Thanh Phương - Trong bản Báo cáo Tình
hình Buôn người năm 2014, vừa được công bố ngày 20/06/2014, bộ Ngoại giao Hoa
Kỳ vẫn xếp Việt Nam vào Danh sách loại 2 ( TIER 2 ), vì chính phủ Việt Nam bị
xem là « chưa tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu, tuy nhiên cũng đã có
những nỗ lực đáng kể nhằm xóa bỏ nạn mua bán người. »
Hãng tin AFP ngày 26/06 vừa qua đã có một bài
nói về nạn buôn phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc để làm vợ, nhằm đáp ứng nhu cầu
của một quốc gia mà chính sách một con đã dẫn đến tình trạng trai thừa gái
thiếu một cách trầm trọng, khiến nhiều đàn ông không kiếm được vợ. Rất nhiều
phụ nữ Việt Nam vẫn tiếp tục là nạn nhân của những đường dây buôn người, nhắm
vào những cộng đồng dân cư nghèo ở các tỉnh miền núi giáp biên giới Việt Trung.
AFP nêu trường hợp của một cô gái 16 tuổi, với
tên được đổi là Kiab để giấu danh tính của cô. Kiab đã bị chính người anh ruột
lừa bán làm vợ cho một người Trung Quốc. Sau khi sống một tháng trong « gia
đình chồng », Kiab đã trốn thoát được. Cảnh sát Trung Quốc đã gởi trả Kiab về
Việt Nam và hiện nay cô sống cùng với khoảng 10 phụ nữ khác trong một trại ở
Lào Cai, do Nhà nước lập ra cho những nạn nhân của các đường dây buôn phụ nữ.
Theo số liệu thống kê của chính quyền Việt
Nam, trong năm 2013 đã có gần 1000 phụ nữ là nạn nhân của các đường dây này,
trong đó 70% là đưa sang Trung Quốc. Theo lời ông Michael Brosowski, thuộc tổ
chức Blue Dragon Children ( đã giải cứu 71 phụ nữ ở Việt Nam từ năm 2007 ), các
phụ nữ này bị bán với giá có thể lên tới 5000 đôla để làm vợ hoặc bán vào các ổ
mãi dâm.
Trong bản Báo cáo Tình hình Buôn người năm
2014, vừa được công bố ngày 20/06/2014, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn xếp Việt Nam
vào Danh sách loại 2 ( TIER 2 ), vì chính phủ Việt Nam bị xem là « chưa tuân
thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu, tuy nhiên cũng đã có những nỗ lực đáng
kể nhằm xóa bỏ nạn mua bán người. »
Bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ nhắc lại rằng
Việt Nam là quốc gia xuất phát của nhiều nam giới, phụ nữ và trẻ em bị mua bán
vì mục đích tình dục hoặc bị cưỡng ép lao động trong nước và nước ngoài.
Việt Nam là quốc gia có nhiều nam giới và phụ nữ di cư ra nước ngoài lao
động thông qua con đường tự túc hoặc thông qua các công ty xuất khẩu lao
động nhà nước, tư nhân và cổ phần.
Sau đó, một số người đã bị cưỡng ép lao động
trong các ngành xây dựng, đánh bắt thuỷ sản, nông nghiệp, khai thác mỏ, khai
thác gỗ, chế tạo, và một số ngành khác, chủ yếu tại Đài Loan, Malaysia, Hàn
Quốc, Lào, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Nhật Bản, và ở mức độ thấp
hơn là tại Trung Quốc, Thái Lan, Cambốt, Indonesia, Anh, Cộng hoà Séc, Đảo Síp,
Pháp, Thuỵ Điển, Trinidad và Tobago, Costa Rica, Nga, Ba Lan, Ukraina, Libya,
Ả Rập Xêút, Jordani và một số quốc gia khác ở châu Âu, Trung Đông và
Bắc Phi.
