liệu để
vá cầu mà thôi. Steele nghĩ trong lòng muốn đá anh kỹ sư nầy một đá cho rớt xuống
sông. Tất cả mọi việc rồi chẳng ích lợi gì hết. Sau nầy, anh ta mới biết cây cầu
sập đã một tuần. Vậy mà 7 ngày qua, LLĐN X-Ray vẫn nghĩ rằng cây cầu chỉ bị mấy
lỗ thủng ở giữa. Tin tình báo quả thật là tệ.
Ông ta
gọi điện cho Phú Bài, báo cho biết cây cầu không sửa được nữa và khuyến cáo nên
trì hoãn bất cứ một sự tăng phái nào của 1/ 5 cho đến khi cầu sửa xong. Xong
ông ta gọi điện cho trung tá Cheatham, báo cho biết đã tới địa điểm và báo cáo
cho tiểu đoàn mới của ông. Viên đại úy kỹ sư nói có thể dựng nhanh một cái cầu
cho người đi bộ. Steele ra lệnh tiến hành và bố trí binh lính ở những căn nhà
hai bên bờ sông. Bờ bên kia trông có vẻ an toàn, nhà cửa không bị hư hại, ngoại
trừ mấy lỗ trên vách tường bị bắn thủng. Ông ta có thể thấy TQLC trong những
căn nhà ấy. Người Việt Nam đội nón lá đi bên bờ sông. Steele và viên thiếu úy
thuộc Đại Đội 1/ 1, anh nầy mang cây Shotgun và nóng lòng muốn về với đơn vị,
tìm thấy một cái xuồng gần cầu. Họ lội xuống quăng áo quần và súng vào chiếc xuồng
rồi chèo qua sông trong nước lạnh giá. Họ cố cúi đầu xuống, đề phòng bị bắn sẻ.
Qua
bên kia bờ, họ mặc áo quần vào và đi tìm TQLC trong các ngôi nhà gần đó. Họ là
người của Đại đội 2/ 5 nên Steele đi tìm đại úy Meadows. Viên đại nầy, ốm và
mang kính trắng làm Steele nhớ lại hình ảnh các ông thầy giáo. Meadows như bó rọ
trong cái áo giáp của anh ta, M-16 vác trên vai, mặt mày hốc hác, râu mọc dài,
mắt đầy vẻ mệt mỏi. TQLC có mấy anh trinh sát, và mấy chiếc xe bị trưng dụng ở
đây. Meadows đề nghị Steele tới ban chỉ huy tiểu đoàn. Anh ta leo lên một chiếc
xe của trinh sát, xe nầy lỗ chỗ vết đạn. Anh ta đeo chặt vào xe trong khi tài xế
TQLC rú ga chạy hết tốc lực vượt qua một ngã tư.
Họ đến
ban chỉ huy theo cung cách giống nhau như vậy. Steele quen biết nhiều người ở
đây. Cheatham từng là một cán bộ đại đội khi ông ta mới nhập ngũ ở trại huấn
luyện. Salvati đã nhập trường sĩ quan với ông ta. Ông ta cũng đã phục vụ dưới
quyền chỉ huy của Christmas và Downs trước khi tới Việt Nam. Steele chính thức
nhận chức vụ sĩ quan quản trị do Salvati bàn giao lại. Cheatham khuyên ông ta
nên trở lại và giữ lực lượng phòng thủ qua đêm.
Ông đại
tá nói rằng Đại đội Hotel của Christmas sẽ giữ an ninh một cây cầu còn nguyên gần
khu gia cư. Sáng mai họ có thể qua cầu được. Mặc dù không biết chuyện ấy và mặc
dù có lời khuyến cáo của thiếu tá Steele về cây cầu, lực lượng tăng cường từ 1/
5 đã sẵn sàng nhiệm vụ của họ.
Các
TQLC của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 5, Sư đoàn 1 được lệnh leo lên 8 chiếc xe GMC
chạy chậm chậm qua con đường bùn và lá rụng phủ đầy dưới bầu trời âm u và thấp.
Các TQLC ngồi trên sàn xe, súng đạn để đống quanh họ. Trời gió bấc lạnh khó chịu.
Có một anh nhà báo chen chúc với họ. Đó là Michael Herr, người lùn, mang kiếng
cận thị dày cộm, phái viên của tạp chí Esquire. Anh ta may mắn ở trên chiếc xe
giữa đoàn xe. Đầu đuôi đoàn xe thường là mục tiêu dễ bị phục kích. Tuy nhiên,
TQLC và anh bạn phóng viên của họ an tâm cho rằng sẽ không nổ súng. Trên đường,
họ thấy hàng trăm dân tỵ nạn rời Huế chạy về phía nam. Trẻ em thì trông có vẽ
thích thú và thân thiện, trong khi người già thì nhìn chằm chằm vào họ với vẽ mặt
vô tình như thường thấy.
Binh
lính đang nói chuyện, huýt sáo và hút thuốc. Herr ghi nhận: Trông có vẽ như ở
khu thay quần áo trước trận đấu bóng mà chẳng ai hứng thú gì cả.
Phía
trước, họ có thể thấy khói đen ở Huế đang bốc cao lên.
Khi tới
cầu An Cựu, TQLC, Herr và các phóng viên báo chí khác xuống xe. Họ gặp trung sĩ
Dye, phóng viên chiến trường của Sư đoàn 1/ TQLC. Herr lưu ý Dye, anh ta không
phải là một TQLC bình thường. Dye, 23 tuổi, quê ở Girardeau, Missouri, cao, gầy
và đẹp trai, khôn ngoan và nhạy bén. Trên lưng áo giáp, anh ta vẽ hình Alfred
E. Newman với khẩu hiệu: “Có điều chi? Tôi lo lắng!” Và dán lên vải bọc nón sắt
một bông hoa màu vàng bằng plastic mà anh ta nhặt được trong trận đánh ở khu
nam Huế. Anh ta và người cộng sự, trung sĩ Berntson chui vào một ngôi chùa Phật.
Phía trước bàn thờ là một bình cao cổ cắm hoa màu vàng. Sau bình hoa là tượng
Phật. Berntson ngồi nghỉ trong chùa, rồi đi vòng quanh xem cách trang trí. Bất
thần anh ta thấy có bóng người chuyển động phía sau tượng Phật nên nổ súng. Tượng
Phật và bình hoa bể tan, một anh lính CSBV té nhào ra phía trước. Berntson lấy
một cái hoa trong bó vừa rơi ra khỏi bình, gắn lên tấm vải che nón sắt của Dye
và nói rằng hoa đó tượng trưng cho việc cứu mạng Dye.
Cái
hoa trở thành một mục tiêu rõ ràng cho những tay bắn lén nhưng Dye đã quen và cứ
để như vậy. Thiệt là một hành động điên khùng.
