Thanh Phương
Công hàm Phạm Văn Đồng
giống như một tờ giấy nợ, vì không được ghi rõ ràng, cho nên đến nay vẫn gây
rắc rối cho Việt Nam trong cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc giành chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại cuộc họp báo quốc tế ngày 23/05/2014, vào lúc khủng hoảng Biển Đông đang dâng cao do vụ giàn khoan Hải Dương 981, Bộ Ngoại giao Việt Nam lần đầu tiên đã chính thức tuyên bố rằng công thư (công hàm) Phạm Văn Đồng năm 1958 “ không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa”. Trong cuộc họp báo đó, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam lập luận: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc lúc đó Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý của Việt Nam Cộng Hòa, Trung Quốc chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được”.
Tại cuộc họp báo quốc tế ngày 23/05/2014, vào lúc khủng hoảng Biển Đông đang dâng cao do vụ giàn khoan Hải Dương 981, Bộ Ngoại giao Việt Nam lần đầu tiên đã chính thức tuyên bố rằng công thư (công hàm) Phạm Văn Đồng năm 1958 “ không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa”. Trong cuộc họp báo đó, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam lập luận: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc lúc đó Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý của Việt Nam Cộng Hòa, Trung Quốc chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được”.
Nhưng công hàm Phạm Văn Đồng giống như một tờ
giấy nợ, vì không được ghi rõ ràng, cho nên đến nay vẫn gây rắc rối cho Việt
Nam trong cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc giành chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước hết, hãy trở ngược lịch sử : Ngày
4/9/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố với quốc tế quyết định của chính phủ
Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài
khơi, bao gồm hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa
của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm
Văn Đồng đã gởi cho thủ tướng Chu Ân Lai bức công hàm ghi rõ: “Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành” tuyên bố nói trên
của chính phủ Trung Quốc và “sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.
Trong thời gian qua, các lãnh đạo, quan chức
Nhà nước và báo chí chính thức của Việt Nam đã liên tiếp đưa ra những tuyên bố
và đăng những bài viết để chứng minh rằng công hàm nói trên của Phạm Văn Đồng
chẳng có giá trị gì. Trong cuộc gặp gỡ với cử tri ở Sài Gòn ngày 26/06, Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang đã tuyên bố: “ Ông Phạm Văn Đồng không bao
giờ nói Hoàng Sa là của Trung Quốc”. Nhưng lập luận của ông Sang thì rối
rắm vô cùng, theo như tường thuật của tờ VietnamNet: “Tôi đọc kỹ từng
chữ, cụ Phạm Văn Đồng nói xung quanh công nhận 12 hải lý. Lúc bấy giờ, lãnh hải
có 3 hải lý thôi. Thế giới cũng bàn luận từ năm đó đến năm 1982. Lúc đó, tư duy
của các cụ mình cũng theo tư duy số đông của thế giới, tức là người ta muốn
quốc gia có biển là lãnh hải phải 12 hải lý thì mình thừa nhận 12 hải lý đó”.
Cũng theo chiều hướng “hóa giải” di sản công
hàm Phạm Văn Đồng, tờ Tiền Phong từ ngày 09/07 vừa qua đã đăng trên mạng một
loạt bài nhắc lại những dữ liệu lịch sử để chứng minh rằng từ năm 1954 sau hiệp
định Genève cho đến năm 1975, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, mà trước đây từng bị
xem là “chính phủ bù nhìn của Mỹ”, là “ngụy quyền”, đã liên tục thực thi chủ
quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng phía Trung Quốc trong thời gian qua vẫn
tiếp tục viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng để chứng minh rằng Việt Nam đã mặc
nhiên công nhận chủ quyền của Bắc Kinh trên Hoàng Sa và Trường Sa. Gần đây
nhất, Lý Kiến Vĩ, một học giả Trung Quốc, trong một bài đề ngày 24/06/2014,
viết cho Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, Singapore, khi lập luận về
chủ quyền của Bắc Kinh trên quần đảo Hoàng Sa, đã đề cập đến công hàm Phạm Văn
Đông. Bà Lý Kiến Vĩ, cũng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Biển, Viện Quốc
gia Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc, có nhắc đến một chi tiết đó là trong
cuộc gặp vào năm 1977 với Phó Thủ tướng lúc đó là Lý Tiên Niệm, ông Phạm Văn
Đồng có nói rõ : « Nên hiểu các tuyên bố của chúng ta, kể cả tuyên bố
trong công hàm của tôi gửi Thủ tướng Chu Ân Lai, như thế nào? Nên hiểu nó trong
bối cảnh lịch sử của thời đại. Trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải
đặt việc chiến đấu chống đế quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.