Cũng theo báo cáo Tình hình buôn nguời 2014
của Bộ Ngoại giao Mỹ, phụ nữ và trẻ em Việt Nam tiếp tục bị bán sang các nước ở
châu Á vì mục đích cưỡng ép tình dục, đặc biệt là Trung Quốc, Cam Bốt,
Malaysia, và Nga. Nhiều nạn nhân người Việt của việc buôn bán tình dục cũng đã
được tìm thấy ở Ghana. Một số phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Macao, Singapore hay Hàn Quốc để thành hôn với người nước ngoài thông qua
môi giới, sau đó đã bị cưỡng ép phục vụ trong gia đình, hành nghề mại dâm, hoặc
cả hai.
Bảo cáo nhắc lại rằng, « làm công trừ nợ, thu
giữ hộ chiếu, và dọa nạt bị trục xuất là những thủ đoạn thường được dùng để bắt
các nạn nhân Việt Nam phải phục vụ ». Các mạng lưới tội phạm có tổ chức của
Việt Nam và Trung Quốc đã đưa những người dân Việt Nam, chủ yếu là trẻ em, sang
Vương quốc Anh và Đan Mạch, buộc họ làm việc trong các trang trại trồng cần sa.
Các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam, hầu
hết là các đơn vị thành viên của các công ty nhà nước, và các nhà môi giới lao
động trung gian không có giấy phép hoạt động, đôi khi đã bắt người lao động
phải đóng những khoản phí vượt quá mức quy định của pháp luật để được đi xuất
khẩu lao động. Kết quả là người lao động Việt Nam phải gánh chịu những khoản nợ
cao nhất trong số những lao động người châu Á, và họ rất dễ rơi vào cảnh bị
cưỡng ép lao động, bao gồm việc phải làm công trừ nợ.
Sau khi đến nước tiếp nhận lao động, một
số người mới nhận ra rằng họ bị bắt buộc phải làm việc trong những điều kiện
tồi tàn, được trả lương rất ít hoặc không được trả lương, bất chấp những
khoản nợ đang đè nặng trên vai, cũng như không được tiếp cận với kênh trợ
giúp pháp lý đáng tin cậy nào.
Theo bộ Ngoại giao Mỹ, báo cáo của các tổ chức
phi chính phủ và của chính phủ cho thấy những kẻ buôn người ngày càng nhắm đến
các nạn nhân ở những vùng sâu vùng xa, là nơi mà mức độ nhận thức của người dân
và chính quyền về nạn buôn người còn thấp. Các tổ chức phi chính phủ cho
biết các đối tượng mua bán người đang tăng cường sử dụng Internet để
dụ dỗ các nạn nhân, dẫn đến số lượng những người Việt Nam thuộc
tầng lớp trung lưu ở thành thị trở thành nạn nhân của những vụ mua
bán người cũng ngày càng tăng.
Theo cuộc khảo sát năm 2012 do tổ chức UNICEF
tài trợ về vấn đề bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại, Việt Nam là
điểm đến của du lịch tình dục trẻ em, mà những kẻ mua dâm chủ yếu là những
người đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Anh, Úc, Châu Âu và Hoa
Kỳ.
Xuất phát từ những thực tế nói trên, báo cáo
của bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra một số khuyến nghị với chính phủ Việt Nam, mà đầu
tiên là phải sử dụng các quy định trong luật mới về Phòng chống Mua bán
người để « kiên quyết » truy tố tất cả các hình thức mua bán người và kết án
và xử phạt những kẻ buôn người, đặc biệt trong những vụ cưỡng bức lao động.
Trả lời phỏng vấn RFI về bản báo cáo nói trên,
tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành tổ chức BPSOS, tại bang Virginia,
Hoa Kỳ, cho rằng lẽ ra bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phải xếp Việt Nam ở thứ bậc thấp
hơn, tức là hạng 3, thay vì hạng 2, vì, theo ông, chính phủ Hà Nội chưa thật sự
quyết tâm bài trừ tệ nạn buôn người, thậm chí đứng đằng sau nhiều vụ buôn
người. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với ông Nguyễn Đình Thắng:
No comments:
Post a Comment