Việc ấy
xảy ra đã hai tuần. Bây giờ anh ta đứng đây, nói chuyện với Herr và các người
khác, đảo mắt và nhe răng ra cười dưới bộ râu quặp.
Thiếu
tá Steele trở lại, lội qua sông để về với ban chỉ huy của ông ta, thấy TQLC của
đơn vị 1/ 5 chuẩn bị sẵn sàng đâu đó để lên xe, ông ta ra lệnh phòng thủ chu
vi. Khi các phóng viên báo chí muốn qua sông An Cựu để vào thành phố, ông ta
nói với họ phải chờ tới ngày hôm sau và biểu họ vào trong một căn nhà bỏ hoang.
Ông ta sợ cho họ vì ông ta bị buộc ở lại đây ban đêm.
Ông ta leo lên tầng ba của một căn lầu, để từ đó có thể quan sát toàn bộ khu vực. Vừa lên tới mái thì Steele thấy hai chiếc trực thăng có trí súng đại liên của Sư Đoàn 1 Không Kỵ bay tới, bay sát mặt sông. Ông ta nhìn mà không tin được: Đại liên trên máy bay nổ bùm bùm, võ đạn rơi loảng xoảng trên mặt đường.
Ông ta leo lên tầng ba của một căn lầu, để từ đó có thể quan sát toàn bộ khu vực. Vừa lên tới mái thì Steele thấy hai chiếc trực thăng có trí súng đại liên của Sư Đoàn 1 Không Kỵ bay tới, bay sát mặt sông. Ông ta nhìn mà không tin được: Đại liên trên máy bay nổ bùm bùm, võ đạn rơi loảng xoảng trên mặt đường.
Dye,
Herr và một vài TQLC bước nhanh trên đường, dọc theo bờ sông, vừa đi vừa mở hộp
phần ăn tối để ăn, bỗng nhiên có tia đạn lửa bay tới phía họ. Anh ta cùng mấy
người trong nhóm lăn người xuống tránh đạn. Thức ăn và nón sắt văng ra. Chỉ
trong mấy giây, chiếc trực thăng bay mất. Họ đứng dậy, ngạc nhiên hơn là sợ.
Cũng may, chẳng ai bị thương.
Họ trải
qua đêm trong những căn nhà trống bên bờ sông, ngủ trên những tấm áo mưa trãi
trên gạch và kiếng bể. Dọc theo bờ sông, bên phía trái, hướng tây bắc, hỏa châu
và súng bắn suốt đêm.
Chiếc
cầu Ga Huế nằm ngang sông An Cựu vẫn còn nguyên. Cầu nầy ở gần chỗ sông đào nối
với sông Hương, phía tây bắc chỗ đóng quân của Steele. TQLC giữ phía bờ đông,
quân CSBV giữ bờ tây. Phải cũng cố an ninh phía bên kia mới có thể tăng cường
đơn vị qua sông được. Do được súng cối yểm trợ, Trung đội 1 của thiếu úy Myers
thuộc Đại đội Hotel được giao nhiệm vụ qua cầu và đóng chốt phía bên kia. Lệnh
là phải giữ vị trí suốt đêm. Họ đã hoàn thành.
Đó là
trận đánh gay go – hai tiểu đội trưởng nổi tiếng bị giết. Thiếu úy Myers cũng
hăng hái tham gia trận đánh, ném lựu đạn – tuy nhiên, sáng ngày 12 tháng Hai,
TQLC của Đại Đội Hotel vẫn chưa di chuyển. Trên sông đào, cùng với nhóm của thiếu
tá Steele, trung đội trinh sát và TQLC của Đại Đội 1/ 1 được biệt phái qua cầu
làm điểm tựa cho công binh, bắt tay được với đơn vị tiểu đoàn của họ. Steele
cùng nhóm còn lại của lực lượng ông ta và lực lượng tăng cường của Đại Đội 1/ 5
bắt đầu quét địch dọc theo bờ sông. Họ ngạc nhiên vì chẳng thấy tay bắn sẻ nào
cả. Qua hai giờ đồng hồ quét dịch dọc theo con sông, họ gặp Đại Đội Hotel vẫn
còn đóng ở cầu. TQLC giữ vị trí quan trọng đó, rồi cẩn thận tiến qua bên kia cầu.
Họ ra dấu cho đồng đội mới tới di chuyển. Nhóm đầu tiên phóng nhanh qua cầu, đạn
bắn sẻ bắt đầu nổ lách cách.
Thiếu
tá Steele khom mình xuống chạy với nhóm còn lại.
Tiếng
súng bắn sẻ rít lên. TQLC của Đại Đội Hotel chạy ngược lại. Họ củng cố vị trí tại
khu cư xá và nhà máy điện gần đầu cầu.
Chủ
nhà máy điện người Pháp cùng gia đình may mắn không ai hề hấn gì nay được Mỹ
che chở.
Ngày
thứ Hai, 12 tháng Hai, một ngày sau khi thiếu úy Hausrath bị giết, Đại Đội Fox
vượt qua sông để càn quét những tên bắn sẻ. Carter, xạ thủ đại bác 3.5 inch được
chỉ định đi với Trung Đội 2, đơn vị mũi nhọn, dùng thuyền máy bị trưng dụng để
đổ bộ qua sông, xong quay ngược lại, quét sạch khu nhà giữa nơi họ đổ bộ và cây
cầu. Họ tấn công từng nhà một rồi tới căn nhà kế, tìm thấy mấy xác Cộng Sản.
Trung đội tiến được vào sân ga xe lửa.
Một trung
sĩ nói với Carter bắn một phát vào một toa xe đang nằm trên đường sắt. Anh ta bắn
hai phát, xong họ tiến vào lục soát thấy một toa xe có hai xác CSBV trong đó, một
xác bị mất đầu. Carter tịch thu một cái khăn quàng cổ màu xanh đỏ trên xác một
người chết. Họ tiếp tục tiến quân.
Trung
đội 3, – bây giờ do James H. McCoy, một trung sĩ chỉ huy, – vượt qua cầu, và bắt
đầu quét dọc theo con dường bờ sông, dùng lựu đạn khói để che khi tiến công. Hạ
sĩ Allbritton tới gần một ngôi nhà, khi nhìn lui thì thấy thiếu tá Salvati và một
trung sĩ của tiểu đoàn đang tản bộ trên đường – ngay giữa đường – giống như người
ta đi bộ tập thể dục buổi sáng vậy. Viên trung sĩ nầy là một cựu chiến binh từng
tham gia trận đánh trên đường phố ở Hán Thành, Nam Triều Tiên. Allbritton cảm
thấy phục họ, nhưng anh cũng cảm thấy mệt tới tận xương vì thấy quá nhiều TQLC
đã hy sinh.