Học giả Lý Kiến Vĩ viết rằng : "Rõ
ràng là ông Đồng đã công nhận mục đích của tuyên bố của ông về chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng lại đòi Trung Quốc hiểu nó trong bối
cảnh lịch sử . Lập luận này đi ngược với nguyên tắc quốc tế “estoppels”,
theo đó: Trong một tranh chấp cụ thể, tại một thời điểm nào đó, nếu một bên có
thỏa thuận/ nhất trí ngầm, hoặc công nhận chủ quyền của một bên khác đối với
một vùng lãnh thổ đang tranh chấp, thì sự công nhận hoặc nhất trí đó có hiệu
lực pháp lý".
Nhưng công hàm Phạm Văn Đồng không chỉ là chủ đề
tranh cãi giữa các học giả hay của những tuyên bố qua lại của lãnh đạo hai nước
mà nay đã trở thành vấn đề pháp lý quốc tế, bởi vì Bắc Kinh đã sử dụng công hàm
này như là một trong những luận cứ để khẳng định chủ quyền trên Hoàng Sa và
Trường Sa trong các văn bản của Đại biện Phái đoàn đại diện thường trực Trung
Quốc gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 22/05 và 09/06 liên quan đến vụ giàn
khoan Hải Dương 981.
Ngày 03/07 vừa qua, đại sứ Lê Hoài Trung,
trưởng phái đoàn Việt Nam tại LHQ lại phải đề nghị Tổng thư ký Ban Ki Moon cho
lưu hai văn bản nêu lập trường của Việt Nam về vụ giàn khoan Hải Dương 981 để
bác bỏ hai văn bản nói trên, tố cáo Bắc Kinh « cố tình xuyên tạc » công thư
Phạm Văn Đồng.
Phái đoàn Việt Nam khẳng định, « những
kết luận mà Trung Quốc đưa ra hiện nay đang mâu thuẫn với chính các phát biểu
của Trung Quốc, trong đó có phát biểu của chính nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng
Tiểu Bình. ». Họ nhắc lại rằng vào tháng 9 năm 1975, tức là 17 năm sau công
thư Phạm Văn Đồng , Đặng Tiểu Bình đã nói với Lê Duẩn tại Bắc Kinh rằng “với
nguyên tắc thông qua Hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng, sau này hai
nước sẽ bàn bạc giải quyết”. Theo phía Việt Nam, Bị vong lục của Bộ
Ngoại giao Trung Quốc ngày 12 tháng 5 năm 1988 đã ghi nhận rõ ràng nội dung
phát biểu này của Đặng Tiểu Bình.
Cứ như thế, mỗi lần đưa ra lập luận phản bác
nhau, hai bên lại tiết lộ thêm những chi tiết mới liên quan đến công hàm Phạm
Văn Đồng và những chi tiết này phản ánh mối quan hệ nhập nhằng giữa lãnh đạo
hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc từ thời chiến tranh cho đến thời hoà
bình.
Trước tình hình này, tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã
và cũng là người đã dành nhiều năm nghiên cứu về Hoàng Sa-Trường Sa, chủ trương
rằng chính phủ Việt Nam phải nhanh chóng giải quyết vấn đề tâm lý và chính trị
về công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Sau đây mời quý vị nghe phần phỏng vấn
tiến sĩ Nguyễn Nhã từ Sài Gòn:
CÔNG HÀM NĂM 1958 CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng là công hàm do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng
gửi cho Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai vào ngày
14 tháng 9 năm 1958. Công hàm này được gửi sang Trung Quốc bằng điện báo, sau
đó sáng ngày 21 tháng 9 năm 1958, Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc
Nguyễn Khang đã trình công hàm này cho Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa Cơ Bàng Phi. Trong công hàm này Thủ tướng Phạm Văn Đồng thông báo
cho Thủ tướng Chu Ân Lai biết Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa "tán
thành" và "tôn trọng" "bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958
của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý
của Trung Quốc."[1]
Chính quyền Trung Quốc cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng là một trong những bằng
chứng cho thấy chính quyền Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Việt Nam thì cho rằng công hàm
Phạm Văn Đồng không hề công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của
Trung Quốc vì trong công hàm không có chỗ nào nói tới hai quần đảo này. Cũng
theo chính quyền Việt Nam giá trị pháp lý của nó phải được đánh giá theo bối cảnh
lịch sử lúc đó khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không quản lý hai quần đảo này.
