Bài thứ 9, Trong Loạt Bài
Quảng Trị Mùa Hè 72 Trên Đại Lộ Kinh Hoàng
Giao Chỉ, San Jose
Khi đi tìm nhân chứng của 1 chiến trường hết sức oan nghiệt
và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy
xác người trên quốc lộ số 1.
Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù,
đại úy Phan nhật Nam đã viết “ Mùa hè đỏ lửa “. Tác phẩm đem vinh quang cho tác
giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa” đã gắn liền vào tên tuổi Phan nhật Nam.
Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè
cháy” của đại tá pháo binh “quân đội nhân dân” viết về trận pháo kích của trung
đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết
chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây số giữa con sông Thạch Hãn và
Mỹ Chánh trở thành Ðại lộ Kinh Hoàng.
Chúng tôi vẩn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường
của trận thảm sát mùa hè năm 72. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có
cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng.
Anh phóng viên của bộ thông tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng
bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên DC. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo
Lê Thiệp có đi theo trên quốc lộ 1 qua lối này. Năm 2005 nhân dịp gặp ông Thiệp
tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên Ðại lộ Kinh Hoàng thật hay.
Câu chuyện dừng tại đó.
Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã
chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê
huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết
lại thành cuốn sách. Con gái của trung tá Vũ là họa sĩ Hương Alaska có cho phép
chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn.
Nhưng ông Vũ nay không còn nữa. Ðại tá Hà mai Việt, tỉnh
trưởng Quảng trị thời kỳ 72 đã nói rằng : “Tại ông không lưu tâm đọc sách của
tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết
rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu.
Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo
trên quốc lộ mà còn nằm lại 1 đêm giữa các xác chết.”
Sau cùng nhờ ông Hà mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng
sống. Trung sĩ Phan văn Châu năm nay 68 tuổi quả thực là 1 người dân tiêu biểu
của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn.
Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn
giữa trận 72 và trận 75.
Trên Đại Lộ Kinh Hoàng
Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh nào là Nhan
Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao
nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua
quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.
Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết.
Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang
đi công tác về Ái tử.
Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ
dân sự cùng 1 đứa cháu, dẫn vợ có bầu với 3 đứa con nhỏ, năm một, sáu, bẩy, tám
tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên
bờ Bac của sông Thạch Hãn.
Vợ con đi trước 1 đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông
Châu đi xe gắn máy kéo theo 1 chiếc xe gỗ 2 bánh. Hành trang chất đầy, người
kéo, người đẩy chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng
thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với
đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi
chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy
chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở
phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng
thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều
người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác
chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi
cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con.
Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có
người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông
quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng 1 ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của
cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155.
Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được 1 lúc.Toàn thân
ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu
người để uống.
Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và
đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ
con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng
cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn
sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ
đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân
nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được
lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu
của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn
nhớ rõ. Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác
chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm
sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại 1 cánh đồng xác ở đằng
sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát
của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân
địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn
đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là
cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị. Tìm xe quá giang về Huế với
tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay
tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con.
Bà vợ bầu đã dẫn 3 đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương.
Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.
Vợ con dắt díu nhau đi suốt 1 ngày 1 đêm về đến Mỹ Chánh rồi
được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu
qua đời, sau khi sinh cho ông thêm 3 ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng
mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và có gia
đình cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.
Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 72
của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe
pháo kích từ lúc chưa ra đời. Ông Châu nói rằng : Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu.
Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút. Hỏi rằng thế ông
có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu
tiên 6 con. Bà thứ hai 3 con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở
Việt Nam. Tôi đưa cả 3 cháu đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có 1 cháu.
Năm nay cháu cũng 24 tuổi rồi. Bà sau này có 1 con riêng. Như vậy là chúng tôi có
11 con. Thế bác có hạnh phúc không. Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời. Ông Châu
nói rằng, cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi
không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ rằng bây giờ vợ
con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác. Rồi chôn ở đâu. Hàng trăm xác
người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó.
Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm
sao biết được người nào là người nào.
“Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng
niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc
động. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm
sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một
nửa Quảng Trị. Ðứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra
đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ
Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.”
“Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “quê
ở Nhan Biều, bờ Bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung
sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại quân đoàn I . Sau 75 em trốn được. Nếu
khai thật chắc là bị buộc tội CIA.
Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau 3 vợ, 11 người
con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác đây
chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh
hoàng nhưng cũng chỉ có 1 ngày 1 đêm. So với người ta có người cả đời kinh
hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”
Ðó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi.
Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng. “Ông có biết ai đặt tên Ðại lộ kinh hoàng.” “
Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Việt không biết thì ai mà
biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ “.
Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra. Số là vào mùa hè năm 72 đó,
có anh phóng viên trẻ tuổi bút hiệu Ngy Thanh cũng ra chiến trường Quảng Trị.