Anh ta
la lên với họ: “Đừng có làm bia cho tụi nó nữa. Tôi không muốn lính của tôi lôi
xác mấy ông ra khỏi đây.” Nói xong, Allbritton nhảy tìm chỗ núp mất dạng nên
hai người kia không thấy anh ta. Họ bèn tìm chỗ núp.
Súng nổ
lác đác. Một tay bắn lén bắn một tràng vào Trung Đội 2. Carter tiến lên phía
trước. Anh ta nạp đạn vào súng, viên đạn trợt qua ống phóng và rơi ngay tại
chân anh ta. Trong suốt trận đánh, anh ta xử dụng đại bác 3.5 inch. Súng bắt đầu
bị trục trặc.
Cách mấy
khu nhà xa xa phía trước, có ngôi nhà họ nghi là địch từ đó đã bắn chết viên
thiếu úy. Không có gì ngần ngại, họ làm ngay, gọi điện cho toán súng cối và
toán đại bác không giật tác xạ: Ngôi nhà bị san bằng.
Đêm tới,
các trung đội rút về bên nầy sông.
Carter
ngủ qua đêm với Trung Đội 3. Anh ta quàng mấy tấm màn để che cơn gió bấc lạnh,
nhìn mấy con chuột chạy quanh nhà lục lạo. Cây súng của anh để sát bên chân, đạn
sẵn trong nòng, chờ động dụng.
Trước
khi chia tay với tiểu đoàn, thiếu tá Salvati đi ra ngoài cùng thiếu tá Steele để
tìm nơi đặt bộ chỉ huy cho ông đại tá và Tiểu Đoàn 2. Hai người bạn cũ đi bộ dọc
theo đường Lê Lợi bên bờ sông Hương. Steele ngạc nhiên vì cảnh tượng thành phố
bị tàn phá. Khi ông ta tới Phú Cam, các ngôi nhà cũng chưa hề hấn gì lắm, ngoại
trừ những lỗ đạn lớn nhỏ rải rác đây đó. Tuy nhiên, địch kháng cự rất căng trên
con đường Lê Lợi nầy. Đây là nơi suốt hai tuần lễ, tiểu đoàn phải chiến đấu gay
go và đổ máu nhiều. Điều nầy làm Steele nhớ lại cuốn phim thời sự Thế Chiến thứ
II về trận đánh Monte Cassino, những bức tường vở trơ trụi giữa đống gạch ngói.
Họ vào
Câu Lạc Bộ Thể Thao, một câu lạc bộ cũ của Pháp, nhìn xuống sông Hương, có những
thảm cỏ trãi dài tới bờ sông, những khoảnh đất rộng, sân quần vợt. Bề ngoài,
trông còn tốt, nhưng khi đi từ cửa nầy qua cửa kia, họ thấy vết đạn loang lỗ
trên tường mỗi phòng, vết đạn kéo từ phòng nầy qua phòng kia, bông băng dính
máu vứt đầy chứng tỏ địch đã dùng chỗ nầy làm bệnh viện. Việt Cộng và quân CSBV
không có trực thăng để di tản người bị thương nặng, không có bệnh viện thật sự,
chỉ có một số y sĩ huấn luyện cấp tốc. Nơi nầy chứng kiến nhiều nỗi đau khổ.
Cuối
cùng họ đi vào đây và đặt ban chỉ huy ở khu nhà Đại Đội Fox đã củng cố an ninh,
tầng trệt thì dùng làm trạm cứu thương, tầng hai thì dành cho Cheatham và ban
chỉ huy của ông ta. Tầng thứ ba thì để trống, phòng khi địch pháo trúng mái nhà
như thường ngày địch đã pháo. Ban chỉ huy Đại Đội 2/ 5 cũng đóng ở đây.
Trung
sĩ Dye đứng bên một cái hầm tìm thấy trong khu vực do Đại Đội 2/ 5 chiếm lại.
Các TQLC khác đứng bên cạnh lầu bầu: “Chúa ơi!”.
Một
mùi hôi thối khó chịu từ hầm bay lên, một mùi thúi đến lộn ruột bao trùm hết
không khí chung quanh, lên tới bầu trời thấp đầy mây và mưa phùn. Dưới đó, bên
dưới giày dép là hàng trăm xác người. Họ là người dân miền Nam Việt Nam, chết
chồng lên nhau, nằm ngang nằm dọc, tưởng như níu lấy nhau khi người ta xã súng
máy vào họ. Dye có nghe người ta đồn Cộng Sản tàn sát hàng loạt người dân Huế,
nhưng anh ta không bao giờ nghĩ có thể có một cảnh tượng như thế nầy. Thân nhân
và bạn bè của người chết đang tìm cách để tìm người thân trong đám xác chết hỗn
độn bắt đầu thối rữa ấy. Họ lấy khăn tay để bịt mũi miệng lật từng xác chết tìm
người thân.
Không
bao giờ Dye có thể quên được hình ảnh ấy. Một năm sau, anh ta cũng nghĩ đến
hình ảnh ấy khi vụ Mỹ Lai được đăng trên báo. Dye không thể tin được, khi báo
chí làm ồn ào vụ Mỹ Lai nhưng lại chẳng bao giờ nói đến việc tàn sát của quân
CSBV ở Huế. Cuối cùng, việc ấy cũng sẽ phai mờ theo thời gian cũng như những mối
xúc cảm về một cuộc chiến tranh vậy.
Thứ
Ba, 11 tháng Hai, trung tá Cheatham ra lệnh quét sạch các tay bắn lén, ngoan cố
và những tên lính bị lạc đường phía bờ tây sông An Cựu, gởi Đại Đội Fox và Đại
Đội Hotel qua sông. Christmas cùng đơn vị tiến xuống phía nam, qua ga xe lửa,
trong khi Downs tiến lên phía bắc đẩy quân CSBV vào giữa hai gọng kềm.
Carter
và trợ viên mới của anh, hạ sĩ Chek, người Mỹ gốc Trung Hoa quê ở Nữu Ước, đi
trước trung đội. Họ dùng súng 3.5 inch bắn bay cửa của một ngôi nhà rồi một vài
TQLC tiến vào trong. Nhà trống không. Carter bước vào trong “chớp” nhanh vật kỷ
niệm của một cặp vợ chồng ở phía ngoài phòng của trẻ con. Họ tiếp tục đi tới,
không có súng nổ, không có ai hết, kể cả người dân thường. Cuối cùng, họ thấy
nghi. Cách mấy chục thước phía trước là căn nhà xây theo hình chữ L, cửa đóng;
một dấu hiệu không lành. Allbritton đi phía trước tiểu đội, đưa tay ra dấu cho
toán xạ thủ hỏa tiển vượt lên, yêu cầu bắn vài phát vào nhà. Một quả đạn vượt
qua song sắt cửa sổ bay vào. Từ sân thượng của một tòa lầu hai tầng, Carter nhắm
và nổ súng. Cái cửa sổ nhỏ bay mất, khói tuôn ra.