Tên gọi
Trước đây báo chí tiếng Việt ở trong và ngoài nước Việt Nam đều gọi bức thư của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng là "công hàm."[2][3] Trong cuộc họp báo do Bộ
Ngoại giao Việt Namtổ chức tại Hà Nội chiều ngày 23 tháng 5 năm 2014, ông Trần
Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia Bộ Ngoại giao Việt Nam, đã gọi
công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là "công thư", và khẳng định
"công thư" này là một "văn bản ngoại giao". Ông không giải
thích từ "công thư" có nghĩa là gì.[4] Sau cuộc họp báo đó, một số
bài viết của báo chí Việt Nam về sự kiện này và công hàm của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng chỉ dùng cách gọi "công thư," không gọi là "công hàm"
và cũng không giải thích ý nghĩa của từ "công thư".[5]
Trong bài viết "Không một quốc gia nào công nhận chủ quyền Trung Quốc đối
với Hoàng Sa" đăng trên báo "Thanh Niên", công hàm của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng được gọi là "công điện". Cũng trong bài viết này, khi
trả lời câu hỏi của phóng viên báo "Thanh Niên", Thiếu tướng Lê Văn
Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Công an Việt Nam, nói rằng công điện
mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai là "một bức thư
công" nhưng ông Cương không giải thích thế nào là "thư công".[6]
Bối cảnh
Tại Hội nghị San Francisco tháng 9-1951 để giải quyết các vấn đề về lãnh thổ
sau chiến tranh thế giới thứ hai, phái đoàn Liên Xô ngày 5-9-1951 đã đề nghị
trao trả Hoàng Sa cho Trung Quốc nhưng 46/51 quốc gia đã bỏ phiếu phản đối. Hai
ngày sau, ngày 7-9-1951, tại hội nghị này Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn
Hữu, trưởng phái đoàn quốc gia Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa), đã lên tiếng tái
xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trong đó
có đoạn: "Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống
bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam".Lời tuyên bố
này đã được Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản. Và trong tất cả 51 phái
đoàn các nước, không có phái đoàn nào phản đối, kể cả Liên Xô.[7]
Vào tháng 2 đến tháng tư năm 1958 lần đầu tiên có hội nghị về Công ước Luật biển.
Trong số 4 công ước được bàn thảo, có Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp
lãnh hải. Tuy nhiên, hội nghị thất bại vì không thống nhất được khoảng cách
lãnh hải là 12 hải lý, vì nhiều quốc gia có quan điểm khác nhau, Mỹ chỉ chấp nhận
3 hải lý, có một số quốc gia cho là 4,5 hải lý thì tốt hơn, còn Trung Quốc đòi
12 hải lý, và một số quốc gia Nam Mỹ còn muốn 200 hải lý.
Vào thời điểm 1958, quan hệ Mỹ-Trung Quốc cực kỳ căng thẳng về vấn đề Đài Loan.
Trong bối cảnh đó, ông Chu Ân Lai tuyên bố hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý
kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Sau đó, ông Phạm Văn Đồng ra công hàm ủng hộ
hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Năm 1977, Phạm Văn Đồng đã đổi ý và giải thích rằng ông đưa công hàm vào thời
điểm đó là do các nhu cầu chiến tranh. Tuy nhiên, vào thời điểm năm 1958 chưa
có chiến tranh.[8]
Bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của CHND Trung Hoa[sửa | sửa mã nguồn]
Bản tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có nội dung như
sau:[9][10]
“Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ
này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất
Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất
liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảoBành Hồ, quần
đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo
khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và các đảo
ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường cơ sở của lãnh hải dọc theo đất liền
Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở
là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường cơ sở, kể cảvịnh Bột
Hải và eo biển Quỳnh Châu, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong
các đường cơ sở, kể cả đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, các đảo Mã Tổ,các đảo Bạch
Khuyển, đảo Điểu Khâu, Ðại và Tiểu Kim Môn, đảo Đại Đảm, đảo Nhị Đảm, và đảo
Đông Đĩnh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả
máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và
vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải
phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa.
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần
đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Khu vực Ðài Loan và Bành Hồ hiện tại vẫn bị lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xâm chiếm.
Ðây là hành vi phi pháp, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được thu phục. Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất
này trong tương lai, không cho phép nước ngoài can thiệp.”