Anh đã bỏ ra cả 1 ngày dài trên đoạn đường oan nghiệt. Chụp hình các xe cháy,
các xác chết và có được 1 bộ hình hết sức đặc biệt. Khi về lại Saigon viết loạt
bài phóng sự, anh có đặt tên là Ðại lộ Kinh Hoàng. Câu chuyện làm xúc động độc
giả tại thủ đô. Chủ nhiệm là chị Trùng Dương bèn cùng anh chị em quyên góp tiền
bạc ra Trung tổ chức nhặt xác và chôn cất. Câu chuyên ngày đó có lẽ ai cũng
biết, nhưng ngày nay ai cũng quên hết cả rồi. Hành động của báo chí và đồng bào
tự nguyện đứng lên lo việc chung sự cho nạn nhân của đại lộ kinh hoàng là 1 câu
chuyện ý nghĩa nhất trong phần nhân bản của trận Quảng Trị mùa hè 72.
Hai tháng sau đêm kinh hoàng của ông Phan văn Châu, quân miền
Nam vượt sông Mỹ Chánh, phản công Trên Đại Lộ Kinh Hoàngtái chiếm Quảng Trị.
Người phóng viên chiến trường trở lại quốc lộ số 1. Sau đây là phần trích lại
bài phóng sự đăng báo Sóng Thần năm 1972 của Ngy Thanh.
“Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng, không
có lính trấn thủ khi chúng tôi đến. Những mũi dùi tấn công của Nhảy
Dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên quá sông Trường
Phước. Bến Đá bấy giờ có hai cầu. Cầu xe hơi trên QL1 bị phá. Chiếc
cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gảy gục, đoạn giữa cắm xuống sông
thành hình chữ V. Khu đất dầu cầu do QLVNCH trấn giữ trườc đó đã
được đặt nhiều mìn chống chiến xa. Thấy yên lặng và không có người,
cả ta lẩn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gảy qua bên bờ
bắc. Lại lách giữa đám mìn chống chiến xa, để quay trở lại QL1.
Trước mắt chúng tôi, ngay trên bề mặt Quốc Lộ là xác xe. Chiếc ngược
chiếc ngang, phần lớn giở mui không biết vì lý do gì. Nhiều xe cứu
thương đã bị bắn cháy nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai
bên hông. Chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở và thấy xác thương
binh chết nằm, chết ngồi trong đó. Mùi tử khí đã dịu thành mùi
thối, thay vì mùi nồng của xác người như khi mới chết ít hơn 2 tuần.
Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát hai bên đường, bãi phía biển
có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát,
người ta có khuynh hướng chạy ra phía đông là khu vực có thể có
người tiếp cứu trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai
sinh sống. Trên bãi cát nầy chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ
em, xác quân nhân và xác thường dân, cảnh sát. Nhiều xác úp mặt
chồng lên nhau, có lẽ bị bắn chết khi đáng chạy tới để thoát hiểm.”
(Ngy Thanh)
Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, chiến tranh nào mà chẳng
có nạn nhân. Nhưng hình ảnh của 1 đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa 1 chiến
trường thảm khốc đầy xác thường dân như ở đại lộ kinh hoàng vẫn là 1 hình ảnh
đau thương nhất mà chúng ta không thể nào quên được.
Vì vậy tôi cố tìm cho được câu chuyện của 1 nhân chứng đích
thực, còn sống để kể lại hầu quý vị và riêng tặng cho đại tá Nguyễn Việt Hải
chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của quân đội nhân dân, nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tác phẩm “ Mùa hè cháy “xuất bản năm 2005 tác giả đã
viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122 pháo 130, pháo
155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên quốc lộ số 1 vào đám ngụy quân
trên đường bỏ chạy.
Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã
đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn.
Bài báo ngắn ngủi và khiêm nhường hôm nay hy vọng sẽ đến tay
các pháo thủ miền Bắc ngày xưa để họ nhớ lại thành quả vào ngày 1 tháng 5 trong
chiến dịch Nguyễn Huệ 1972.
Ðịnh mệnh nào đã dành cho ông Phan văn Châu còn sống để định
cư tại Hoa Kỳ với 11 người con thành đạt, hàng năm vẫn gửi tiền về giúp cho
miền quê nghèo khổ xứ Nhan Biều. Bây giờ, những mộ phần tập thể của dân oan
chết vì trận mưa pháo Bông Lau năm 72 đã chẳng còn dấu vết. Những đứa bé đói
sửa nằm bên xác mẹ rồi cũng đã chết hết trên đại lộ kinh hoàng 37 năm về trước.
Nhưng mà sao tiếng khóc của em vẫn còn nghe văng vẳng đâu
đây.
Giao Chỉ, San Jose
No comments:
Post a Comment