Một
anh xạ thủ khoái chí bắn một tràng, Carter lại nhắm, nhưng Chek dụng vào chốt súng
nên súng không nổ, bỗng Carter nghe Allbritton la to: “Ngừng bắn.”
Anh
chú ý thấy người từ trong nhà chạy vòng ra từ một cánh cửa bị khuất. Trước tiên
là một ông già lụm cụm, đầu hói, và râu dài tới ngực. Mặt và tay ông ta đầy
máu. Hai đứa bé nắm lấy áo ông già và khóc. Bắt đầu có thêm nhiều người từ
trong nhà chạy ra, người nầy dìu người kia như bị thương, hoặc là chết. Một người
nói với TQLC rằng họ là dân thường, CSBV đã giữ họ để làm con tin. Tình cờ họ
đã được TQLC giải thoát.
Đại úy
Christmas để Thomas lại làm hậu bị cho đại đội rồi đưa anh hiệu thính viên đi
theo trung đội mũi nhọn cho Đại Đội Hotel. Anh ta nghĩ một cách mơ hồ rằng hôm
nay là ngày 13, và trầm ngâm suy nghĩ tới con số không may.
Họ tiến
qua khu ga xe lửa, rồi tiến về phía tây, ngoại ô Huế, vượt qua một doanh trại của
quân đội VNCH (ở Nam Giao ngd), qua một khu rừng gỗ, và những ngọn đồi thoai
thoải, một khu nghĩa địa cổ và mấy ngôi chùa nhỏ. TQLC chú ý tới mấy ngôi mộ mới
đắp, những huyệt mới đào còn cạn. Christmas cùng mấy TQLC tiến lên quan sát.
Trong
phút chốc súng nổ dữ dội. Họ nghe tiếng súng cối bắn đi. Christmas và ban chỉ
huy của anh ta kẹt giữa một khoảng đất trống khi đạn bắn tập trung vào khu vực,
mảnh đạn bay lung tung. Ai cũng muốn lao vào một nơi nào đó để tránh đạn. Họ
chen chúc nhau trong một chỗ đất hõm, trong khi đạn vẫn nổ. Christmas quay nhìn
lui thấy bóng của một lính CSBV núp sau một cái đền hơi xa. Anh nầy bắn một quả
B-40 trong khi đó Christmas chỉ kịp nghĩ: Mình đâu phải là chiếc xe tăng. Hơi
nóng mảnh đạn sắc như dao cạo đâm sâu vào chân phải anh ta. Anh ta liền nhảy
vào một cái huyệt cạn mới đào bên cạnh, nằm co lại, một cái xác Việt Cọng nằm
bên cạnh. Đạn súng cối tiếp tục rơi xuống, anh ta cố ép mình thật sâu trong huyệt,
xác chết im lặng nằm bên cạnh anh.
Carter
và mấy người lính TQLC vượt mấy hàng cây thấp và tới một ngôi chùa nhỏ ở giữa một
khu vườn. Họ đứng nhìn một lúc. Chùa thật đẹp, mái cong lợp ngói. Nhang trong
bình chưa đốt. Carter thấy tượng Phật ngồi trên bàn thờ, anh ta rất muốn lấy tượng
Phật đó để làm kỷ niệm. Tuy nhiên, anh ta biết phải dấu ở đâu đó trong đồ dạc
suốt 9 tháng trước khi về nước. Vã lại, anh ta nghĩ nếu “chôm” pho tượng ấy,
Chúa sẽ không cho anh là người làm điều phải.
Họ bắt
đầu rời ngôi chùa và đi bộ lên một ngọn đồi nhỏ có rào kẽm gai. Carter và Shek
vác súng tìm đường bước qua, người mang máy truyền tin và mấy TQLC đang đi phía
trước. Bất thần, họ nghe tiếng bắn đi của súng cối, đạn nổ phía trước cách khoảng
hơn trăm mét. Họ nhìn quanh, tự hỏi: Đại Đội Hotel đang ở đâu nhỉ?
Rồi đạn
nổ gần hơn. Họ quay ngược lui chân đồi. Carter thấy khói đen và tiếng nổ trên đầu
hàng cây, cách xa khoảng 30 thước. Có cái gì đụng mạnh vào chân anh ta, giống
như ai lấy cái chày khúc côn cầu đánh mạnh vào. Anh té về phía trước, rơi vào
giây kẽm gai, đũng quần vướng vào kẽm gai không gỡ ra được. Anh ta thận trọng
tìm cách chui ra. Đạn súng cối lại nổ nhiều thêm. Cố thoát chết, Carter gần như
muốn điên khi xé rách quần ra rồi lăn tròn xuống chân đồi.
Anh ta
chạy ngược lại ngôi chùa và nhảy vào trong. Có mấy TQLC đang núp trong đó, có một
người khác nữa bị mảnh đạn ở đầu gối và một anh cứu thương Hải Quân. Người y tá
xem vết thương của Carter, trông có vẽ hơi nặng. Mảnh đạn đâm sâu và có thể đụng
xương. Máu còn chảy. Y tá lấy băng băng lại cho anh. Những người bị thương được
đưa về sông An Cựu. Một chiếc xe Jeep đưa họ về ban chỉ huy tiểu đoàn. Tuyên úy
tiểu đoàn, to con như một cầu thủ bầu dục, chạy tới. Ông ta ôm một người bị
thương ốm như cây sậy đem vào trong. Carter cẩn thận tìm cách xuống khỏi xe và
đi cà nhắc vào.
Khi bắt
đầu bị pháo kích thì Thomas còn ở phía sau của trung đội. Có tin lộn xộn gọi
trong máy nên Thomas và vài TQLC chạy lên phía trước, chỗ có tiếng súng. Họ thấy
mấy TQLC thối lui phía đường lộ. Đó là những người chỉ huy trung đội: Thiếu úy
Myers, thiếu úy Lambert, và mấy trung sĩ trong ban tham mưu. Những người nầy bị
thương và được băng một cách vội vàng. Họ nói là bị thương vì đạn súng cối và
chỉ hướng trung đội cho họ. Thomas thấy Chritmas nằm dựa lưng vào bức tường một
căn nhà, y tá đang ở bên cạnh và chân Christmas bị băng kín. Christmas đi cà nhắc
về phía họ.
Đạn
súng cối lại nổ, Thomas nằm xuống bên cạnh Christmas và y tá. Đạn lại nổ tiếp,
Thomas nằm chồm lên người Christmas để che đạn cho cấp chỉ huy của anh. Họ gọi
máy và nghe có tiếng người gọi một chiếc xe bị trưng dụng. Họ leo lên xe và rú
ga chạy. Đại đội có 23 người bị thương. Cũng may, chẳng có ai chết. Thomas ngồi
bên cạnh Christmas trên sàn xe, nói chuyện với nhau để cố quên đau trong khi xe
chạy.