Toàn văn công hàm
Công hàm của Thủ tướng Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai vào năm 1958
Theo bài viết "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam" đăng trên báo "Đại Đoàn Kết" thì toàn văn công hàm ngày 14
tháng 9 năm 1958 của thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng
gửi thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai như sau:
“Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm
1958, của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12
hải lý của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị
cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”
Ngày 22 tháng 9 năm 1958, công hàm trên của thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được
đăng trên báo "Nhân Dân"
Ảnh hưởng
Các học giả, các nhà ngoại giao Trung Quốc thường dùng Công hàm này để cho là
Việt Nam đã từng đồng ý chấp nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc
gọi là quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa) là lãnh thổ của Trung Quốc. Họ lý luận
là Việt Nam chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975 và
như vậy là vi phạm nguyên tắc luật quốc tế estoppel.[12][13]
Trước đây, nhiều lần trí thức Việt Nam đã kiến nghị yêu cầu Bộ Ngoại giao Việt
Nam cung cấp thông tin về quan hệ với Trung Quốc, trong đó kiến nghị có thông
tin công khai về nội dung những buổi gặp gỡ của các cấp ngoại giao và về công
hàm này, như trong tuyên cáo ngày 2 tháng 7 năm 2011 của nhiều nhân sĩ trong số
đó có cựu đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh, các giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Tụy, Chu
Hảo, tiến sĩ Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân Diện, các nhà văn Nguyên Ngọc, ông Lê
Hiếu Đằng...[14]
Phản ứng cấp chính phủ
Phía Việt Nam
Ngày 07 tháng 8 năm 1979, Bộ Ngoại giao Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
ra Tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của
Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần
đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2
quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.[15]
Ngày 23 tháng 5 năm 2014, trong cuộc họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông do
Bộ ngoại giao Việt Nam tổ chức vào, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên
giới Quốc gia, thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam phát biểu: "Công thư của cố thủ
tướng là văn bản ngoại giao. Giá trị pháp lý nằm trong nội dung công thư. Việt
Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng
Sa, Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường
Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc
lúc đó Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý Việt Nam Cộng hòa, Trung Quốc
chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được.
Vì thế công thư không có giá trị chủ quyền với Tây Sa, Nam Sa theo cách gọi của
Trung Quốc."[7] Cũng theo ông Hải, "Đến nay không quốc gia nào công
nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa."
Phía Trung Quốc
Ngày 30 tháng 1 năm 1980, để phản ứng việc Việt Nam công bố sách trắng về chủ
quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
xuất bản một tài liệu với tên gọi "Chủ quyền không tranh cãi của Trung Quốc
đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa".[16][17] Trong tiểu mục với tựa
"Sự man trá của chính quyền Việt Nam", tài liệu nhắc đến việc báo
Nhân Dân ngày 6 tháng 9 năm 1958 in toàn văn tuyên bố về hải phận của Trung Quốc
ở trang đầu, trong đó có đoạn nói về Nam Sa và Tây Sa, cũng như công hàm của thủ
tướng Phạm Văn Đồng.[17] Trung Quốc cũng công bố công hàm trong tài liệu và nói
rằng đây là bằng chứng cho thấy chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với hai quần đảo. Cùng với công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng,
tài liệu này cũng công bố một bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ
Thủ tướng Việt Nam [Dân chủ Cộng hòa] xuất bản tháng 5 năm 1972 cho thấy các quần
đảo này có tên Tây Sa và Nam Sa.[16][17]
Theo Trung Quốc, công hàm này và các tài liệu họ đưa ra là "các tài liệu
nhà nước chính thức" và "các văn bản có hiệu lực pháp lý" mà
phía Việt Nam luôn đòi hỏi để thiết lập chủ quyền lãnh thổ. Các tài liệu cho thấy
cho đến năm 1974, Việt Nam vẫn công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây
Sa và Nam Sa, và việc chính quyền Việt Nam nuốc lời và man trá là điều hoàn
toàn không được phép làm dưới luật quốc tế.[17]
Nhân Vụ giàn khoan HD-981, vào ngày 20 tháng 5 năm 2014, đại diện lâm thời Sứ
quán Trung Quốc ở Indonesia, Lưu Hồng Dương, đăng bài lên báo Indonesia Jakarta
Post lại mượn công hàm này để khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của
Trung Quốc: "Trong tuyên bố ngày 14/9/1958 thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ
tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa (tên
của Trung Quốc gọi Quàn đảo Hoàng Sa) và các đảo khác ở Nam Hải (Biển Đông) là
lãnh thổ Trung Quốc."
Tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, Giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, có bài trả
lời phỏng vấn hãng tin Đức Deutsche Welle, được đăng trên mạng cùng ngày, cũng
nói: "Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ
quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi Thủ tướng Trung Quốc
Chu Ân Lai. Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm
1975. Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể
thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền."[13]
Ngày 8 tháng 6 năm 2014, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố tài
liệu nêu quan điểm của Trung Quốc trong vụ giàn khoan, trong đó Trung Quốc lặp
lại các tài liệu như đã công bố năm 1980, đồng thời còn đưa ra một tài liệu từ
sách giáo khoa môn địa lý lớp 9 phổ thông xuất bản bởi Nhà xuất bản Giáo dục tại
Hà Nội năm 1974. Trong đó, bài đọc về địa lý Trung Quốc có đoạn ghi rõ:
"Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa, đến các đảo Hải nam, Đài loan,
quần đảo Hoành bồ, Châu sơn...làm thành một bức «trường thành» bảo vệ lục địa
Trung quốc."[18][19]
Bình luận
Phía Việt Nam
Nhà nghiên cứu Biển Đông Hoàng Việt, một giảng viên về Luật Quốc tế ở TPHCM,
cho là công hàm ở thời điểm đó không có thẩm quyền về quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa. Theo Hiệp định Geneve (1954) mà Trung Quốc đã ký, về mặt pháp lý quốc tế Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không có trách nhiệm quản lý phần lãnh thổ phía Nam. Sau
khi thống nhất đất nước năm 1975, chính quyền Việt Nam đã tuyên bố khẳng định
chủ quyền của Việt Nam rồi. Về mặt pháp lý quốc tế phù hợp, chính quyền có thẩm
quyền quản lý Hoàng Sa Trường Sa liên tục, từ nhà Nguyễn tới thời Pháp thuộc
trong đó có nhiều chính phủ khác nhau và như vậy cho đến sau khi thống nhất các
chính phủ có thẩm quyền đều khẳng định chủ quyền của mình và thực thi liên tục
không đứt đoạn, vấn đề này thể hiện giá trị pháp lý quốc tế.[20]
Cũng theo ông Việt, công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong
hoàn cảnh quan hệ đặc thù, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Trung Quốc lúc đó đang
"vừa là đồng chí vừa là anh em", năm 1955 Trung Quốc đã chiếm lại từ
tay quân đội Tưởng Giới Thạch (Đài Loan) đảo Bạch Long Vĩ (quân Tưởng Giới Thạch
chiếm đảo này từ năm 1949) và năm 1957 đã trao trả lại cho Việt Nam[21]. Theo
ông Việt, Công hàm năm 1958 là để nêu quan điểm ủng hộ tuyên bố lãnh hải 12 hải
lý của Trung Quốc, nhưng "sau này người ta diễn giải khác đi, đặc biệt là
Trung Quốc. Chắc có lẽ ông Đồng cũng không ngờ là sau này công hàm của ông lại
được Trung Quốc diễn giải một cách khác nhau rất nhiều như vậy".[22].
Học giả Pháp, bà Duy Tân Joële Nguyễn, chuyên gia chính trị học và luật quốc tế,
cho biết: "Trong pháp luật quốc tế, ngăn chặn là một nguyên tắc theo đó một
nhà nước phải được coi như liên hệ với hành vi của nó trong quá khứ, và do đó
không thể khẳng định một tuyên bố mới, không thể tuyên bố hoặc hành động mâu
thuẫn với những gì mà nhà nước đó đã tuyên bố hoặc thực hiện từ trước, để bảo
toàn tính chất chắc chắn pháp lý và sự tin cậy giữa các quốc gia. Tuy nhiên,
ngăn chặn không có nghĩa là một nhà nước bị ràng buộc bởi tất cả những gì mà
nhà nước đó đã tuyên bố.