Đằng
sau họ, TQLC đang phản pháo.
Tới
trưa họ về tới căn nhà đặt ban chỉ huy. Christmas nằm trên cáng đặt sau xe Jeep
trong khi y tá chăm sóc vết thương cho anh ta. Cheatham, Steele và những người
còn lại quây quần chung quanh. Christmas lấy khuỷu tay chống xuống giường, cố
gượng dậy, hút một điếu xi-gà bự và nói chuyện, làm thế nào anh ta có thể trở lại
đơn vị sớm, sau khi các bác sĩ băng bó cho anh ta xong.
Tuồng
như anh ta không quan tâm lắm tới vết thương nơi chân khá nặng, làm cho anh ta
đau đớn lắm.
Sau
khi những người bị thương được di tản hết về MACV, Cheatham gọi điện cho trung
úy William L. Harvey, sĩ quan phụ tá hành quân tiểu đoàn. Ông ta ra lệnh chỉ có
3 tiếng: “Lo hành trang.” Harvey là đại đội trưởng mới của Đại đội Hotel. Quê ở
vùng nông trại tiểu bang Vermont, 24 tuổi, là một sĩ quan hành quân nhiều kinh
nghiệm, từng giữ nhiệm vụ trung đội trưởng một năm ở Đại đội Golf, trước khi
kéo dài thời hạn phục vụ và được chỉ định phục vụ tại ban chỉ huy Đại đội 2/5. Ở
Huế, tiếng gọi gần nhứt để ông ra trận không phải là do CSBV tấn công mà từ một
sĩ quan TQLC khác. Một hay hai ngày trước, ông đang tắm trong nhà tắm dành cho
sĩ quan thì trong một phòng khác, đại úy Fine, tò mò với một súng phóng B-40 tịch
thu được, trái đạn bỗng nhiên nổ. Trái đạn làm thủng bức tường và nổ trên đầu
Harvey. Anh ta giật mình tưởng chết.
Đại úy
Pyle của tiểu đoàn đảm nhận nhiệm vụ của Harvey. Harvey gom hết hành trang rồi
ra đi, tìm đại đội mới của anh ta. Cũng phải mất một tiếng đồng hồ. Anh ta làm
việc với trung sĩ Miller, người tạm nhận chức vụ. Ngoài ra còn có Thomas, người
không bị thương trong trận pháo kích. Harvey nhìn vào đám lính của anh, họ ngồi
lộn xộn chung quanh, hết sức chán nãn, ủ rũ. Họ bị mất tinh thần. Cheatham kéo
họ về một ngôi trường đạo gần đó (Pellerin, Ngd) để tái tổ chức, thực ra là để
họ nghỉ ngơi một chút.
Sau
đó, khi gom được tin tình báo, người ta mới biết chỗ những ngôi mộ cạn là nằm
ngay trên đường rút lui của bộ chỉ huy quân CSBV. Giống như những người lính
rành nghề, họ đặt súng ngay trên vị trí sẵn có, và Đại Đội Hotel tình cờ hành
quân ngay trên cửa hậu của họ.
Carter
được đưa bằng xe tới bãi đáp trực thăng cùng với những người bị thương khác.
Hai tuần trước, khi anh ta tới đây, các trực thăng thường bị địch xạ kích. Tuy
nhiên, tới 13 tháng Hai, trực thăng muốn tới lui lúc nào cũng được. Ở đây có
phóng viên báo chí, các tay nhiếp ảnh, người tỵ nạn tập trung từng đám chung
quanh chờ được về nhà, hoặc nếu được ưu tiên sẽ cho di tản.
Carter
ngồi ở đây, chăm sóc cái chân của anh bị thương và nhìn chung quanh. Có một đống
xác chết của quân CSBV nằm ở kia. Có chiếc xe cần cẩu ở đó nữa. Người tài xế hạ
cái mỏ cẩu xuống, kẹp ba bốn xác chết. Mỏ cần cẩu cất lên, đủ cao cho xe chạy
được, rồi thả mấy cái xác đó xuống một cái hố. Mấy cái xác rớt xuống, chồng lên
nhau. Những người Việt dân sự đứng nhìn há miệng cười, la to hoan hô. Carter thấy
có vẽ vui.
Phía
bên kia bãi, anh ta thấy những xác chết thuộc phe anh ta. Xác chết TQLC xếp
hàng như đống gỗ, những cánh tay đen hay trắng giang ra, tất cả đều còn mang giày
trận nên mỗi xác trông nặng đến cả hàng trăm pound, xếp thành đống trên thùng
xe tải. Carter nghĩ chắc chưa gấp để phải đưa họ đi bằng trực thăng.
Một
lúc sau, một chiếc trực thăng đến và thương binh được chuyển đi Phú Bài. Người
phi công lượn nghiêng chiếc máy bay để tránh địch xạ kích khiến các thương binh
níu lấy nhau. Đại úy Christmas níu lấy Carter để giữ cho anh ta khỏi rơi ra
ngoài.
Sau cuộc
càn quét ngày 13 tháng Hai, Đại Đội 2/5 TQLC bắt đầu ít gặp địch thường xuyên
như trước. Có những cuộc chạm súng gay go mỗi ngày nhưng hoàn toàn vì mục đích
thực tiễn. Với họ, đó là phần cuối của một trận đánh dữ dội trên đường phố.
Những
cuộc tuần tiểu bắt đầu vượt qua bên sông, những hàng cây và làng mạc ngoài rìa
thành phố. Nhưng cứ đêm tới, các tay bắn lén tiếp tục quấy rối căn nhà ban chỉ
huy đóng. Cuối cùng, TQLC đóng tại căn nhà nơi trước đó quân CSBV đã đóng – căn
nhà nhỏ màu hồng – Cheatham cho gài mìn. Đêm đó, qua ống kính viễn vọng, họ thấy
vài lính CSBV lẽn vào. Bấm nổ ngòi điện, toàn bộ căn nhà sụp đổ tan tành.
Trong
tình trạng bình thường, sau khi trận đánh chấm dứt, người ta làm đề nghị tưởng
thưởng cho những người chiến đấu gan dạ. Tuy nhiên ở Huế, vì cuộc chiến đấu hết
sức căng thẳng và số thương vong quá cao, một đại úy và nhiều binh lính được đề
nghị phải gởi danh sách về bộ tư lệnh sư đoàn. Họ thiết lập một văn phòng ngay
ban chỉ huy tiểu đoàn và thực hiện bản đề nghị ngay giữa mặt trận. Đó là tình
trạng hoàn toàn bất thường. Có chuyện kể về một trái đạn súng cối không nổ rơi
phía ngoài cửa sổ của viên đại úy. Ông ta đứng xem một TQLC tháo ngòi nổ viên đạn
ấy, và tức thời viết ngay câu tuyên dương Anh dũng Bội tinh Ngôi Sao đồng. Thiếu
tá Steele nghe một câu chuyện khác nói về một anh cứu thương Hải quân thuộc đại
đội Fox được đề nghị thưởng tới mấy huy chương. Theo như câu chuyện, người nầy
vừa mới tới Việt Nam, trải qua hai ngày tại lớp hướng dẫn rồi gởi ra đơn vị.
Trong một thời gian ngắn, anh ta bị thương nhẹ trong khi cứu cấp cho một TQLC
và được thưởng một Anh dũng Bội tinh Ngôi Sao bạc. Ngày hôm sau, anh ta bị
thương nặng sau một anh TQLC khác, anh ta lại được đề nghị tưởng thưởng và được
di tản. Trong khi nằm trên cáng đặt tại bãi đáp trực thăng, anh ta lại bị một mảnh
đạn súng cối nữa. Thành ra, anh ta được cho về nước cùng với một huy chương
ngôi sao bạc, một huy chương ngôi sao đồng và ba Chiến thương Bội tinh chỉ sau
một tuần chiến đấu.
Một hoặc
hai ngày sau khi nắm Đại Đội Hotel, trung úy Harvey có một trung đội trưởng mới,
thay thế cho tất cả các thiếu úy và trung sĩ bị thương vào ngày 13 tháng Hai.
Anh nầy mới được thăng thiếu úy do sư đoàn gởi tới. Anh ta không đọc bản đồ được.
Anh ta gọi điện cho ban chỉ huy báo cáo rằng anh ta đang ở trong một căn nhà
như thế như thế và Harvey phải kéo hiệu thính viên theo để đi tìm họ. Họ bắt đầu
đi vào một con đường hẽm, Harvey nhìn lên thì Chúa ơi! Họ đang đứng chân kề
chân với hai lính CSBV. Cả bốn người đứng trân ở đó trong một giây vì sửng sốt,
nhìn vào nhau. Harvey tưởng như dài lắm rồi bỏ chạy về hướng khác. Harvey thấy
một trong hai người ấy kéo cây AK-47 đang đong đưa lên. Anh ta nằm sát tường và
một tràng đạn rớt bên cạnh, mảnh xi-măng văng trúng mũi và tai anh ta. Hai lính
CSBV chạy mất. Anh ta nhìn lại hiệu thính viên, anh nầy run lên vì sợ, nôn ọe
xuống đường.
Kể từ
ngày 10 tháng Hai, khi khu vực từ MACV tới Phú Cam hầu như hoàn toàn nằm trong
tay Đại đội 2/5 kiểm soát, trung tá Gravel ra lệnh quay hướng hành quân, trở lại
quốc lộ 1 và bắt đầu mở ra hướng đông, từ MACV tới sân Vận Động Huế, và những
sông đào chạy theo rìa nam Huế. Cho tới lúc nầy, ông ta cũng chỉ có hai đại đội:
Đại Đội Alpha của trung úy Smith và Đại Đội Bravo của đại úy Robert A. Black
Jr. Việc càn quét phía đông còn nặng hơn trước. Không hoàn toàn căng thẳng như
tuần đầu ở Huế, nhưng vẫn có nhiều tay bắn sẻ, nhiều tay ngoan cố, tụt hậu làm
cho mọi người phải luôn luôn đề phòng, sợ hãi, và mệt mỏi, lục soát từ nhà nầy
qua nhà khác, từ khu nầy qua khu nọ.
Đang
trong trận đánh, Gravel đi MACV để tham dự buổi họp tham mưu của đại tá Hughes.
Ông ta vào bộ chỉ huy, và lạ chưa, một người ngồi bên một cái lều vải nhỏ trong
hành lang, mặc áo giáp có cái bình bằng sắt là Walter Cronkite.
Ông ta
đi ngang qua người nầy, vào phòng tham mưu, nói đùa: Trông như ông mới kiếm được
một mạng nào ngoài đó vậy?
Huhges
nói: “Tất cả cho anh đó.”
Ông ta
nói kể từ khi Gravel là vị chỉ huy TQLC đầu tiên đến Huế, ông ta có thể giải
thích trận đánh cho mọi người biết. Huhges giới thiệu Gravel với Cronkite cùng
vài TQLC đi theo và đám quay phim, truyền thanh, nhiếp ảnh, báo chí. Gravel, có
cảm tình ngay với Cronkite, biểu ông ta gọi ngay cho vợ ông khi về tới Nữu Ước
và nói rằng ông ta vẫn mạnh khỏe.
Tại
ban Chỉ huy tiểu đoàn, Gravel muốn Cronkite gặp các sĩ quan của ông ta. Đại úy
Jim Gallagher, sĩ quan hành quân mới, Gallagher đã chỉ huy một cách xuất sắc Đại
Đội 1/1 và đã tới phiên về nước hôm 1 tháng Hai, nhưng khi nghe tin chiến trận ở
Huế và cái chết của Walt Murphy, anh ta vội vã quay lại mặt trận. Ngày hôm trước
Cronkite đến, Gravel và Gallagher đã thức suốt đêm để vạch kế hoạch và tìm hiểu
coi ai là người giỏi nhất của họ để họ gặp. Gallagher đã chọn Walter Cronkite.
Khi
Gravel và Cronkite về tới ban chỉ huy, Gallagher đang khom mình trên bản đồ.
Gravel nói: Xin lỗi, Jim, đây là người anh muốn gặp đây nầy. Walter Cronkite,
còn đây là Jim Gallagher, một trong những sĩ quan tác chiến giỏi nhất của TQLC,
anh có thể hy vọng được.
Gallagher
nói lắp bắp: Vui lòng gặp anh.
Về
sau, Gravel nhận ra trong cuộc phỏng vấn bên đường của phóng viên CBS, trong bối
cảnh có lồng tiếng súng. Gravel nghĩ quả thật là đồ chết tiệt, chỉ là trò
thương mại.
Trung
uý Smith và Đại Đội Alpha càn quét vùng sân vận động Huế, đụng một trận hết sức
tệ hại khi tiến về phía đông. Họ tiến xuống một con đường đất, xe tăng đi đầu,
xe phun lửa đi sau, bộ binh hai bên. Phía trước là mặt tiền của một doanh trại
VNCH bỏ trống.