Theo lý luận, có bốn điều kiện phải được đáp ứng. (i) Tuyên bố hoặc quyết định
phải được thực hiện bởi một cơ quan có thẩm quyền một cách rõ ràng và không lập
lờ nước đôi. (ii) Nhà nước tuyên bố "ngăn chặn" phải chứng minh rằng
nhà nước này đã có được lòng tin trong cam kết mà nhà nước này đã thực hiện và
hành động đúng theo; (iii) Nhà nước phải chứng minh rằng quốc gia của mình đã bị
thiệt hại hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi. (iv) Nhà nước đã cam kết phải thực hiện
nhất quán và luôn luôn nhất quán. Kết quả là, nhà nước phải bày tỏ ý định quả
quyết muốn được ràng buộc bởi cam kết này và sẽ tôn trọng nó. Phân tích của
chúng tôi đối với tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng thấy nó không hội đủ nguyên tắc
ngăn chặn nói trên, một số điều kiện còn thiếu, đặc biệt, dự định nhằm công nhận
chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không hề được
trình bày một chút nào trong bản tuyên bố này." [23]
Phía Trung Quốc
Cùng với công hàm năm 1958, các chuyên gia Trung Quốc còn nhắc đến một số sự kiện
khác để chứng mình rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã công nhận chủ
quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước năm 1975
và chỉ tráo trở quan điểm sau khi chiến thắng Việt Nam Cộng hòa. Trong một cuộc
họp mặt ngày 15 tháng 6 năm 1956, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa Ung Văn Khiêm đã nói với đại biện lâm thời của lãnh sự quán Trung Quốc tại
Việt Nam, Lý Chí Dân, rằng: "Căn cứ vào tư liệu của phía Việt Nam, về mặt
lịch sử thì quần đảo Tây Sa và Nam Sa nên là một phần lãnh thổ của Trung Quốc".[24]
Hơn thế nữa, khi báo Nhân Dânđăng tuyên bố toàn văn về hải phận của Trung Quốc ở
trang đầu trong số ngày 4 tháng 9 năm 1958, bao gồm cả Nam Sa và Tây Sa, tờ báo
không đưa ra bất cứ một lời phản đối nào.[24] Các bản đồ thế giới của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa xuất bản năm 1960 và 1972, cũng như sách giáo khoa xuất bản
năm 1974, đều công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với hai quần đảo.[24] Một
tuyên bố của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1965 cũng công nhận chủ
quyền của Trung Quốc khi lên án Tổng thống Lyndon B. Johnson: "'Tổng thống
Mỹ Lyndon Johnson đã chỉ định... một phần lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa trong quần đảo Tây Sa làm "vùng chiến sự" của lực lượng vũ trang
Hoa Kỳ'."[16][24]
Theo chính quyền Trung Quốc vì trong tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung
Quốc nêu rõ phạm vi áp dụng của tuyên bố này bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, hai quần đảo này nằm bên trong lãnh hải rộng 12 hải lí của Trung
Quốc nên dù công hàm Phạm Văn Đồng không nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thì việc Chính phủ Việt Nam công nhận lãnh hải rộng 12 hải lí của Trung Quốc
cũng tức là đã công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc.[cần dẫn nguồn]
Nhận xét của quốc tế
Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á ở Hungary trong một cuộc
phỏng vấn với đài BBC vào năm 2008, cho là công thư trên không nói rõ đó là
lãnh thổ nào: "ông ấy có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ
nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ
của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó
của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng
Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào
về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.[25]
Sam Bateman, nghiên cứu viên lâu năm của Chương trình An ninh Hàng hải tại Trường
Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS, thuộc Đại học Công nghệ
Nanyang,Singapore), có một bình luận tương tự như phía Trung Quốc khi đã viết:
"Đòi hỏi chủ quyền hiện nay của Việt Nam bị yếu đi nghiêm trọng vì Bắc Việt
đã công nhận chủ quyền của Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa vào năm 1958, và
sau đó cũng không có phản đối gì suốt từ năm 1958 đến năm 1975."[26]
Giáo sư Luật Erik Franckx, Đại học Tự do Brussel, Bỉ và là thành viên của Tòa
trọng tài thường trực (PCA), tại triển lãm quốc tế "Hoàng Sa-Trường Sa: Phần
lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam" tại Bảo tàng Đà Nẵng ngày
21/6/2014, ông cho biết: "Cần phải đọc công hàm này rất kỹ, nhất là tuyên
bố của ngài Phạm Văn Đồng, bởi vì nó chỉ nhắc đến việc mở rộng lãnh hải".
Vào thời điểm công hàm được đưa ra (năm 1958), nhiều nước ra tuyên bố mở rộng
lãnh hải 12 hải lý và ông cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng "ủng
hộ cho việc mở rộng đó của Trung Quốc". Tuy nhiên ông nhận định: "Điều
quan trọng là Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập cụ thể đến quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa", nên không thể suy diễn Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung
Quốc đối với Hoàng Sa hay Trường Sa.[27]
No comments:
Post a Comment