Hạ sĩ
Neas cùng với toán súng máy di chuyển bên phải các chiến xa. Anh ta thấy phía
trước có một lỗ tường thủng nơi doanh trại quân đội. Từ lỗ đó, bất thần một
trái B-40 bay tới nổ bùm. Chiếc xe tăng bị đạn lắc lư, mảnh đạn bay ra. Súng
AK-47 bắt đầu nổ, cày đất lên. Một trung sĩ, biệt danh là Chunky, từng bị
thương hai lần, bây giờ bị một mảnh đạn ở chân, té xuống đường. Vài TQLC bắt đầu
bắn trả, trong khi các TQLC khác thì kéo Chunky qua một bên, và các TQLC khác
đưa người bị thương lên sau xe tăng, người lái chiếc xe tăng đi trước bị đạn được
lôi ra khỏi chiếc xe. Chiếc xe tăng chở người bị thương dọt đi. Trung sĩ
Burghardt nhìn theo chiếc xe tăng khi đang quày lui – chạy qua chỗ một người y
tá bị thương nằm gần ngã tư, cán gãy tay anh nầy. Hai người lính TQLC kéo anh
ta vào dưới một gốc cây. Anh ta nằm ở đó, khóc vì sợ, súng nổ thêm dữ.
Neas
nhìn lui chiếc xe tăng đi đầu, anh ta thấy người chỉ huy chiến xa, một trung sĩ
da đen, quì đằng sau chiếc xe đang cháy. Anh ta đang khóc, la to lên rằng anh
ta muốn có một chiếc tăng khác để đi tìm quân CSBV đã bắn cháy chiếc tăng M-48
của anh ta.
Neas
ra lệnh cho một trong mấy người thuộc toán hỏa lực của anh, rồi họ bò thật thấp
trên mặt đường, nhảy qua một cái cửa sổ. Họ đặt cây đại liên M-60 lên thành cửa,
nhắm vào chỗ quân CSBV ở bức tường đối diện. Neas núp ở cửa sổ bên cạnh. Có một
căn nhà nhỏ đối diện với anh ta, ngay sau bức tường trại lính. Anh ta biết chắc
chút nữa, CSBV sẽ từ trong căn nhà ấy rút ra. Đặt sẵn cây M-16 lên vai, kê băng
đạn lên ngưỡng cửa sổ, nhắm ngay vào cửa sau của tòa nhà. Toán súng cối ở phía
sau họ bắt đầu nã hơi cay, trong phút chốc, ba CSBV phóng ra khỏi bức tường và
chạy vào căn nhà nhỏ. Neas quay đi một giây, rồi lại nhìn lui chỗ cũ để canh chừng
CSBV thoát ra cửa hậu. Có tiếng hô to của TQLC: Bắn. Neas xiết cò một lần, một
mạng ngã lăn ra đất. Anh nầy bắt đầu bò đi. Neas đứng thẳng lên, không tin anh
ta còn sống. Như mê mẩn, anh ta đổ hết một băng đạn vào người lính CSBV.
Cuộc
chạm súng tiếp tục. TQLC nã đạn liên tiếp vào trại lính, hỏa lực phản công của
địch càng lúc càng yếu dần. Toán đại liên M-60 của Neas xài hết một tràng đạn
khi anh ta thấy bóng vài người bận đồ xanh, đội nón sắt chạy băng qua sân. Anh
ta không thấy mặt họ nhưng đoán chừng khoảng một tiểu đội và la to: “Ngưng bắn.”
Xạ thủ
đại liên M-60 ngưng bóp cò. Mấy bóng người mặc đồ xanh nầy chạy vào căn nhà
chính. Nhưng không có tiếng súng M-16 trong đó. Neas chưởi: “Mẹ!” Anh ta tự rủa
thầm. Một vài lính CSBV mặc đồ lính Mỹ. Thật là dễ bắn mà để cho chúng chạy mất.
Súng cối
bắt đầu nã vào trại. Tiếng súng địch càng lúc càng yếu dần.
TQLC đứng
lên rồi chạy băng qua đường, đổ dồn vào doanh trại. Chẳng phải nổ súng gì nhiều
mà cũng chẳng làm gì khác là đếm xác địch. Trung sĩ Burghardt đi vào căn nhà nhỏ
nơi Neas đã bắn ngã vài CSBV. Burghardt kêu Neas và chỉ cho anh ta thấy. Một
anh lính CSBV bò ra tới ngưỡng cửa, chết cứng, tay còn giữ lấy bụng, ruột lòi
ra vì bị thương. Có hai cây súng nằm bên cạnh anh ta. Burghardt lấy một cây AK
máng lên vai còn Neas thì lấy kỷ niệm một cây tiểu liên Nga có băng đạn tròn. Họ
quay trở lui đường phố, khi đó anh trinh sát người Việt của đại đội thấy cây
súng tiểu liên thì nhảy tung tăng, cười và la lên: Nhứt rồi! Theo thông dịch viên
thì những người mang loại súng như thế nầy phải là sĩ quan.
Trong
vòng 1 hay 2 ngày, Đại đội 1/1 đã bình định xong khu vực dọc theo sông đào. Bây
giờ chỉ còn tiêu diệt những tay ngoan cố hoặc chưa biết là đã có lệnh rút.
Trung
úy Allen W. Courtney, Jr. Trung đội trưởng Trung đội 3 thuộc Đại Đội Alpha, tóc
vàng hoe, quê ở Texas, nguyên là binh nhì, toàn cả đại đội ai cũng kính trọng.
Trong những trận đánh ở Cồn Thiên hồi tháng Chạp, anh đã được gắn Anh dũng Bội
tinh Ngôi Sao bạc. Giống như tất cả trung úy của Đại Đội Alpha, anh ta bị kẹt ở
Đà-Nẵng vì một khóa học khi trận đánh ở Huế bắt đầu. Anh ta cũng không xin được
về đơn vị cho mãi đến ngày 11 tháng Hai. Suốt hai ngày, anh ta cùng trung đội
hành quân dọc theo sông đào. Một trong các tiểu đội vượt qua bên kia cầu chiếm
một ngôi nhà để củng cố an ninh. Họ vào trong nhà thì một quả B-40 nổ trúng ngưỡng
cửa sổ. Một vài TQLC bị thương trong khi CSBV bắn dồn thêm. Courtney đứng dậy,
nắm lấy cây M-60 của Neas bắt đầu quạt lại hướng địch. Một viên đạn trúng vào bắp
chân anh ta, nhưng anh ta vẫn tiếp tục nổ súng cho đến khi tiểu đội rút về bên
kia cầu. Y tá băng quanh bắp chân cho anh ta, nhưng anh ta cũng chẳng thèm lưu
tâm cho đến khi trung úy Smith thấy và biểu anh ta rút lui phía sau. Vết thương
nặng, nhưng Courtney không chịu đi, anh ta muốn ở lại với trung đội. Cuối cùng,
trung tá Gravel ra lệnh anh ta di tản đi bệnh viện ở Phú Bài, theo cái cách mà
anh nghĩ như người dân Texas thường nói: “Ra khỏi thành phố trước khi trời tối.”
Gravel cũng nghe một câu chuyện như thế nầy: Một anh TQLC trẻ đang nằm trên
cáng đặt tại MACV chờ máy bay trực thăng tải thương. Một anh phóng viên báo chí
hỏi: “Anh bị thương bao nhiêu lần rồi?” Anh lính trẻ nhìn lên và hỏi: “Hôm nay
đấy hả?”
Đại Đội
Alpha tuần phòng khu ngoại ô thành phố, càn quét địch. Trung sĩ Burghardt được
lệnh dẫn theo 3 TQLC kiểm soát hàng cây trước mặt họ. Họ đi băng qua hàng cây
đó, ló mặt ra, và có một lính CSBV đứng cách mấy chục thước phía trước, đứng
như vậy mà kinh ngạc nhìn mấy TQLC. Xong anh ta quỳ xuống bắn một quả B-40. Mọi
người tìm nơi ẩn núp. Quả đạn trúng một thân cây, nổ, không ai bị thương.
Burghardt chạy lên trước, bắn bằng cây súng Colt-45. Anh lính CSBV bỏ chạy.
Burghardt bỏ cây súng Colt xuống, cầm cây M-16 lên, bắn một tràng, người kia té
xuống, chết.
Chủ nhật,
ngày 18 tháng Hai, hạ sĩ Soukup và tiểu đội của anh ta cùng TQLC hành quân với
vài TQLC thuộc Đại Đội 1/ 1, chiếm một căn nhà để nghỉ qua đêm. Họ để trang bị
xuống sát vách tường tính làm chỗ nghỉ ngơi thì bỗng có tiếng đạn B-40 bay.
Viên đạn rít qua cửa sổ đụng vào trần nhà nổ. Hơi nóng và mảnh xi măng bay xuống,
đụng vào áo giáp và mũ sắt. Mảnh đạn đâm vào bắp vế, tay và đầu Soukup. Hai
TQLC khác cũng bị thương.
Sau tiếng nổ một giây, mọi người la lên. Soukup và một TQLC khác bắn qua cửa sổ, một TQLC khác thì quăng lựu đạn. Mấy giây sau, có người la to: “Tao bắn trúng nó, tao bắn trúng nó.” Soukup và những người còn lại nhẹ nhàng thoát ra ngoài. Anh lính CSBV nằm trên cỏ, bị thương vì mảnh đạn, cây súng B-40 nạp đạn sẵn nằm lăn bên cạnh. Anh ta còn trẻ, mập mạp, mặc quần xà lỏn. TQLC đứng chung quanh, thấy anh ta thì nhìn họ mà không biết anh ta mong ước điều gì.
Sau tiếng nổ một giây, mọi người la lên. Soukup và một TQLC khác bắn qua cửa sổ, một TQLC khác thì quăng lựu đạn. Mấy giây sau, có người la to: “Tao bắn trúng nó, tao bắn trúng nó.” Soukup và những người còn lại nhẹ nhàng thoát ra ngoài. Anh lính CSBV nằm trên cỏ, bị thương vì mảnh đạn, cây súng B-40 nạp đạn sẵn nằm lăn bên cạnh. Anh ta còn trẻ, mập mạp, mặc quần xà lỏn. TQLC đứng chung quanh, thấy anh ta thì nhìn họ mà không biết anh ta mong ước điều gì.
Thiếu
tá Steele đang ở tại ban chỉ huy Đại Đội 2/5 khi một toán quân CSBV vượt qua
sông Hương. Họ từ bên Thành Nội đi qua, thực hiện cuộc rút chạy như điên khùng
để giữ mạng sống. Mọi người ở gần bắn như điên vào họ. Trừ một người. Đứng bên
cạnh Steele là một ông trung sĩ già của MACV. Ông ta la lên to: “Tại sao không
để cho họ đi đi, mình có thể rút lẹ ra khỏi đây.”
TQLC
chẳng ai để ý đến lời ông, quân CSBV hiện ở trong Thành Nội tìm mọi cách để
thoát ra ngoài.
Ghi chú (của Ngd):
(1)-
Sau khi đánh đuổi quân Cọng sản ra khỏi thành phố Huế, tình hình vẫn căng thẳng,
chiến sự còn tiếp tục ở ngoại ô, tình trạng cướp bóc diễn ra khá phổ biến. Những
vụ điển hình như cửa hàng bán TV, Radio “Việt Tuyến” trên đường Trần Hưng Đạo,
gần cửa Thượng Tứ, bị kẻ cướp dùng xe GMC tới chở sạch. Việc cướp dùng xe GMC
chở hàng cho thấy “bọn” cướp thuộc hạng người nào. Đại úy Lê B. Ng. đại đội trưởng
CSDC Thừa Thiên- Huế vào cướp hôi ở Ty Ngân Khố Huế. Chưa thỏa lòng tham, y còn
cướp hàng tại tiệm “Bát Tiên” trên đường Phan Bội Châu, Huế. Xui cho y, tiệm nầy
là bà con với tướng Nguyễn Ngọc Loan, cục trưởng cục ANQĐ kiêm Tổng giám đốc
CSQG, nên ngay lúc đó, tướng Loan đến Huế, y bị cách chức và trả về BDQ là đơn
vị cũ của y.
Ngoài
ra, tại bùng binh đầu cầu Trường Tiền, trước trường Đại Học Khoa Học (Morin cũ)
có dựng một pháp trường cát. Có dư luận nói là để xử tử ai bị bắt về tội cướp,
lại có dư luận nói là để xử quận Cán (quận trưởng Cảnh Sát). Khi Cộng Sản chiếm
Huế, y ở Gia Hội ngày ngày vác loa đi hô hào dân chúng nổi dậy “chống Mỹ cứu nước”.
Khi Cộng Sản rút lui, y ở lại và bị dân chúng tố giác nên bị chính quyền Nam VN
bắt giữ, chờ đem xử tử. Có dư luận nói là nhờ gia đình y chạy chọt với một bà
tướng lớn ở Đà-Nẵng nên y được tha. Cuối cùng, pháp trường cát dựng lên chỉ để
dọa thiên hạ chứ chẳng bắn giết người nào cả.
(2)-
Có lẽ tác giả chưa nắm rõ sự kiện nầy. Trên sông Hương lúc bấy giờ chỉ có hai
cây cầu (Cầu Trường Tiền và cầu xe lửa. Cầu sông Hương – ngang bệnh viện Trung
ương Huế sau nầy mới hoàn thành -). Cầu xe lửa còn nguyên, cầu Trường Tiền bị đặc
công Cọng Sản phá sập đêm mồng 5 tết Mậu Thân, ngày 4 tháng Hai/ 1968)
No comments:
Post a Comment